Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Chủ nghĩa thực dụng và tác động của nó đến lối sống của thanh niên việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (838.41 KB, 68 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=====***=====

BÙI THỊ HẰNG

CHỦ NGHĨA THỰC DỤNG
VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN LỐI SỐNG
CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. VI THÁI LANG

HÀ NỘI - 2014


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện khóa luận, ngoài sự cố gắng của bản thân em
đã nhận được sự giúp đỡ của thầy cô và bạn bè. Em xin bày tỏ lời cảm ơn
chân thành nhất tới Tiến sĩ Vi Thái Lang - người đã tận tình hướng dẫn em
hoàn thành khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong trường Đại Học Sư Phạm
Hà Nội 2, đặc biệt là các thầy cô trong khoa Giáo Dục Chính Trị đã giảng
dạy, chỉ bảo em trong suốt thời gian qua.
Tôi xin cảm ơn các bạn sinh viên đã góp ý và ủng hộ tôi hoàn thành khóa
luận này.
Với điều kiện hạn chế về thời gian cũng như kiến thức của bản thân, nên
khó tránh khỏi những thiếu xót, em kính mong nhận được sự đóng góp của


thày cô và bạn bè.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Ngƣời thực hiện

Bùi Thị Hằng


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan nội dung đã trình bày trong bài khóa luận là kết quả
nghiên cứu của bản thân tôi dưới sự hướng dẫn của Ts. Vi Thái Lang. Những
nội dung trình bày trong khóa luận không trùng với nội dung nghiên cứu của
các tác giả khác. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Ngƣời thực hiện

Bùi Thị Hằng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ CHỦ NGHĨA THỰC DỤNG
VÀ LỐI SỐNG CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY ..................... 5
1.1. Bản chất của chủ nghĩa thực dụng. ......................................................... 5
1.2. Lí luận về thanh niên và lối sống của thanh niên ................................. 17
Chương 2. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ NHỮNG
BIỂU HIỆN CỦA CHỦ NGHĨA THỰC DỤNG TRONG LỐI SỐNG CỦA
THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY. ...................................................... 22
2.1. Một số nét khái quát về tình hình kinh tế - xã hội của thế giới và Việt
Nam hiện nay. .............................................................................................. 22
2.2. Ảnh hưởng của Chủ nghĩa thực dụng đối với lối sống của thanh niên

Việt Nam. ..................................................................................................... 26
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA
CHỦ NGHĨA THỰC DỤNG TRONG LỐI SỐNG CỦA THANH NIÊN
HIỆN NAY. ..................................................................................................... 43
3.1. Một số định hướng chung để xây dụng lối sống cho thanh niên
hiện nay ........................................................................................................ 43
3.2. Một số giải pháp nhắm phát huy những mặt tích cực và hạn chế những
mặt tiêu cực của Chủ nghĩa thực dụng đến lối sống của thanh niên Việt
Nam hiện nay. .............................................................................................. 47
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 63


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chủ nghĩa thực dụng ra đời vào những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ
XX và nhanh chóng trở thành một lối sống được ưa chuộng ở Mĩ. Ngay từ khi
ra đời Chủ nghĩa thực dụng đã ảnh hưởng đến nhiều nước ở châu Âu và châu
Á, trong đó có Việt Nam.
Cội nguồn của Chủ nghĩa thực dụng xuất phát từ tư tưởng của các triết
gia cổ đại và cận đại. Nhưng nó thực sự trở thành một trào lưu triết học rầm rộ
từ những năm 70 của thế kỉ XIX khi một nhóm các nhà khoa học, đặc biệt là
khoa học tự nhiên họ sinh hoạt trong “câu lạc bộ siêu hình”. Chares Pierce - là
thành viên của câu lạc bộ và chính là người khởi sướng tư tưởng. Đến năm
1899, Wiliam James tiếp tục kế thừa và là người đầu tiên đưa ra tên “Chủ
nghĩa thực dụng” (pragmatism). Jonh Dewey tiếp tục kế thừa, phát triển làm
cho Chủ nghĩa thực dụng thâm nhập sâu rộng vào đời sống văn hóa xã hội.
Ở nước ta, khoảng những năm 60 -70 của thế kỉ XX, Chủ nghĩa thực
dụng đã xâm nhập vào miền Nam với nhiều hình thức và biến tướng khác
nhau nhằm phục vụ cho mục đích xâm lược của đế quốc Mĩ. Cho đến nay,

Chủ nghĩa thực dụng vẫn hiện diện và ảnh hưởng tới đời sống của mọi tầng
lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, thanh niên ở khắp mọi nơi, với cả mặt tích
cực và tiêu cực.
Việt Nam nằm ở rìa phía Đông của bán cầu trên đảo Đông Dương, gần
trung tâm khu vực Đông Nam Á, tiếp giáp với nhiều nước cả trên đất liền và
trên biển. Với diện tích tự nhiên khoảng 331.212 km2, dân số khoảng 88,78
triệu người. Bao gồm nhiều dân tộc cùng sinh sống trên một phạm vi lãnh thổ.
Với một vị trí địa lí quan trọng như vậy Việt Nam có nhiều thuận lợi để phát
triển kinh tế đưa đất nước đi lên. Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi còn có
những khó khăn như vấn đề dân tộc, tôn giáo, chiến tranh… làm cho đời sống
xã hội luôn tiềm ẩn những nhân tố bất ổn.

