Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Khóa luận tốt nghiệp nhân vật tha hóa trong tiểu thuyết số đỏ của vũ trọng phụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.64 KB, 32 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
- Vũ Trọng Phụng không chỉ là “ông vua phóng sự của đất Bắc” mà còn
là một tiểu thuyết gia nổi tiếng. Nhiều tiểu thuyết của ông như Giông tố, Vỡ
đê, Số đỏ được xếp vào hàng kiệt tác của nền văn học Việt Nam hiện đại. Từ
những năm cuối thế kỷ XX đến nay, nhiều tác phẩm (hoặc trích đoạn tác
phẩm) của ông đã được được vào sách giáo khoa phổ thông, giáo trình Đại
học-Cao đẳng ở Việt Nam.
- Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng vô cùng phong
phú, đa đạng nhưng loại nhân vật “tha hóa” là một trong những đóng góp nổi
bật của ông cho dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam thời kỳ 19301945 nói riêng và nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung.
- Tìm hiểu nhân vật “tha hóa” trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng không
những góp thêm tiếng nói xác định những giá trị, những đóng góp to lớn của
nhà văn cho nền văn học nước nhà mà còn giúp bản thân hiểu thêm về cuộc
đời và sự nghiệp sáng tác văn học của Vũ Trọng Phụng.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: Nhân vật tha
hóa trong tiểu thuyết “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng.
2. Lịch sử vấn đề
Từ trước tới nay, có khá nhiều công trình nghiên cứu về nhân vật “tha
hóa” nói riêng và nhân vật tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng nói chung. Những
công trình và bải viết mà chúng tôi bao quát, tập hợp được là:
- Vũ Trọng Phụng, sức mạnh tưởng tượng tổng hợp và tiếng cười châm
biếm của GS Nguyễn Đăng Mạnh (in trong Chân dung phong cách-Nxb Văn
học, 2001) đã khẳng định tác phẩm Vũ Trọng Phụng “có khả năng chiếm lĩnh
cuộc sống ở một tầm khái quát tổng hợp”. Đặc điểm nổi bật của ngỏi bút Vũ
1


Trọng Phụng là nghệ thuật trào phúng. Tài nghệ ấy “đã tạo nên một loạt chân
dung những Nghị Hách, Vạn Tóc Mai, Phó Đoan, cậu Phước, Xuân, cụ cố
Hồng…”. Bài viết tuy đề cập đến hiện thực rộng lớn và thế giới nhân vật đông


đảo nhưng chưa đi sâu vào khai thác nhân vật “tha hóa” trong tiểu thuyết của
Vũ Trọng Phụng.
- Vũ Trọng Phụng tác phẩm và lời bình (Nxb Văn học, 2014), tập hợp
nhiều bài viết về cuộc đời và sáng tác của Vũ Trọng Phụng. Đáng chú ý
nhất là các bài viết: Sự thể hiện con người “tha hóa” trong các tiểu
thuyết hiện thực của Vũ Trọng Phụng (Đinh Trí Dũng), Tiểu thuyết “Số
đỏ” và tài nghệ của Vũ Trọng Phụng, Đọc lại “Giông tố”của Vũ Trọng
Phụng (Nguyễn Đăng Mạnh), Nhân vật Xuân Tóc Đỏ trong “Số đỏ”
của Vũ Trọng Phụng (Hà Minh Đức). Những bài viết này đi sâu phân
tích một số nhân vật trong “Số đỏ”, “Giông tố” và đề cập đến một số
nhân vật “tha hóa” trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng.Trong bài Sự thể
hiện con người “tha hóa” trong các tiểu thuyết hiện thực của Vũ Trọng
Phụng, Đinh Trí Dũng đã chia nhân vật “tha hóa” trong tiểu thuyết Vũ
Trọng Phụng làm hai loại là nhân vật “tự tha hóa” và nhân vật “bị tha
hóa”, “nạn nhân tha hóa”. Đây là bài viết khá sâu sắc về nhân vật “tha
hóa” trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng nhưng do khuôn khổ của
một bài báo nên tác giả chỉ dừng ở những nhận định khái quát chứ chưa
đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện về thế giới nhân vật “tha hóa”
trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng.
- Chuyên luận Nhân vật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng của Đinh Trí
Dũng, Nxb Đông Tây, 2005, là một công trình khoa học nghiên cứu về nhân
vật tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng. Thực chất đây là Luận án P.Tiến sĩ của
Đinh Trí Dũng đã được viết lại, in thành sách. Trong Chuyên luận này, Đinh
Trí Dũng sau khi tổng hợp (có phân tích, đánh giá) những bài viết và công
2


trình nghiên cứu trước đây về nhân vật trong tiểu thuyết của Vũ trọng Phụng
đã phân loại, đánh giá từng loại nhân vật. Tuy nhiên, loại nhân vật “tha hóa”
chỉ được nhà nghiên cứu đề cập đến trong một mục nhỏ, mang tính khái quát

chứ chưa đi sâu tìm hiểu, khai thác.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu nhân vật
“tha hóa” trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng phụng một cách đầy đủ, có hệ
thống nhưng những bài báo, chuyên luận trên là những tài liệu quý báu giúp
chúng tôi hoàn thành Khóa luận tốt nghiệp này.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ chính của Khóa luận là nghiên cứu loại nhân vật “tha hóa”
trong tiểu thuyết Số đỏ với các nội dung cụ thể sau:
- Giới thuyết về nhân vật “tha hóa” và nhân vật “tha hóa” trong tiểu
thuyết Vũ Trọng Phụng.
- Tìm hiểu nhân vật “tha hóa” trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng
Phụng.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của Khóa luận bao gồm những tiểu thuyết của Vũ
Trọng Phụng có xây dựng loại nhân vật “tha hóa” như Giông tố, Vỡ đê, Làm
đĩ nhưng trọng tâm là tiểu thuyết Số đỏ.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận kết hợp vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu: Phương
pháp loại hình, phương pháp hệ thống-cấu trúc, phương pháp phân tích, tổng
hợp…
6. Đóng góp mới của khóa luận
Đây là Khóa luận đầu tiên nghiên cứu nhân vật “tha hóa” trong tiểu
thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng một cách tương đối toàn diện, có hệ thống
nhằm làm sáng tỏ những đóng góp nổi trội của nhà văn cho nền tiểu thuyết
3


hiện đại Việt Nam trên phương diện xây dựng nhân vật, phản ánh hiện thực,
phơi bày bộ mặt xã hội thực dân phong kiến thối nát làm tha hóa nhân phẩm
con người.