1


Trong xã hội nước ta bao gồm nhiều tầng lớp khác nhau, với những lối
sống, suy nghĩ khác nhau. Tầng lớp thanh niên là một bộ phận không thể thiếu
trong xã hội, là một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
Hiện nay với sự ảnh hưởng của cơ chế thị trường, sự giao lưu văn hóa trong
thời kì hội nhập, mở cửa thì Chủ nghĩa thực dụng - một trào lưu triết học
phương Tây hiện đại đã tác động làm thay đổi lí tưởng, đạo đức, lối sống…
của tầng lớp này. Có những thay đổi mang chiều hướng tích cực, xong cũng
có những thay đổi mang chiều hướng tiêu cực. Thực tế cho thấy, bên cạnh
những thanh niên tích cực, có ý chí vươn lên phấn đấu làm giàu xây dựng đất
nước, chăm chỉ học hành, tu dưỡng đạo đức tốt thì vẫn còn không ít thanh
niên thiếu ý thức trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức và thường bị lôi cuốn vào
các hoạt động không lành mạnh, các tệ nạn xã hội.
Vì vậy việc tìm hiểu lối sống của thanh niên hiện nay dưới ảnh hưởng
của Chủ nghĩa thực dụng là hết sức cần thiết, nhằm giáo dục lối sống cho
thanh niên cả nước, góp phần xây dựng đất nước giàu đẹp văn minh.

Xuất phát từ những vấn đề thực tiễn trên, tôi chọn “Chủ nghĩa thực dụng
và tác động của nó đến lối sống của thanh niên Việt Nam hiện nay” làm đề tài
nghiên cứu cho khóa luận của mình.
2. Tình hình nghiên cứu.
Chủ nghĩa thực dụng ra đời ở Mĩ đã được nhiều học giả bàn luận ở
nhiều khía cạnh khác nhau. Cho đến nay, những nghiên cứu về Chủ nghĩa
thực dụng vẫn được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, phát triển làm rõ diện mạo
của trào lưu này.
Ở nước ta, Chủ nghĩa thực dụng du nhập vào do điều kiện khách quan.
Song cũng đã được nhiều học giả nghiên cứu và trình bày một cách có hệ
thống dưới nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau với các hình thức như: đề tài
khoa học, luận án tiến sĩ, luận án thạc sĩ, các bài báo và tạp chí … Có thể kể

2


đến một số công trình tiêu biểu trong những năm gần đây như: Cuốn “Triết
học phương Tây hiện đại và Triết học Mĩ” của hai tác giả Bùi Đăng Duy và
Nguyễn Tiến Dũng; Cuốn “Diện mạo triết học phương Tây hiện đại” của tác
giả Đỗ Minh Hợp cũng đề cập đến Chủ nghĩa thực dụng; bài “Vài nét về Chủ
nghĩa thực dụng Mĩ” (tạp chí khoa học và công nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 5
năm 2008); bài “Ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng đối với sinh viên sư
phạm” của Tiến sĩ Bùi Thị Tỉnh (tạp chí giáo dục số 229, Hà Nội); bài “Chủ
nghĩa thực dụng và ảnh hưởng của nó đến nhận thức của thanh niên hiện nay”
của Đỗ Thị Khuyên (2009)…. Trong các công trình này, các tác giả và tập thể
tác giả đã đi sâu trình bày tương đối có hệ thống về nguồn gốc, bản chất và
ảnh hưởng của Chủ nghĩa thực dụng.
Nhìn chung, có rất nhiều tác giả và nhóm tác giả đã nghiên cứu về
Chủ nghĩa thực dụng và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam dưới nhiều khía
cạnh khác nhau làm cho mặt lí luận và thực tiễn của Chủ nghĩa thực dụng

được sâu sắc hơn.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu về Chủ nghĩa thực dụng
và tác động của nó đến lối sống của thanh niên Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu những nội dung cơ bản của
Chủ nghĩa thực dụng và tác động của nó đến lí tưởng, đến đạo đức của thanh
niên Việt Nam hiện nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu của đề tài: nhằm làm sáng tỏ những nội dung cơ
bản của Chủ nghĩa thực dụng và tác động của nó đến lối sống của thanh niên
Việt Nam hiện nay. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy một số
mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của Chủ nghĩa thực dụng trong lối sống
của thanh niên nước ta hiện nay.