7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mục lục, Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Khóa luận
gồm có 2 chương:
Chương 1: Nhân vật “tha hóa” trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng
Chương 2: Nhân vật “tha hóa” trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ trọng
Phụng

4


Chương 1
NHÂN VẬT “THA HÓA” TRONG TIỂU THUYẾT VŨ TRỌNG PHỤNG

1. Nhân vật văn học và nhân vật “tha hóa” trong văn học
1.1. Nhân vật văn học
Nhân vật văn học là con người được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm
bằng phương tiện nghệ thuật. Nhân văn văn học có thể có tên riêng (Kim
Trọng, Thúy Kiều, Mỵ, A Phủ, Lý, Sài,…) hoặc không có tên riêng (thằng
bán tư, một mụ nào trong Truyện Kiều của Nguyễn Du; mụ mặt rỗ trong
Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu,….). Cũng có khi khái niệm
nhân vật văn học được sử dụng như một ẩn dụ để chỉ một hiện tượng nổi bật
nào đó trong tác phẩm như “chữ” trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn
Tuân; “nhân dân” trong Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, “đồng tiền”
trong Ơ-giê-ni Gờ- răng-đê của Ban-dắc.
Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật mang tính ước lệ, không thể
đồng nhất với con người có thật trong đời sống xã hội, ngay cả khi tác giả xây
dựng nhân vật với những nét rất gần với nguyên mẫu có thật.
Nhân vật văn học được miêu tả qua các biến cố, xung đột, mâu thuẫn.
Đó là mâu thuẫn trong nội tâm nhân vật, là mâu thuẫn giữa nhân vật này với
nhân vật khác, giữa tuyến nhân vật này với tuyến nhân vật kia. Nhân vật văn

học là một chỉnh thể vận động, có tính cách được bộc lộ dần trong không gian,
thời gian [1, 241-243 và 4, 235-237].
1.2. Nhân văn “tha hóa” trong văn học
Nhân vật “tha hóa” là nhân vật văn học, do nhà văn hư cấu, tưởng tượng
xây dựng nên nhằm phản ánh hiện thực xã hội mục ruỗng, xấu xa đã làm biến
đổi bản chất con người. Theo nghĩa rộng tha hóa là “tình trạng con người bị
bóp nghẹt bởi hoàn cảnh xã hội thối nát, con người không thể sống như mình
5


mong muốn, đánh mất chất người của mình” [2, 136].
Nhân vật “tha hóa” là sản phẩm của chủ nghĩa hiện thực. Sự ra đời của
chủ nghĩa hiện thực tạo ra một bước ngoặt trong việc khám phá con người.
Chủ nghĩa hiện thực luôn gắn với con người, hoàn cảnh, môi trường. Tính
cách nhân vật bị qui định bởi hoàn cảnh và biến đổi theo hoàn cảnh. Do đó, tất
cả các loại người trong xã hội, đặc biệt là loại người xấu xa, kệch cỡm, biến
chất đều được nhà văn quan tâm phản ánh vào tác phẩm.
2.Nhân vật “tha hóa” trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng
Vũ Trọng Phụng không đưa ra những quan niệm về nhân vật “tha hóa”
mà thể hiện bằng hiện thực sinh động trong sáng tác của mình. Ông coi“Văn
chương là một phương tiện tranh đấu của những người cầm bút muốn loại
khỏi xã hội con người những bất công. Nhen lên trong lòng người nỗi xót
thương đối với kẻ bị chà đạp lên nhân phẩm, kẻ yếu, kẻ bị đày đoạ ... Tìm
những phương thuốc khiến những cái ung đó có thể hàn miệng, lên da”.
“Vũ Trọng Phụng không dùng ngòi bút để chống lại một thành phần,
một giai cấp, cũng không trực tiếp chỉ trích sự mục nát, thối rữa của xã hội
Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân, nhìn trên bề mặt mà ông “mô tả sự
tha hóa của con người” trên toàn diện xã hội, dưới chiều sâu, qua nhiều tầng
lớp, nhiều hạng người, mỗi người có một cách tha hóa khác nhau trước thế lực
của tiền bạc và tham ô’’(Thụy Khuê).

Thế giới nhân vật “tha hóa” trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng rất
đa dạng và phong phú. Chúng ta có thể phân nhân vật “tha hóa” thành hai loại
là nhân vật tự tha hóa và nhân vật bị tha hóa.
2.1. Nhân vật tự “tha hóa”
Nhân vật tự tha hoá là những nhân vật “tính cách căn bản đã cố định từ
đầu, nhân vật không thay đổi môi trường sống của mình” [2, 141]. Đó là
những kẻ tham lam tiền bạc, vật chất, đam mê lối sống sa đoạ, tham vọng
6


quyền lực đỉnh cao như Nghị Hách trong Giông Tố, Xuân Tóc Đỏ, bà Phó
Đoan trong Số đỏ, thầu khoán Khoát trong Vỡ đê,…
Nghị Hách trong Giông tố điển hình cho loại nhân vật này. Hắn là một
điển hình nghệ thuật bất hủ về tầng lớp tư sản, đại địa chủ bản xứ trong quá
trình làm giàu và thăng tiến đầy tội ác. Hắn có lối sống xa hoa, "hoang dâm vô
độ". Xuất thân từ một tay thợ nề , sống cùng Hải Vân trong một túp lều tồi tàn
ở Hải Phòng. Nhờ "lừa thầy phản bạn" và mánh khóe mà chẳng bao lâu hắn đã
trở nên giàu có. Ngoài cái danh “địa chủ”, hắn còn là một nhà đại tư bản, một
nhà đại công nghiệp có mỏ than ở Quảng Yên, năm trăm mẫu đồn điền ở tỉnh,
ba chục nóc nhà Tây ở Hà Nội, bốn chục nóc nữa ở Hải Phòng. Cách ăn chơi
của hắn thì y như các vị công hầu khanh tướng trong tiểu thuyết Tàu, có mười
một nàng hầu đặt dưới quyền một mụ quản gia.
Hình ảnh đầu tiên chúng ta bắt gặp trong Giông tố lại là một vụ lừa đảo,
“cưỡng dâm có tổ chức”, một hình ảnh không mấy tốt đẹp mà kẻ cầm đầu, gây
tội ác này không ai khác lại chính là Nghị Hách. Nhân lúc xe bị hỏng, hắn đã
dùng những lời đường mật, đầy mánh khóe gian xảo kết hợp với sử dụng sức
mạnh đồng tiền để phỉnh nịnh, mua chuộc cô thôn nữ ngây thơ, trong trắng:
“- Thế con làm vất vả như thế thì mỗi ngày được bao nhiêu?
- Bẩm chỉ được mỗi ngày sáu xu và hai bát gạo.
- Khổ nhỉ! Thế để quan cho năm đồng con may áo mặc tết nhé! Đây

này, năm cái giấy bạc một đồng đấy, con đem về mà mua nhiêu, mua xã cho
chồng.
- Con xin quan lớn, cảm ơn quan lớn.
- A, nhưng mà con đã có chồng rồi hay là chưa?
Chị nhà quê cúi mặt không đáp, buộc tiền vào thắt lưng xong đứng lên.
- Thôi lạy quan, quan cho con xuống kẻo họ đợi.
7


- Ấy khoan đã! Mặt con tái đi thế kia, khéo không thì trúng phong rồi
đó, để quan lấy cho một tị dầu trong này mà bôi rồi về thì về.
Nhà điền chủ nói xong lấy ở áo ra một lọ gì nhỏ, để đầu ngón tay vào
miệng lọ lắc một cái, rồi quờ tay vào trán chị nhà quê. Chị này cứ để yên và co
ro khép đôi đùi lại, kéo cái váy xuống”.
Nhưng khi bị cô thôn nữ cự tuyệt, bộ mặt thật của con quỹ dâm dục
Nghị Hách hiện nguyên hình, cướp mất đời con gái của cô:
“- Giời ơi! Con lạy ông, ông buông con ra!
Giọng quan vẫn ngọt ngào:
- Con im, không được cưỡng...
- Giời ơi, lạy ông! Ông đừng làm hại một đời tôi!
- Im ngay! Quan sẽ cho nhiều tiền...
- Bỏ ra! Ái.
- Im cho ngoan nào...
- Ối giời đất ơi! Ối làng nước..”.
Với bản chất của một kẻ nham hiểm, hoang dâm, đi đến đâu hắn cũng
gieo rắc tội ác, dùng tiền bạc để dụ dỗ, lừa con gái nhà lành về làm nàng hầu
nhằm thỏa mãn những cơn cuồng dâm của mình. Hắn trả giá “năm đồng” cho
cái “tân” quý giá của người con gái. Một cái giá quá hời cho một nhà tư sản và
quá rẻ mạt cho cái “tân” mà cô gái đã cố gắng giữ gìn! Hành động được coi là
“ăn bánh trả tiền” của hắn là hành động trái với luân thường đạo lý, đi ngược

lại truyền thống nhân văn của dân tộc Việt Nam.
Hắn không những đang tâm “cưỡng dâm” con gái nhà lành mà còn
“khép” cả nhà, cả làng người ta vào tội vu khống. Một xã hội lắm thị phi, đổi
trắng thay đen, cái xã hội mà công lý nhường chỗ cho quyền lực và tiền bạc.
Vũ Trọng Phụng tập trung tô đậm thói dâm đãng, xa hoa của những kẻ có tiền
8


và có thói quen dùng tiền để giải quyết mọi việc, kể cả bẻ cong công lý, lẽ
phải.
Tất cả những kẻ “đại gia” trong cái xã hội “Âu hóa” nửa mùa này đã coi
đồng tiền là vô địch, có tiền là có tất cả. Tiền và quyền là hai thứ vũ khí để
Nghị Hách tiến thân và cũng là công cụ để gã che lấp những tội ác xấu xa, bỉ
ổi của mình. Hắn hối lộ quan huyện không thành đâm ra ghét bỏ, dùng đủ mọi
mánh khóe để hạ bệ quan huyện Cúc Lâm. Hắn lại dùng tiền để gia đình người
bị hắn cưỡng dâm phải quỳ lụy trước hắn. Nghị Hách ỷ lại vào đồng tiền, ỷ
vào sự giàu có của mình mà xem thường công lí. Thái độ ngạo mạn của hắn
bộc lộ rõ nét trong cuộc trò chuyện với quan huyện Cúc Lâm: “Bẩm quan lớn,
nếu việc xảy ra to thì tôi sẽ chống án lên thượng thẩm, mà bên nguyên đơn thì
không thể có tiền chạy thầy kiện như tôi. Bẩm quan lớn, nén bạc đâm toạc tờ
giấy, ngài nên bảo nguyên đơn giải hòa”.
Thói dâm đãng của Nghị Hách dường như đã ngấm vào máu thịt và trở
thành một phần cơ thể hắn. Khi cưới Mịch về làm vợ lẽ, trong lúc Mịch đang
bụng mang dạ chửa nhưng cái tính hoang dâm của gã vẫn không bỏ được:
“Nghị Hách cười một cách đa dâm mà rằng: “Ông … Ông lại … hiếp cho
chuyến nữa bây giờ”.
Đến chính đứa con trai của Nghị Hách -Vạn Tóc Mai-cũng phán xét cha
mình :“Cái thằng cha ấy nó đẻ ra moa, chính là vì một phút điên rồ của xác
thịt đấy!...”.
Một kẻ không có tính người, một hình mẫu “lý tưởng” của xã hội đảo

điên, Nghị Hách là một trường hợp đặc biệt của tội ác: hiếp dâm, giết người,
vu oan giá họa, cướp đoạt tài sản, … miễn sao đạt được mục đích thỏa mãn
tính dâm dục và làm giàu tiến thân. Khi Hải Vân - nhà địa lý, bạn thân của
Nghị Hách cũng là cha đẻ của Tú Anh-trở về đã vạch bày trần bộ mặt ghê tởm
và những tội ác quá khứ của gã. Từ tội lừa thầy phản bạn, cướp vợ bạn; tội
9


cưỡng bức cô Mịch trong một đêm trăng ở làng quê đến tội giết người, lừa đảo
để làm giàu. Tưởng như hắn phải trả giá cho những việc làm nhơ bẩn bằng
việc đối mặt với những sự thật khủng khiếp: Long, con rể của hắn, người yêu
của Mịch lại chính là con hắn, do hắn cưỡng bức vợ Hải Vân sinh ra. Tú Anh,
người con trai hắn yêu thương bao nhiêu năm nay, bỗng nhiên trở thành con
của Hải Vân. Hải Vân chính là người “thắt chặt” những nút thắt loạn luân
trong cái gia đình loạn luân của Nghị Hách. Thế nhưng, Nghị Hách không
cảm thấy ân hận, chua chát, xót xa mà tìm cách tháo gỡ bằng việc cho hai đứa
con đẻ chính thức lấy nhau và mượn luôn tình huống loạn luân ấy để đọc một
bài diễn văn “đầy xúc động” về tấm lòng “thương xót” của hắn đối với bình
dân.
Một lần nữa bộ mặt ghê tởm của hắn lại được phơi bày khi tiếp tục
tranh cử vào Nghị Viện và vờ phát chẩn cho dân nghèo để được thưởng Bắc
đẩu bội tinh. Những lời lẽ lừa mình dối người lại tiếp tục được hắn sử dụng
như một thứ vũ khí hiệu nghiệm. Bài diễn văn giả dối của hắn thỉnh thoảng
phải dừng lại để diễn giả lau nước mắt:“Tôi muốn đem tài trí ra làm việc công
ích nên tôi tranh cử nghị viện. Họ cho tôi là hiếu danh! Tôi muốn tranh cử ghế
nghị trưởng để làm việc ích lợi hơn cho đồng bào, họ công kích tôi là tham
lam, và vô lương tâm, và còn gì nữa? Tôi thấy đồng bào lầm than đau khổ tôi
phát chẩn, cũng lại có một tờ báo tiếng Pháp kia kêu tôi là nịnh dân, là hoặc
dân là buôn dân"
Trên nền tảng của cái xã hội Tây chả ra Tây, Ta chả ra Ta ấy, Vũ Trọng

Phụng đã ném một quả bom vào một xã hội chó đểu khi xây dựng thành công
một hình mẫu điển hình về mọi mặt, mọi phương diện là Nghị Hách-một con
quỷ dâm ô, độc ác, đểu giả, trắng trợn cỡ bạo chúa. Mặt khác, qua nhân vật
Nghị Hách, Vũ Trọng Phụng muốn lên tiếng cảnh báo về sự phát triển của cái
ác đang âm thầm làm biến đổi xã hội, biến đổi bản chất tốt đẹp của con người.
10


Gấp trang sách lại dường như người đọc vẫn thấy nhân vật này đi lại, ăn nói,
tính toán, hành động một cách tai quái, ác hiểm. Nhân vật Nghị Hách trở
thành biểu tượng của cái xấu, cái ác trong xã hội thực dân phong kiến nước ta
trước cách mạng tháng Tám
2.2 Nhân vật bị “tha hóa”
Nhân vật bị tha hóa khác với nhân vật tự tha hoá ở chỗ họ tha hoá nằm
ngoài ý muốn chủ quan của bản thân. Đối tượng của nhân vật bị tha hóa thuộc
đủ các thành phần trong xã hội, từ người nông dân cho đến người tri thức như
Mịch, Long trong Giông tố, Huyền trong Làm đĩ,… Mỗi nhân vật có một quá
trình bị tha hóa riêng nhưng cùng chung một quy luật nghiệt ngã: Quy luật của
sự tha hóa. Đó là tình trạng con người bị bóp nghẹt bởi hoàn cảnh xã hội thối
nát, con người không thể sống như mình mong muốn và dần đánh mất chất
người của mình.
Mịch (trong Giông tố) là một cô gái hiền lành, chân chất, có đôi nét
ngây thơ, khờ dại của những cô thôn nữ quanh năm sống dưới lũy tre làng.
Mịch cũng có chút nhan sắc: “Hai má lúc nào cũng đỏ ửng như say trầu, hàm
răng đen lay láy hạt huyền” và đặc biệt là đôi mắt hút hồn: “Cái cặp mắt ấy
người ngoài trông thấy thì ai cũng phải khen là ngây thơ, hay là dễ hư, hay là
dễ bụng nghe, là lạc quan, là dễ tin đời”. Cô yêu Long-người anh họ xa bên
ngoại-làm thư kí cho Giám đốc Đại Việt Học Hiệu, một người trọng danh dự,
tình nghĩa và có học thức. Nhưng số phận lại không cho cô và Long sống yên
ổn sau lũy tre xanh. Cuộc sống của Mịch thay đổi chỉ sau một đêm. Cái đêm