3


Nhiệm vụ nghiên cứu: Khóa luận có nhiệm vụ giải quyết các vấn đề sau:
- Làm sáng tỏ những nội dung cơ bản của Chủ nghĩa thực dụng và quan
niệm về thanh niên, lối sống của thanh niên.
- Nêu những tác động tích cực và tiêu cực của Chủ nghĩa thực dụng đến
lối sống của thanh niên Việt Nam hiện nay.
- Nêu ra một số định hướng chung để xây dựng lối sống cho thanh niên
hiện nay.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế
những mặt tiêu cực của Chủ nghĩa thực dụng đến lối sống của thanh niên Việt
Nam hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Khóa luận được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra còn sử dụng

một số phương pháp cụ thể như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương
pháp so sánh.
6. Ý nghĩa của đề tài.
Đề tài góp phần làm phong phú, sâu sắc hơn những kiến thức của Chủ
nghĩa thực dụng, những tác động của nó đến lối sống của thanh niên Việt
Nam hiện nay.
7. Kết cấu của khóa luận.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa
luận được kết cấu gồm 3 chương, 6 tiết.

4


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ CHỦ NGHĨA THỰC DỤNG VÀ LỐI
SỐNG CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Bản chất của Chủ nghĩa thực dụng
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời và quá trình hình thành, phát triển của Chủ
nghĩathực dụng
*Hoàn cảnh ra đời của Chủ nghĩa thực dụng.
Chủ nghĩa thực dụng là một trào lưu triết học phương Tây hiện đại, ra
đời vào cuối thế kỉ XIX ở nước Mĩ. Đây là một trào lưu triết học mang màu
sắc Mĩ, bởi lẽ Chủ nghĩa thực dụng ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử đặc thù
của nước Mĩ:
Về điều kiện tự nhiên - xã hội: Mĩ là một nước sinh sau, đẻ muộn (năm
1492, khi Chirstopher Culumbus cùng những nhà thám hiểm phát hiện ra
châu Mĩ). Tuy là một nước được hình thành muộn nhưng tốc độ phát triển
nhanh. Vùng đất này có một điều kiện tự nhiên rất thuận lợi, thích hợp cho
con người tự do phát triển: nơi đây có diện tích rộng lớn (khoảng 7.842.000
km2) đứng thứ tư thế giới; có khí hậu “ôn hòa”; có nền kinh tế phát triển rất

mạnh mẽ… Như vậy sau khi Chirstopher Culumbus cùng những nhà thám
hiểm phát hiện ra châu Mĩ thì dòng người di dân đến đây rất đông tạo ra một
sự pha trộn khác nhau về nhiều chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo, văn hóa … Ở
vùng đất mới này họ không phải chịu những áp lực như như nơi quê nhà (áp
lực về kinh tế, tôn giáo, sắc tộc …) mà họ có thể tự do, thỏa sức làm giàu và
khám phá vùng đất mới này. Bên cạnh đó, nơi đây có một nền kinh tế phát
triển rất mạnh mẽ. Vào nửa cuối thế kỉ XIX, Chủ nghĩa tư bản tự do cạnh
tranh ở đây chuyển sang giai đoạn phát triển cao là Chủ nghĩa đế quốc. Điều
này làm cho giai cấp tư sản rất hứng khởi trong việc đi tìm một triết lí riêng

5


cho mình. Chủ nghĩa thực dụng ra đời trong khoảng thời gian này đã đáp ứng
được yêu cầu của giai cấp tưu sản và được họ rất ưa chuộng. Bởi nó ra đời
không những không đề cập đến các vấn đề chính trị nổi cộm trong xã hội mà
ngược lại nó chỉ đề cập đến những lợi ích trực tiếp của con người, đề cập đến
tính hiệu quả trong công việc. Với phương châm coi “thời gian là tiền bạc”,
cái gì có hiệu quả lập tức thì được coi là chân lý. Người Mĩ không ưa chuộng
những lí luận trừu tượng mà chỉ đam mê nghệ thuật làm giàu, lấy vật chất làm
thước đo giá trị. Trước tồn tại xã hội này, Chủ nghĩa thực dụng ra đời đã đáp
ứng được yêu cầu của người Mĩ và nhanh chóng được ưa chuộng, trở thành
món ăn tinh thần không thể thiếu của người Mĩ. Bên cạnh đó, nước Mĩ còn có
một nền văn hóa rất độc đáo với khái niệm “Nồi hầm nhừ”. Những người dân
di cư tới Mĩ đều mang theo một nền văn hóa của mình, tại mảnh đất mới này
các nền văn hóa của mỗi dân tộc sẽ hòa quyện với nhau tạo nên một phong
cách kiểu Mĩ. Với đặc điểm này cho ta rút ra một vài nét về xã hội Mĩ như
sau: về con người thì đề cao chủ nghĩa cá nhân; một xã hội cạnh tranh với
những con người đầu óc thực dụng, có tinh thần tiến lên phía trước, ưa khám
phá và dễ thích ứng với cái mới; một xã hội cởi mở với những con người