“Giông tố” mà Nghị Hách đã gây ra cho cô khi đi ngang sang làng Quỳnh
Thôn. Hắn nhẫn tâm tước đoạt sự trong trắng của cô gái trẻ chỉ đáng tuổi con
hắn, hắn đổ tai họa xuống gia đình cô khiến cô từ người bị hại trở thành kẻ vu
khống bị cả làng xa lánh.
11


Mịch ban đầu là nhân vật tiêu biểu cho những người nghèo ở nông thôn
bị ức hiếp, bị xâm phạm nhân phẩm bởi những kẻ có tiền và có địa vị. Mịch là
một cô gái giàu lòng tự trọng, biết ý thức về nhân phẩm của mình. Khi nghĩ
đến “cảnh ấy” Mịch“đỏ bừng mặt lên, tự mình thẹn với mình” và chọn cái
chết để giữ thanh danh và tấm lòng trong sạch với người yêu.
Vũ Trọng Phụng đã xây dựng thành công những nhân vật vừa đáng
thương,vừa đáng ghét. Chúng được lồng ghép vào nhau để làm nổi bật đặc
điểm của từng nhân vật. Khi bị Nghị Hách cưỡng dâm và gia đình bị đổ vạ,
những suy nghĩ chân tình có phần non nớt của nhân vật Mịch làm độc giả
thương xót: “Thị Mịch thổn thức bằng giờ. Chung quanh, những bệnh nhân
toàn là bà ký, bà thông, chẳng ai thèm hỏi đến Mịch. Có u thì u đã phải về, vì
ở làng mình như lại vừa có chuyện gì xảy ra.
Nghĩ đến cái nghèo của bố mẹ, cái ý muốn bán gánh rạ để mẹ đỡ đầu
tắt, mặt tối, nó gây ra việc bị hiếp, Mịch tủi thân giận đời, chỉ muốn chết. Cô
tưởng rằng ở đời, cứ việc ăn ở cho hiếu thuận, làm ăn cho chăm chỉ, thấy ai
túng thiếu thì không dè dặt, cởi ngay hầu bao đưa vài đồng bạc đã để dành
trong mười ngày, và không ngồi lê bắt chấy, kháo chuyện nhà người, thế là đủ
lắm. Bị hiếp! Chưa bao giờ Mịch ngờ lại có khi... Trong cơn đau khổ, cô thấy
mình hồng nhan bạc mệnh, thấy đời là độc ác vô cùng, thấy chị em bạn gái
trong làng là tồi tệ, thấy bố mẹ không đủ sức chống chọi, thấy Trời và Phật là
những đồ thong manh.
Mịch không còn hy vọng gì nữa, không còn tín ngưỡng gì nữa” .
Mịch tự trách mình: “Trời đất ơi, thì ra vì mình dại dột và tham lam”.

Mịch chỉ muốn chết đi cho xong nhưng Long đã níu giữ cô lại khiến cô vừa
cảm thấy ấm áp vừa cảm thấy day dứt trong lòng. Nhưng cuối cùng vì gia đình
cô đành phải cắn răng chấp nhận làm vợ lẽ của Nghị Hách.
Từ khi sau đêm“Giông tố”, Mịch đã biến thành một người đàn bà rắc
12


rối, phức tạp và dâm đãng. Cô cư xử vô duyên, đáng ghét. Cô hách dịch, thẳng
tay trách mắng kẻ ăn người ở theo kiểu bà lớn. Mịch từ một cô gái chân quê,
mộc mạc đã dần dần trở thành một kẻ lì lợm, ngang ngạnh, táo bạo bất chấp
mọi sự trên đời.
Nhân vật Mịch được Vũ Trọng Phụng khắc họa hết sức chân thực trong
phần đầu nhưng càng về sau khối óc hoài nghi về phẩm chất con người của Vũ
Trọng Phụng trỗi dậy đã dần đưa nhân vật Mịch ra khỏi tính chân thực vốn có,
biến cô gái hiền lành ngày nào trở thành thiếu phụ dâm đãng, vô duyên, tự
mãn về sự giàu có của mình để rồi đến cả Long cũng không còn nhận ra Mịchcô gái mà anh từng yêu ngày nào nữa: “Mịch đã đi từ một cô thôn nữ ngây
thơ, hiền lành, chất phác, đến một thiếu phụ gian dâm, lãng mạn, xảo quyệt,
đáng sợ. Mỗi khi đem cái cảnh Mịch còn là cô gái quê lúi húi vớt bèo, mà so
với cảnh Mịch đã là vợ lẽ một anh trọc phú, quần là áo lượt bệ vệ ngồi trên cái
sập gụ khảm, mà cất cao giọng đài các xỉ vả đầy tớ, thì Long không biết rằng
cuộc đời có còn là cuộc đời không, hay là Long đã ngủ mê... Mỗi khi nhớ lại
cái cảnh Mịch vừa tự tử hụt xong mà khóc sướt mướt với Long trong nhà
thương, rồi đem cảnh ấy ra so với trận cuồng dâm mà Long đã bị Mịch lôi kéo
vào, thì Long lại phải lẩm bẩm một cách kinh hoàng: Thật là không thể tưởng
tượng được! Trong cái thời gian chưa đầy nửa năm! Những nguyên nhân nào
đã thay đổi lòng người đến thế?”.
Phải chăng hoàn cảnh đã làm thay đổi bản chất tốt đẹp vốn có của con
người?. Vũ Trọng phụng đã để Mịch trở thành vợ lẽ của Nghị Hách rồi mới
cho cô bộc lộ “bản tính dâm đãng” của mình. Dù tác giả đã đưa ra vô số
những lý do minh chứng cho sự thoái hóa biến chất của Mịch nhưng các lí lẽ

đưa ra không đủ sức biện minh cho những hành động ham muốn nhục dục vô
độ của cô. Từ cô gái dễ đỏ mặt thẹn thùng trước những vấn đề nhạy cảm bỗng
trở nên đắm chìm trong nhục cảm và luôn hồi tưởng đến cảnh bị cưỡng hiếp
13