không cầu kì … Tóm lại với một điều kiện tự nhiên - xã hội thuận lợi, một
mảnh đất “hứa” đã hun đúc nên một thứ triết lý đặc thù của Mĩ - “Chủ nghĩa
thực dụng”.
Về tiền đề khoa học tự nhiên: Là nước sinh sau đẻ muộn nên Mĩ tận
dụng một cách triệt để những thành tựu khoa học kĩ thuật của thời đại. Trong
đó khoa học tự nhiên thời kì này phát triển rất mạnh mẽ. Quá trình hình thành
và phát triển của Chủ nghĩa thực dụng còn gắn liền với sự phát triển của khoa
học tự nhiên với ba phát minh mang tính vạch ra thời đại là: “Định luật bảo
toàn và chuyển hóa năng lượng”; “Thuyết tiến hóa”; “Học thuyết tế bào”.
Trong đó “Thuyết tiến hóa” của C.Drawin là công trình có ảnh hưởng nhất
trong giới khoa học Mĩ mà Chủ nghĩa thực dụng chính là trường phái triết học

6


lấy thuyết tiến hóa làm căn cứ khoa học. Thông qua thuyết tiến hóa các nhà
thực dụng đã giải thích sự vận động và phát triển của xã hội theo quan điểm
của mình. Từ đó họ đề xuất ra chủ nghĩa đa nguyên, chủ nghĩa tiến hóa xã hội
và đưa ra lí luận về tự do, dân chủ. Những giá trị này giúp con người thành
công, xã hội phát triển. Đây là một trong những nội dung cốt lõi của Chủ
nghĩa thực dụng.
Về tiền đề lí luận: Các nhà thực dụng lấy khởi nguồn nhận thức của
mình từ các triết gia cổ đại đến hiện đại. Trong đó thuyết Hegel mới và đạo
đức học của Kant đươc các nhà thực dụng chọn làm tiền đề lí luận cho tư
tưởng triết học của mình. Trong thuyết Hegel mới các nhà thực dụng chịu ảnh
hưởng rất nhiều từ các tư tưởng về tự do, dân chủ, học thuyết về nhà nước và
xã hội. Còn trong đạo đức học của Kant các nhà thực dụng chịu ảnh hưởng từ
phạm trù “tự do”, trong quá trình kế thừa các nhà thực dụng đã biến tấu để nó
hợp với tư tưởng triết học của mình đó là niềm tin, mà niềm tin ở đây là niềm
tin thực dụng, niềm tin vào sự thắng lợi, vào hiệu quả sẽ đạt được.

Như vậy Chủ nghĩa thực dụng ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với
những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tư tưởng của nước Mĩ cuối
thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Đồng thời nó cũng là sự kế thừa lý luận của các
nhà tư tưởng đi trước và thành tựu khoa học tự nhiên đương thời. Quá trình
vận động của nó tuân theo quy luật vận động của các hình thái ý thức xã hội
mà triết học Mácxit đã đề cập. Sự tồn tại của nó phản ánh những đặc điểm mà
xã hội đã và đang trải qua trong những điều kiện nhất định. Nghiên cứu vấn
đề này giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện, khách quan hơn về triết học thực
dụng - một bộ phận của Chủ nghĩa thực dụng Mĩ. Nó giúp chúng ta hiểu sâu
sắc hơn về những nhân tố tạo nên diện mạo của một siêu cường trên thế giới.
*Quá trình hình thành và phát triển của Chủ nghĩa thực dụng.
Chủ nghĩa thực dụng là một trào lưu triết học phổ biến rộng rãi ở Mĩ. Ra
đời vào cuối thế kỉ XIX và phát triển mạnh khoảng nửa đầu thế kỉ XX, sau đó

7


lan rộng ra các nước ở Châu Âu. Khởi nguồn của chủ nghĩa thực dụng là
nhóm các nhà khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên sinh hoạt trong “Câu
lạc bộ siêu hình” của trường đại học Harward (1871) do Charles Sanders
đứng đầu. Tham gia câu lạc bộ và sau đó trở thành những đại biểu tiêu biểu
đầu tiên, chủ yếu gồm: Nhà tâm lí học C.Wright và William James, luật sư
O.W.Hamles, nhà sử học J.Fiske, thẩm phán J.Warner, nhà luật học N.J.Green
và mục sư Aponte. Câu lạc bộ này họp một tháng hai lần, họ tranh luận với
nhau tất cả những vấn đề được yêu thích, đặc biệt là những vấn đề sát với
thực tế cuộc sống.
Charles Sander (1839 - 1914) là người khởi sướng Chủ nghĩa thực dụng
với tác phẩm “Lý thuyết về ý nghĩa” và lấy tên lý thuyết của mình là “Chủ
nghĩa thực dụng” (xuất phát từ thuật ngữ pagrama). Năm 1871 ông trình bày
những tư tưởng cơ bản, quan niệm về Chủ nghĩa thực dụng trong báo cáo

khoa học tại “Câu lạc bộ siêu hình”. Sau đó, báo cáo khoa học này được ông
chỉnh lí, bổ sung thành hai bài viết với tên gọi là “Xác định niềm tin” và
“Làm thế nào để cho quan niệm của chúng ta trở nên rõ ràng”, lần lượt đăng
trên các nguyệt san khoa học phổ thông.
Thực chất khái niệm “Chủ nghĩa thực dụng” (pragmatism) do W.James
nêu ra trong một bài phát biểu tại California năm 1898 với nhan đề “Khái
niệm khoa học và hiệu quả thực tế”. Trong bài phát biểu này W.James đã đề
cập đến “Nguyên tắc Peirce” và “Nguyên tắc chủ nghĩa thực tế hay chủ nghĩa
thực dụng” của C.S.Peirce. Ông phát biểu những nguyên tắc của C.S.Peirce
thành một hệ thống lí luận với việc phân tích nhiều vấn đề cụ thể.
Tuy nhiên về mặt lí luận người ta vẫn khẳng định rằng, cống hiến của
C.Peirce với thuật ngữ “pragamatism” đã đánh dấu sự ra đời của Chủ nghĩa
thực dụng. W.James phân tích trong bài giảng của mình với nhan đề “What
pragm means ?” (Chủ nghĩa thực dụng có nghĩa là gì?), rằng “một cái nhìn sơ

8


qua về lịch sử của tư tưởng này sẽ giúp bạn hiểu tốt hơn thế nào là chủ nghĩa
thực dụng”. Thuật ngữ này bắt nguồn từ Hy Lạp “pragma” có nghĩa là hành
động, nghĩa đen của nó là triết học hành động, nó là nguồn gốc của các từ
“thực tiễn”, “thực tế” của chúng ta. Và thuật ngữ này lần đầu tiên được đưa
vào triết học bởi C.S.Peirce năm 1878.
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, Jonh Dewey đến với Chủ nghĩa thực
dụng và phát triển quan điểm của C.S.Peirce và W.James thêm một bước
đệm. Trong tác phẩm “Dân chủ và giáo dục” ông làm cho Chủ nghĩa thực
dụng xâm nhập sâu rộng vào đời sống văn hóa thông qua những thành tựu về
xã hội học, tâm lý học, giáo dục và chính trị học. Với những cống hiến lớn lao
trong sự nghiệp của mình, ông được xem là nhà triết học kiệt xuất của nước
Mĩ. Có thể nói, sau khoảng hai thập niên hình thành và phát triển Chủ nghĩa

thực dụng đã nhanh chóng trở thành trường phái triết học chủ đạo của Mĩ.
Nếu C.S.Peirce là người đặt viên gạch đầu tiên cho sự ra đời của Chủ nghĩa
thực dụng với phương pháp luận còn trừu tượng thì W.James đã làm cho Chủ
nghĩa thực dụng ngày càng trở nên gần gũi và thiết thực hơn khi nhấn mạnh
tính năng động, thực tiễn của chủ thể, lấy con người làm trung tâm. Chủ nghĩa
thực dụng có tầm ảnh hưởng thực tế lớn nhất khi J.Dewey chú trọng đến tính
thực tiễn, quan tâm hơn đến các vấn đề chính trị - xã hội, làm cho Chủ nghĩa
thực dụng trở thành thứ triết học chính trị- xã hội tiến bộ hợp thời.
Sau chiến tranh thế giới lần hai, Chủ nghĩa thực dụng có điều kiện lan
nhanh sang các nước Châu Âu như Anh, Pháp … với các đại biểu tiêu biểu
như G.Vailati (1863- 1909), S.C.Schiller (1864- 1973) … không chỉ lan rộng
sang Châu Âu mà Chủ nghĩa thực dụng còn ảnh hưởng rộng ở Châu Á như:
Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam. Đồng thời Chủ nghĩa thực dụng còn ảnh
hưởng sâu rộng tới các trường phái triết học khác như: triết học hiện sinh, triết
học thực chứng …Sau khi J.Dewey qua đời, Chủ nghĩa thực dụng bị một số