như một kẻ bệnh hoạn:“Mịch chợt nhớ đến lúc từ con gái mà trở nên đàn bà,
trên chiếc xe hơi. Cái lúc ấy thật là gớm ghiếc, thật là bẩn thỉu, thật là đau
đớn, nhưng trong cơn đau đớn không phải là không có một thứ khoái lạc trong
xác thịt nó làm cho đỡ thấy đau... Xưa kia, cũng đôi khi chợt Mịch hơi nhớ lúc
ấy, song sự hổ thẹn xua đuổi ý nghĩ ấy đi ngay. Nhưng mà từ nay trở đi người
kia sẽ là chồng của Mịch, thì Mịch hẳn là có quyền nhớ lại những phút có cái
cảm giác mới lạ nhất đời mà không là phạm tội lỗi gì cả. Trong lúc này, con
vật đã nổi dậy trong lòng cô gái quê mập mạp, trẻ trung, đương thì... Mịch nhớ
lại lúc ấy một cách say sưa như người háu đói vậy”.
Kinh khủng nhất là hành động “ngoại tình bằng tư tưởng” của Mịch làm
người đọc cảm thấy ghê tởm. Chính những chi tiết này đã làm lu mờ đi những
ấn tượng tốt đẹp mà Vũ Trọng Phụng đã dày công xây dựng cho nhân vật
Mịch trước đó. Tác giả đã khắc hoạ rõ nét đời sống nội tâm bằng những dằn
vặt trong lương tâm và những độc thoại nội tâm của nhân vật để thấy được sự
biến chất, tha hoá trong con người Mịch. Vũ Trọng Phụng hoàn toàn trái
ngược với Ngô Tất Tố khi miêu tả về người phụ nữ. Ngô Tất Tố miêu tả một
chị Dậu theo chuẩn mực đạo đức truyền thống: chung thủy, hiếu hạnh, giàu
tình thương yêu dù gặp bao nhiêu khó khan vẫn luôn giữ trọn khí tiết, một
lòng son sắc, thủy chung với chồng. Ngô Tất Tố tin yêu con người bao nhiêu
thì Vũ Trọng Phụng lại hoài nghi về con người bấy nhiêu.
Cũng giống như Mịch, nhân vật Long (trong Giông tố) đã để lại trong
lòng người đọc nhiều trăn trở. Long là người vừa đáng thương vừa đáng ghét.
Thương cho chàng trai có tình yêu trong trắng nhưng không thành. Ghét vì
chàng sau khi đã quyết định tha thứ cho Mịch nhưng luôn tự vấn, dằn vặt bản

thân về sự "mất tân" của người yêu. Và đáng lên án nhất là những hành động
trái với luân thường đạo lý, trái với lương tâm.
Long, một người có tư tưởng tiến bộ, xuất hiện với tư cách là chồng
14


chưa cưới của Mịch. Khi biết tin Mịch bị cưỡng hiếp đã không ruồng bỏ Mịch
mà an ủi, động viên Mịch khi cô rối trí, muốn quyên sinh. Nhưng tình yêu và
lòng vị tha của chàng không vượt qua được định kiến và sự cảm dỗ của đồng
tiền, của danh vọng. Chỉ cần Tú Anh-con trai cả của Nghị Hách cũng là ông
chủ của Long- khuyên nhủ vài câu và hứa hẹn sẽ gả em gái cho thì Long đã từ
bỏ ngay người vợ chưa cưới của mình, gián tiếp đẩy Mịch vào con đường tha
hóa.
Long và Mịch là hai con người có chung một số phận, chung hoàn cảnh
và là nạn nhân của cái xã hội “chó đểu” Tây chả ra Tây, Ta chả ra Ta. Vũ
Trọng Phụng xây dựng hình tượng nhân vật Long trở thành nhân vật “đa tính
cách”. Một người đàn ông chung thủy, sắt son, có học thức nhưng chỉ vì một
bước lầm lỡ tin vào kẻ đạo đức giả mà nhẫn tâm đẩy người mình yêu vào tay
một kẻ hoang dâm vô độ. Tuy sống trong giàu sang nhưng luôn bị dằn vặt,
không quên được người yêu cũ nên Long thường xuyên tìm cách gian díu với
Mịch. Đến khi phát hiện ra sự thật cay đắng bố vợ của mình, chồng của Mịch
lại chính là bố đẻ của mình, Long gào thét như hóa điên:“Tôi? Tôi mà lại là
con ông Nghị Hách! Ồ! Thế thì quá lắm! Thế thì quá lắm! Thế thì ra bố hiếp
vợ của con, con thông dâm vợ của bố... rồi thì anh em ruột... anh em ruột...”.
Vũ Trọng Phụng đưa người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên
khác. Một “vòng loạn luân thu nhỏ” dần hé mở, sự thật giấu kín được phơi
bày. Những tình tiết độc đáo và bất ngờ làm câu chuyện thêm lôi cuốn, hấp
dẫn. Long tự đưa mình đến với con đường sa đọa, đắm chìm trong “nàng tiên
nâu”, “động bàn tơ” của các nhà chứa để rồi trái tim càng ngày càng đau đớn.
Và cái chết trong vòng tay của cô gái làng chơi phải chăng là cái kết có hậu

cho cuộc đời đầy bế tắc của Long?
Vượt lên truyền thống của văn học đương thời theo khuynh hướng ngợi
ca tình yêu lý tưởng với những sắc màu của xã hội Âu hóa, Vũ Trọng Phụng
15


đã đi thẳng vào vấn đề thực tế của đời sống xã hội, quan tâm đặc biệt đến
những số phận con người nhỏ bé, trực tiếp đề cập đến những đòi hỏi của đời
sống tình dục- một vấn đề rất tế nhị, dường như bị cấm kỵ lúc bấy giờ. Làm đĩ
là một cuốn tiểu thuyết như vậy, cũng chính là cuốn tiểu thuyết gây ra nhiều
tranh cãi trong gần tám mươi năm qua. Thậm chí nó còn bị kết án là “dâm
thư”, làm tổn hại đến vấn đề đạo đức và luân lý đối với thế hệ trẻ.
Làm đĩ là một tiểu thuyết thực nghiệm, xoay quanh câu truyện về cuộc
đời đầy gian truân của Huyền. Vũ Trọng Phụng để nhân vật tự kể về cuộc đời
mình như một lời than vãn, khuyên nhủ con người. Nỗi đau khổ của người
phụ nữ gắn liền với khao khát tình dục, những cảnh ân ái trần tục khiến cuộc
đời Huyền thêm phần chua chát, đắng cay trong mắt độc giả. Tuy sống trong
cảnh ô nhục nhưng Huyền không chôn vùi tâm hồn mình trong vũng bùn ấy.
Cô vẫn ngày ngày viết lại nhật ký về cuộc đời mình và muốn lưu lại như một
thứ “bằng chứng xác thực” để cảnh tỉnh những cô gái đang tuổi trăng tròn để
họ không lặp lại vết xe đổ đó. Vũ Trọng Phụng để Huyền làm như vậy phải
chăng chính ông cũng muốn làm điều gì đó có ích cho đời, cứu vãn những con
người đang trên bờ vực sa ngã? Đằng sau cái lớp vỏ phê phán, mỉa mai, phải
chăng là một niềm đau xót, cảm thông, xót thương cho kiếp “hồng nhan bạc
mệnh” của Huyền nói riêng, của những người phụ nữ lầm lỡ nói chung.
Huyền là một cô gái thông minh, xinh đẹp, sinh trưởng trong một gia
đình danh giá và được thừa hưởng nền giáo dục phong kiến hà khắc, khuôn
mẫu. Như bao cô gái trẻ khác, Huyền luôn tò mò, khao khát tìm hiểu về vấn
đề giới tính nhưng không được cha mẹ, người thân đáp ứng. Vì thế, những
thắc mắc không có lời giải ấy ngày càng lớn dần trong cô. Bởi vậy, cái tính

dâm đãng vô tình đã ngấm vào máu cô khi nào không biết. Rồi cô bị chính cha
đẻ của mình chửi thẳng vào mặt là “đồ đĩ” chỉ vì mặc cái quần vải trắng tân
thời. Một câu nói phũ phàng gây tổn thương tâm hồn ngây thơ, trong trắng của
16