9


trường phái triết học lấn át, xuyên tạc song không có nghĩa là Chủ nghĩa thực
dụng đã đến hồi “cáo chung” hoặc “lùi về sân sau” mà trong các thập kỉ gần
đây, chủ nghĩa thực dụng tiếp tục được phát triển bằng việc kế thừa và kết
hợp sáng tạo với trào lưu triết học khác.
Ra đời trong điều kiện đặc thù, Chủ nghĩa thực dụng là trào lưu triết học
mang đậm màu sắc Mĩ. Đáp ứng nhu cầu đời sống của người Mĩ và nhanh
chóng lan rộng khắp các châu lục. Trải qua nhiều thăng trầm với các giai đoạn
phát triển khác nhau, song nó cũng làm sáng tỏ các quan điểm, tư tưởng cơ
bản của Chủ nghĩa thực dụng của những nhà sáng lập.
1.1.2. Những nội dung cơ bản và một số đặc điểm của Chủ nghĩa thực
dụng Mĩ

Chủ nghĩa thực dụng là một trào lưu triết học tư sản hiện đại, nó ra đời
tại nước Mĩ. Nó có nội dung rất phong phú, để hiểu rõ hơn về những nội dung
đó thì chúng ta đi tìm hiểu xem thế nào là Chủ nghĩa thực dụng ?. Quan niệm
về Chủ nghĩa thực dụng rất nhiều nhưng chưa thực sự thống nhất:
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam của Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên
soạn thì: Chủ nghĩa thực dụng, trào lưu triết học tư sản hiện đại (đặc biệt phổ
biến ở Hoa Kỳ), đánh dấu bước ngoặt của hệ tư tưởng tư sản trong thời đại đế
quốc chủ nghĩa. Người sáng lập: Piêcxơ, Jêm ( A.William James), các đại
biểu tiêu biểu khác là Điuây , Silơ. Vị trí trung tâm trong triết học thực dụng
là “nguyên lí thực dụng”. Nguyên lí này xác định giá trị của chân lí là ở tính
có ích thực tiễn không phải là sự khẳng định một chân lí khách quan bằng
thực tiễn, mà hiểu đó là cái thỏa mãn những lợi ích cá nhân: chân lí là cái gì
có lợi, có ích. Hiện thực được họ giải thích là tổng hợp những kinh nghiệm
chủ quan, những cảm giác. Trong lôgic Chủ nghĩa thực dụng đi tới Chủ nghĩa
phi lý, dưới hình thức công khai ở Jêm, dưới hình thức ngụy trang ở Điuây.
Chủ nghĩa thực dụng coi các quy luật và hình thức lôgic là những điều hư cấu

10


có ích, còn trong khoa học thì một học thuyết chỉ được coi là có giá trị khi nó
ứng dụng được. Trong đạo đức học, Chủ nghĩa thực dụng đi theo thuyết cải
thiện. Những người đi theo Chủ nghĩa thực dụng cho rằng đạo đức là tổng
hợp định kiến, không có quy luật hay tiêu chuẩn đạo đức chung cho mọi
người. Trong xã hội học, Chủ nghĩa thực dụng có nhiều biến dạng từ sự sùng
bái “những con người vĩ đại” và tán dương nền dân chủ tư sản cho đến công
khai bảo vệ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và chủ nghĩa phát xít (Silơ). Hiện
nay Chủ nghĩa thực dụng hiện ra dưới nhiều hình thức như: chủ nghĩa tự
nhiên thực nghiệm - kết hợp chủ nghĩa duy tâm chủ quan với chủ nghĩa chống
mác xít và chủ nghĩa chống cộng; “Chủ nghĩa thực dụng mới” kết hợp Chủ

nghĩa duy tâm với Chủ nghĩa thực chứng mới và Chủ nghĩa duy tâm ngữ
nghĩa”. Tóm lại theo từ điển Bách khoa Việt Nam thì Chủ nghĩa thực dụng là
một dạng của chủ nghĩa hiệu quả.
Còn trong đời sống của người Việt thì tư tưởng thực dụng đã có từ khá
lâu. Chủ nghĩa thực dụng chưa xuất hiện với tư cách là một học thuyết, nhưng
trong thực tế tư tưởng thực dụng đã hình thành rất sớm trong tâm thức người
Việt. Nước ta có nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, điều kiện tự nhiên khắc
nghiệt, kinh tế chưa phát triển và phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh, sản
xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên … và do đó tâm lý thực tế,
đề cao tính hiệu quả, thiết thực, cần cái có thực, hữu dụng đã xuất hiện rất
sớm. Do điều kiện sống khó khăn nên con người luôn phải quan tâm đến
những cái thiết thực trong cuộc sống như: cái mất, cái có lợi, cái thiệt, cái
hơn. Bởi vậy, để đảm bảo duy trì cuộc sống lâu dài, người Việt luôn suy nghĩ
theo tính thực tiễn, gắn với sự sinh tồn, những tương quan mà nhu cầu cuộc
sống đang cần. Tinh thần thực tế ấy đã được thể hiện đậm nét qua ca dao, tục
ngữ, thành ngữ. Những quan niệm như “Có thực mới vực được đạo”; “khôn
ngoan hạt gạo, mạnh bạo đồng tiền”; “mạnh vì gạo bạo vì tiền”; “có tiền mua

11


tiên cũng được” … là câu nói cửa miệng của người Việt. Phải đối mặt với đời
sống khó khăn, thiếu thốn thì việc con người quan tâm đến những lợi ích như
cơm, áo, gạo tiền là điều chính đáng. Như vậy tư tưởng thực dụng trong suy
nghĩ, trong lối sống của con người Việt Nam đã có từ rất lâu, mà nội dung chủ
yếu của tư tưởng là tính hiệu quả, thiết thực.
*Nội dung cơ bản của Chủ nghĩa thực dụng.
Về bản thể luận: Trong lịch sử triết học, bất kì một trường phái triết học
nào cũng đều nhất quán một nguyên tắc là xây dựng cho được một hệ thống
những khái niệm, nguyên lí hay quy luật hoặc phạm trù … nhằm thể hiện lập

trường, tính Đảng của trường phái triết học đó, của học thuyết đó. Các nhà
thực dụng không đặt ra vấn đề bản chất thế giới, không nhìn nhận con người
với tính phổ quát của nó. Họ xem toàn bộ hoạt động tư duy ý thức của con
người và các hoạt động thực tế của con người là thích ứng với hoàn cảnh tự
nhiên và xã hội. Mục tiêu của mọi ý thức thực tiễn của con người chỉ nhằm
đạt đến hiệu quả mà nó đề ra. Xét đến cùng mục tiêu này là cái có lợi cho bản
thân con người. Tri thức của con người không có mục đích tự thân mà nó là
phương tiện công cụ, là điều kiện để con người thích ứng xâm nhập vào
những điều kiện xung quanh. Con người tồn tại trong nhận thức, tư duy hoạt
động theo mục tiêu của mình đề ra, gắn liền với nó là những kinh nghiệm tồn
tại. Con người thừa nhận chân lý tối cao, ngoài ra không có gì có ý nghĩa đối
với con người kể cả vấn đề vật chất, ý thức. Như vậy, các nhà thực dụng đã
gạt bỏ những vấn đề chung của triết học mà chỉ bàn và đưa ra một loạt những
nguyên tắc được xem là cái có lợi cho cuộc sống của con người. Các nhà thực
dụng đã lảng tránh vấn đề cơ bản của triết học chỉ một lí do đơn giản rằng,
triết học quan tâm đến những vấn đề thiết thực của cuộc sống. Có thể nói,
Chủ nghĩa thực dụng cũng giống như một số trường phái triết học phương
Tây khác đã tự tách mình ra khỏi những quan điểm truyền thống của triết học.
Họ đã tự tạo ra một cuộc “cách mạng” trong triết học.

12


Về nhận thức luận: Các nhà thực dụng phủ nhận khả năng nhận thức thế
giới và sự tồn tại thực tế của thế giới, kể cả những quy luật khách quan của tự
nhiên và xã hội. James cho rằng: không có sự tồn tại khách quan nào cả, chỉ
có cái con người cho là tồn tại mới là thực tại. Thực tại phụ thuộc vào lòng tin
của con người, lòng tin thay đổi thì thực tại cũng thay đổi; Dewey cho rằng:
“giới tự nhiên tồn tại do tri thức quyết định”; Peirce thì không phủ nhận thế
giới nhưng lại cho rằng “cái tôi” là vấn đề trung tâm của thế giới, mọi cái hợp