cô gái mới lớn. Trong khi chính ông lại cưới một cô gái tân thời làm vợ lẽ
khiến mẹ cô tức giận bỏ đi.
Trong lúc Huyền đang say đắm trong thế giới riêng về những vấn đề
nam nữ thì Nguyễn Lưu, người anh họ xa của cô xuất hiện. Vì tò mò, vì muốn
khám phá sự bí ẩn của tình dục nên cô đã thông dâm với anh ta. Mối tình vừa
chớm nở đã không đơm hoa kết trái bởi cha mẹ cô tìm cách gả cô cho một
người có học thức, giàu có. Nguyễn Lưu tìm đủ mọi cách để hai người được
bên nhau nhưng không thành. Nguyễn Lưu phải tìm đến cái chết còn Huyền
phải lấy chồng.
Đêm tân hôn, khi Huyền vô cùng lo sợ về chuyện “mất tân” thì chồng
cô lại tự thú là mình mắc bệnh giang mai đang chữa trị và cầu xin Huyền tha
thứ. Được chồng nuông chiều, cô đâm ra sa đọa, đắm chìm trong cuộc sống
thượng lưu, luôn khao khát ái ân. Chính những khao khát không được thỏa
mãn đó là nguyên nhân dẫn đến tấn bi kịch trong cuộc đời Huyền. Cô gặp
Tân-bạn của chồng-một người giàu có, phong tình, sành sõi. Bản năng trong
Huyền trỗi dậy. Cô đắm chìm trong cuộc tình vụng trộm với Tân và bị chồng
phát hiện đuổi ra khỏi nhà. Cũng lúc ấy, cô phát hiện ra bộ mặt đểu giả, lừa
đảo của Tân. Cô sụp đổ hoàn toàn, mọi thứ trước mắt cô chỉ toàn màu đen. Cô
tìm Tân khắp nơi nhưng tất cả đều vô vọng. Một cuộc rượt đuổi, tìm kiếm tia
hy vọng nhưng bất thành. Mọi cánh cửa đã khép lại với cô. Huyền buộc phải
dấn thân vào con đường “bán thân nuôi miệng”.
Môi trường gia đình và xã hội đã góp phần tạo lập nên tính cách con
đĩ của Huyền nhưng cũng chính Huyền đã tạo cho xã hội một cánh nhìn
mới về cái nghề mà mọi người xem là thấp hèn trong xã hội. Đó là cả một

quá trình tha hóa và quá trình tìm lại nhân cách, tìm lại chữ “ người” của
Huyền. Nhân vật Huyền mà Vũ Trọng Phụng xây dựng nên đã đạp tung bức
17


tường giả dối, đả kích chế độ phong kiến kìm hãm bản năng của con người,
nhất là của người phụ nữ.
Vũ Trọng Phụng cho rằng môi trường, hoàn cảnh xã hội và gia đình
quyết định tính cách của Huyền, nhưng cũng chính môi trường đó đã biến
Huyền thành “con đĩ’ trong lớp vỏ là cô gái con nhà danh giá, có giáo dục. Có
thể nói Huyền đã có cú lội ngược dòng ngoạn mục để khẳng định quyền sống,
quyền làm người bởi tình dục là một phần của tình yêu, là một nhu cầu tất yếu
của con người cần được xã hội thừa nhận. Đó cũng chính là khát vọng giải
phóng con người của nghệ sỹ của Vũ Trọng Phụng. Đây là logic tất yếu của sự
tồn tại không thể nào đảo ngược và là căn nguyên sâu xa cho những lý lẽ khả
dĩ đem lại một cái nhìn thật sự nghiêm túc về Làm đĩ của ông.

18


Chương 2
NHÂN VẬT “THA HÓA” TRONG TIỂU THUYẾT SỐ ĐỎ
CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
1. Thế giới nhân vật “tha hóa” trong tiểu thuyết Số đỏ
Thế giới nhân vật “tha hóa” trong tiểu thuyết Số đỏ rất đa dạng và
phong phú. Vũ Trọng Phụng đi sâu vào từng nhân vật, tìm ra những đặc điểm
riêng, cách thức tha hóa riêng của các nhân vật. Đó là các nhân vật điển hình
đã bước ra ngoài trang sách sống với cuộc đời như Xuân Tóc Đỏ, bà Phó
Đoan, cụ cố Hồng, vợ chồng Văn Minh,….
Trong Số đỏ, chúng ta bắt gặp hình ảnh tha hóa đủ mọi thành phần, đủ

mọi lứa tuổi, từ trẻ đến già, từ trí thức đến bình dân, từ ông chủ đến cả những
người thi hành pháp luật. Một thế giới nhân vật đông đúc, phức tạp, đủ các
hạng người, kiểu người được đặt vào một bối cảnh xã hội bát nháo, điên đảo,
Âu Hóa nửa mùa mà Vũ Trọng Phụng gọi là “xã hội chó đểu” với những con
người “chó đểu”.
Nhà văn đã xây dựng thế giới nhân vật “tha hóa” hết sức sáng tạo, độc
đáo theo kiểu tả chân chen lẫn ngòi bút phóng sự sắc bén. Nhân vật hiện thực
trào phúng xuất hiện với những chi tiết, hành động kì quái. Mỗi nhân vật có
những tính cách, hành động riêng biệt. Chúng ta có thể chia thế giới nhân vật
“tha hóa” trong Số đỏ thành các loại sau:
1.1. Nhân vật “tha hóa” là ông, bà chủ
Đại diện tiểu biểu cho những ông chủ, bà chủ thuộc tầng lớp thượng lưu
trong xã hội Việt Nam những năm 30 của thế kỷ trước đã được Vũ Trọng Vũ
dựng lên trong tiểủ thuyết Số đỏ là cụ cố Hồng, bà Phó Đoan.
Nhân vật bà Phó Đoan gây được ấn tượng mạnh bởi bản chất “dâm”,
lẳng lơ chính hiệu. Bà chẳng những trải qua hai đời chồng mà còn vô cùng
hứng thú khi nghe kể chuyện hiếp dâm, chuyện trăng gió thế mà lại được
19


người đời phong tặng “tiết hạnh khả phong” và ca tụng “thủ tiết hai đời
chồng”.
Cụ cố Hồng là một người cổ hủ mà cứ tỏ ra mình là người có học. Câu
nói cửa miệng “Biết rồi! Khổ lắm! Nói mãi” luôn được cụ lặp lại trong mọi
ngữ cảnh, trong mọi tình huống. Chỉ trong mấy ngày tang mà thằng bồi đếm
được 1872 lần cụ đã thốt lên câu ấy. Hơn thế, cụ lại nghiện thuốc phiện nặng,
luôn mơ đến lúc mặc đồ xô gai, chống gậy lụ khụ rồi ho, khạc, mếu để người
ta khen: “Con giai nhớn đã già đến thế kia kìa!”.
1.2. Nhân vật “tha hóa” là trí thức
Điển hình cho loại nhân vật “tha hóa” trí thức là Văn Minh. Anh ta là

con trai cả của cụ cố Hồng, một thời du học bên trời Tây, chả có bằng cấp gì,
nhưng luôn tỏ ra là nhà trí thức, bày trò “cải cách xã hội”. Bộ mặt giả dối, bịp
bợm ẩn sau lớp vỏ trí thức, luôn hô hào người khác tập thể thao để nâng cao
sức khỏe trong khi bản thân mình chưa tập bao giờ. Hắn tự đặt cho mình cái
tên coi như hành động mở màn cho cuộc “cải cách”: Văn + Minh = Văn Minh
(Minh là tên của hắn, Văn là tên vợ hắn)-một cái tên giàu sự sáng tạo chỉ có
hắn mới nghĩ ra. Nói đúng ra là một sự kết hợp tuyệt vời của tạo hóa. Một cặp
vợ chồng cùng “cải cách xã hội” khi cho ra đời tiệm may Âu Hóa nhằm tạo ra
cuộc cải cách cả bên ngoài lẫn bên trong.
Ông Phán, biệt danh Phán mọc sừng, là kẻ thích thú với danh hiệu mà
cô vợ lẳng lơ, đa đâm “gắn” cho. Gã biết bị “cắm sừng” nhưng vẫn dửng
dưng, thậm chí lấy làm tự hào về đôi sừng hươu cắm trên đầu. Hơn thế, gã còn
thuê Xuân Tóc Đỏ với giá chục đồng bạc để nói câu: “Thưa ngài, ngài là một
người chồng mọc sừng!” trước mặt mọi người trong nhà cụ Cố Hồng để kiếm
lợi.
Hoàng Hôn-vợ ông Phán mọc sừng- là một người sùng Âu Hóa, xem
việc ngoại tình như món ăn tinh thần không thể thiếu. Coi ngoại tình là “cái
20


mốt” của những cô gái tân thời. Có chồng mà không ngoại tình thì trở nên cổ
hủ, đâu còn là một phụ nữ tân thời sống giữa thời đại Âu Hóa văn minh?
Vũ Trọng Phụng xây dựng nhân vật Tuyết như một dẫn chứng rõ nét về
sự thoái hóa toàn diện của thế hệ trẻ, là một hồi chuông cảnh báo, thức tỉnh
những người đang đắm chìm trong cuộc Âu Hóa nửa mùa. Cô Tuyết một
“trang bán sử nữ”-còn nửa chữ trinh-có chồng chưa cưới nhưng vẫn cố tình
gian díu với Xuân để chồng chưa cưới hủy hôn. Trong ngày tang lễ ông nội,
cô vận trang phục “ngây thơ” với cái áo dài voan mỏng, hở cả nách và nửa vú,
đội một cái mũ mấn xinh xinh, đúng mốt của nhà có tang để chứng tỏ cho
thiên hạ thấy mình chưa đánh mất cả chữ trinh.

Cậu Tú Tân-con trai út cụ cố Hồng-vui mừng có ngày tang để trổ tài
chụp ảnh. Cậu cùng các bạn trèo lên mộ phần người ta để chụp hình cho cảnh
không giống nhau, chỉ đạo quát mắng mọi người tạo dáng chụp hình như một
nhà nhiếp ảnh thực thụ.
Còn Típ Phờ Nờ-nhà thiết kế trang phục Âu Hóa-luôn miệng hô hào cải
cách xã hội, cải cách trang phục và tạo ra những mốt quần áo Âu Hóa hở hang
nhất, quyến rũ nhất nhưng lại cấm vợ không được mặc trang phục ấy vì sợ mất
thể diện, sợ thiên hạ cho là đĩ thõa. TYPN cái tên đầy ý nghĩa và rất Tây. Hắn
đã cắt nghĩa cái biệt danh TYPN một cách đầy kiêu hãnh: Tôi-yêu-phụ-nữ,
nhưng người đời lại đọc theo kiểu nửa Tây nửa Ta là Típ Phờ Nờ. Vũ Trọng
Phụng làm cho người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Yếu tố độc đáo
và bất ngờ như một thứ gia vị đặc biệt trong các tác phẩm của ông.
1.3. Nhân vật “tha hóa”là những kẻ thi hành pháp luật và sư sãi
Nhân vật “tha hóa” đại diện cho những kẻ chấp pháp mù quáng như
Min Đơ, Min Toa. Chúng suốt ngày rong ruổi khắp phố để tìm cách phạt cho
đủ chỉ tiêu. Chúng mừng vui như trẩy hội vì kiếm được một món hời khi được
nhà cụ cố Hồng thuê giữ trật đám tang.
21


Đến cả nhà sư mà người ta luôn cho là nhân đức mẫu mực, không tranh
chấp với đời nay cũng chạy đua theo Âu Hóa. Sư Tăng Phú-người sáng lập ra
báo Gõ Mõ-luôn miệng nói chả tranh giành với đời nhưng ai đụng vào sư thì y
như rằng bị kiện cho thua trợn mắt. Sư vào hùa với Xuân, tạo nên cảnh kệch
cỡm trong đám tang. Sư mượn tay Xuân để hạ bệ uy tín của Giáo hội Phật
giáo.
1.4. Nhân vật “tha hóa” là bình dân
Nhân vật “tha hóa” thuộc tầng lớp bình dân là lang Tỳ, lang Phế và
điển hình là Xuân Tóc Đỏ (chúng tôi sẽ trình bày kỹ ở phần 2, chương 2).
2. Xuân Tóc Đỏ điển hình cho hình mẫu nhân vật “tha hóa”

Xuân Tóc Đỏ đúng như cái tên, bắt đầu bước vào câu chuyện cho đến
khi kết thúc chuyện toàn gặp những chuyện may mắn. Hắn bịp người chỉ bằng
một bài quảng cáo thuốc lậu. Hắn sử dụng câu học mót của TYPN: “Chúng tôi
rất được hân hạnh” mỗi khi tiếp khách hàng nữ. Hắn đưa ra những lời khoe
mẽ khi giới thiệu về bản thân: “Me sừ Xuân, giáo sư quần vợt, cái hy vọng của
Bắc Kỳ”. Những “phẩm chất” ấy đã tạo nên cái tên Xuân Tóc Đỏ. Hắn được
Vũ Trọng Phụng xây dựng trên cơ sở tổng hợp những nét “đặc trưng” nhất của
các hạng người trong xã hội tạo thành nhân vật điển hình nhất trong những
nhân vật điển hình. Vũ Trọng Phụng đã vận dụng khéo léo nghệ thuật trào
phúng, bút pháp phóng đại trong môi trường xã hội “chó đểu” với những con
người “chó đểu”, tạo tiếng cười cho độc giả xuyên suốt tiểu thuyết.
Sinh ra thuộc tầng lớp dưới đáy xã hội, mồ côi cả cha lẫn mẹ, Xuân đi ở
cho nhà bác họ. Nhưng mới chín, mười tuổi, Xuân đã có hành động bỉ ổi, bị
bác đánh và đuổi đi. Không nhà, không cửa, không người thân thích, hắn sống
lang thang bằng đủ mọi nghề mạt hạng. “Xuân lấy đầu hè xó cửa làm nhà, lấy
sấu ở các phố, cá hồ Hoàn Kiếm làm cơm. Nó đã bán phá xa, bán nhật trình,
làm chạy hiệu rạp hát, bán cao đan hoàn tán trên xe lửa, và vài ba nghề tiểu
22


xảo khác nữa. Ánh nắng mặt trời làm cho tóc nó đỏ như tóc Tây. Cảnh ngộ đó
tạo nó nên một đứa hoàn toàn vô giáo dục, tuy nó tinh quái lắm, thạo đời
lắm”.
Tóc Đỏ như một dấu hiệu nhận biết, như một đặc điểm nhận dạng mà
Vũ Trọng Phụng gán cho Xuân Tóc Đỏ. Nó là sản phẩm của xã hội đường
phố, của môi trường vô giáo dục, không ai dạy dỗ, kèm cặp, phải lang thang
kiếm sống với nhiều nghề phức tạp nên sớm trở thành một kẻ lưu manh, tha
hóa thực thụ. Bản chất lưu manh của hắn được thể hiện từ cách ăn nói tục tĩu
“mẹ kiếp”, ‘nước mẹ gì” đến hành động nhìn trộm con gái tắm, nhìn trộm bà
đầm thay đồ… Thế nhưng trong một hoàn cảnh đặc biệt hắn được nhập vào

môi trường của những kẻ giàu có, những con người dang ôm ấp mộng Âu hóa
và cải cách xã hội như bà Phó Đoan, ông bà Văn Minh, ông Típ-phờ-nờ...
Bà Phó Đoan sau lần đầu gặp và tỏ thái độ khinh bỉ, đã thông cảm và
thương xót cho Xuân:“Trẻ trung ai chả có khi dại dột?Tha thứ là phải, chấp
làm gì thiếu niên? Rõ khổ, rõ tội nghiệp! Đuổi người ta như thế mà đành
lòng!”. Hơn thế, bà đã dang tay cứu vớt, đưa hắn từ môi trường hạ lưu lên địa
vị thượng lưu, chuyên trách quảng cáo ở tiệm Âu Hóa, cái cửa tiệm mà hắn
vừa bước chân vào cửa đã văng ra những câu tục tĩu: “Mẹ kiếp! Chữ với chả
nghĩa!, “ Mẹ kiếp! Quần với chả áo”.
Bằng miệng lưỡi, thủ đoạn, mánh lới của một gã chuyên rao bán thuốc
lậu, Xuân Tóc Đỏ có đủ khả năng để tạo dựng chỗ đứng, lôi kéo khách hàng
cho vợ chồng Văn Minh. Hắn tận dụng triệt để những gì hắn học mót được,
những gì cuộc đời dạy hắn kết hợp với cái “Số đỏ” của mình để chứng minh
cho người khác thấy gã là bậc tri thức, sinh viên trường thuốc. Chỉ bằng một
đoạn trong bài quảng cáo thuốc lậu mà hắn đã khiến cụ cố Hồng bái phục:
“Xuân Tóc Đỏ không ngờ rằng khi xưa, lúc nó ngồi đọc quảng cáo cho một
hiệu thuốc vào phóng thanh, và ngồi trên mũi ô tô với bộ quần áo Charlot và
23


cái mặt nạ thổi loa khắp phố phường cho một "ông vua thuốc lậu" Nam Kỳ,
thì chính là nó tập đi đến khoa học và do thế đến sự phú quý”.
Tiếng cười trào phúng vang lên, chỉ có Vũ Trọng Phụng mới có thể
phóng đại đến mức này và cũng chỉ có cụ cố Hồng mới tin vào những lí lẽ che
đậy sự ngu dốt của Xuân. Các nhân vật xoay quanh Xuân Tóc Đỏ như làm nền
để tôn hình tượng nhân vật Xuân nổi bật lên. Nhờ thế, một kẻ vô học, ngu dốt
bỗng chốc trở thành nhà tri thức, nhà cải cách xã hội… có thể lừa được cả một
ông già trên người đầy huy chương minh chứng cho một bậc học giả.
Khi được một người đàn ông nghiêm trang tự giới thiệu mình là một
người chồng mọc sừng và thuê hắn chục đồng bạc để mỗi lần trước mặt gia

đình cụ cố Hồng chào gã một câu: “Thưa ngài, ngài là một người chồng mọc
sừng!”, hắn đã chọn đúng thời điểm thốt lên câu ấy để kiếm lời về tiền bạc và
uy thế cho bản thân. Câu chào ấy tuy làm cụ cố tổ qua đời nhưng cả nhà cụ cố
Hồng ai cũng vui sướng và coi Xuân là người có công, là ân nhân cho gia đình
họ.
Sau khi cụ cố tổ mất, hắn trốn biệt cho cả nhà, nhất là cô Tuyết, chờ
đợi, mong mỏi. Đùng một cái, lúc đám tang theo cả lối Ta, Tầu, Tây, “có kiệu
bát cống, lợn quay đi lọng, cho đến lốc bốc soảng và bú dích, và vòng hoa, có
đến ba trăm câu đối, vài ba trăm người đi đưa, lại có cậu Tú Tân chỉ huy,
những nhà tài tử chụp ảnh đã thi nhau như ở hội chợ… có thể làm cho người
chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng” thì Xuân Tóc Đỏ
xuất hiện, “góp vui” một đoàn xe tang: “Xe nào cũng che lọng, từ một ngả len
vào chiếm chỗ sau năm lá cờ đen. Hai vòng hoa đồ sộ, một của báo Gõ Mõ,
một của Xuân len vào hàng đầu” giúp cái chết của cụ cố tổ thêm phần long
trọng, vui vẻ, xứng đáng là “hạnh phúc của một tang gia”. Xuân nghiễm nhiên
trở thành “ân nhân” gia đình cụ cố Hồng như lời nói của Văn Minh: “Xuân tuy
phạm tội quyến rũ một em gái ông, tố cáo cái tội trạng hoang dâm của một em
24


gái khác nữa của ông, nhưng tình cờ đã gây ra cái chết của ông cụ già đáng
chết. Hai cái tội nhỏ, một cái ơn lớn”. Cái ơn lớn ấy xóa nhòa, làm tan biến hai
cái tội nhỏ. Phải công nhận Xuân Tóc Đỏ có tài đổi trắng thay đen như những
kẻ lừa đảo, bịp bợm chuyên nghiệp. Gián tiếp giết người nhưng không bị
trừng phạt mà lại được tôn vinh, được thân nhân của người chết cảm ơn, xem
là ân nhân. Qua đó, chúng ta thấy Vũ Trọng Phụng đã vạch trần bộ mặt xấu
xa, vô nhân tính của lũ con cháu trong gia đình cụ cố Hồng.
Từ một kẻ vô lại, vô học bỗng chốc Xuân Tóc Đỏ trở thành đốc tờ, triết
gia, thi sĩ, nhà cái cách xã hội, anh hùng cứu quốc,…Nghịch lý này được Vũ
Trọng Phụng vẽ ra bằng những nét nguệch ngoạc, tùy tiện tạo thành một bức

chân dung biếm họa.
Thoạt đầu, khi được tung hô và gắn cho những cái mác to tát,“hắn sợ
lắm, nghĩ ngay đến Sở Cẩm, sở Mật thám, Tòa án mà chủ cũ nó có thể nhờ
Nhà nước tra tấn kìm cặp nó về tội quyến rũ con gái nhà tử tế”. Một nỗi sợ hãi
dâng lên trong lòng, hắn hối hận về lời nói, việc làm của mình mà thú thật với
Văn Minh: “Thưa ông, cái hôm ông gọi đùa tôi là sinh viên trường thuốc trước
mặt cụ cố thì ông đã làm cho Tuyết phải đem lòng yêu tôi. Nếu Tuyết lấy tôi
thì Tuyết nhầm vô cùng, và tôi mà lấy Tuyết thì tôi lại đánh lừa một người con
gái tử tế!”. Nhưng dần dần sống gần gũi với tầng lớp thượng lưu, Xuân đã
phát hiện và tiêm nhiễm bản chất bịp bợm, dối trá, thích phô trương, khoa mỹ
của bọn chúng nên hắn đã “quên” cái lí lịch không mấy trong sạch trước đây
của mình. Lúc này, Xuân nghiễm nhiên tự coi mình là trí thức, là nhà thơ, là
thầy thuốc, là chuyên gia quần vợt,… ngang hàng với những bậc thức giả,
những anh hùng cứu quốc.
Trong trận đấu giao hữu với tay vợt hàng đầu nước Xiêm La, Xuân
“quên” mình được thi đấu là nhờ thủ đoạn để loại hai quán quân quần vợt Bắc
Kỳ. Hắn vô cùng hả hê, sung sướng khi được coi là “anh hùng cứu quốc”, là
25


×