thành thế giới của tôi. Chân lý và nhận thức theo các nhà thực dụng không
phải ở sự phản ánh đúng hay không đúng hiện thực khách quan mà là ở chỗ
kết quả của hành động con người đạt đến đâu và kết quả đó có thể vận dụng
vào thực tiễn ở mức độ nào. Trong nhận thức, kinh nghiệm đóng vai trò đặc
biệt quan trọng, mọi sự nhận thức của con người phải được trải qua và xác
định bằng kinh nghiệm. Con người tồn tại trong khinh nghiệm và không có sự
phân biệt giữa chủ quan và khách quan. Kinh nghiệm không phải mang tính
cá nhân mà gắn với tính phổ biến xã hội, đồng thời nó vừa có cơ sở vật chất
vừa có tính chất tinh thần. Kinh nghiệm dù dưới bất kì hình thức nào cũng
phải đưa đến tính chất hữu dụng và tiện lợi. Tính chất này được coi là thước
đo của kinh nghiệm. James cho rằng “kinh nghiệm là cái có sức sống vạn
năng”, có thể ứng dụng trong mọi trường hợp. Thế giới này hỗn độn, bất hợp
lý, không có lôgic nào cả, là ngẫu nhiên, không phục tùng quy luật, thậm chí
hỗn độn đa nguyên. Do đó, nhận thức thế giới ấy không có con đường nào
khác là bằng kinh nghiệm. Kinh nghiệm sẽ được tái hiện và vận dụng cải tạo
xã hội bằng cách ngày càng hoàn thiện kinh nghiệm xã hội. Triết học nói
riêng cũng phải được hoàn thiện bằng kinh nghiệm. Các nhà thực chứng
khẳng định rằng, có thể dùng kinh nghiệm để nhận thức toàn bộ thế giới
khách quan, hoặc phủ nhận mặt nào đó trong hiện thực. Xét đến cùng, mục
tiêu cuối cùng của kinh nghiệm, của hoạt động con người vẫn là tính hiệu quả.

13


Về vấn đề chân lý: Các nhà thực dụng cho rằng chân lý vừa mang tính
khách quan, vừa mang tính chủ quan. Nếu con người hành động đạt hiệu quả
nghĩa là chân lý đã được xác định. Thực chất chân lý mà con người đạt được
theo mục tiêu có lợi, có ích, do đó ai cũng có thể hành động theo chân lý.
Dewey cho rằng, nếu chúng ta đạt được thành tích trong công việc, tức là
chúng ta đáng tin cậy, vững vàng, chắc chắn, tốt. Cái gì chỉ đường đúng cho

chúng ta thì là chân lý … Và vấn đề không phải là ở chỗ tư tưởng là chân
chính hay giả dối mà là ở chỗ chúng thích hợp hay không thích hợp, có hiệu
quả hay không có hiệu quả. Chân lý theo quan điểm của các nhà thực dụng là
chống lại thế giới trật tự, chống lại chân lý khách quan và phủ nhận tính bền
vững tương đối của chân lý.
Về phương pháp luận: Trong khi phát triển các quan điểm của mình về
vấn đề thực tiễn, các nhà thực dụng đã không ngừng nhắc tới vấn đề phương
pháp luận, coi trọng hoạt động của con người. Đây chính là cách thức con
người sử dụng trí tuệ của mình như thế nào để thích ứng với hoàn cảnh. Theo
họ phương pháp là cái để con người đạt được mục tiêu còn phương pháp luận
là sự nhận thức và chi phối phương pháp nhất định. Một trong những nguyên
tắc cơ bản của Chủ nghĩa thực dụng là phương pháp chỉ có ý nghĩa khi đặt
trên cơ sở kiểm nghiệm hiệu quả của mục đích, mục tiêu hành động của con
người. Tương ứng với mục tiêu, mục đích thì phương pháp cũng phải phù hợp
với nó, không có quan điểm phương pháp luận nào mà lại ở ngoài yêu cầu
hiệu quả mục đích hành động. Phương pháp luận và phương pháp bao giờ
cũng được thể hiện thông qua hoạt động thực tiễn, thực tế. Thực tiễn, thực tế
như là sự kiểm chứng của phương pháp. Một phương pháp thực sự hữu hiệu
thì phải được trải qua kinh nghiệm trong đời sống hiện thực. Vì vậy, lý luận
triết học không nên bàn những vấn đề ngoài phương pháp, triết học thực chất
là triết học về phương pháp đi xa hơn triết học chỉ đề cập đến phương pháp
của con người trong hoạt động thực tế. Cái quan trọng trong phương pháp và

14


phương pháp luận không phải là ở tính quy luật ổn định mà nó tồn tại trong sự
tương ứng với sự thay đổi, biến đổi của hiệu quả. Một mục đích nhất định đòi
hỏi một phương pháp tương ứng.
Quan niệm về niềm tin: Peirce là người đi sâu vào niềm tin. Niềm tin

theo ông là thái độ sẵn sàng hay theo thói quen hành động theo một cách thức
nào đó. Nhận thức thông thường của con người là rất giới hạn, cả tri thức con
người cũng không có ý nghĩa thiết thực. Vì vậy, nhận thức của con người
không phải đi từ chưa biết đến biết mà là quá trình đi từ nghi ngờ đến niềm
tin. Niềm tin là một sự xác tín, thái độ sẵn sàng, suy tôn nó và trở thành thói
quen trong hoạt động của con người. Ông cho rằng niềm tin là mang tính chất
xã hội hóa, cái gì mà xã hội thừa nhận thì phải tin và hành động theo nó, đó là
tri thức khách quan. Chân lý là niềm tin bắt buộc chung cho cộng đồng. Niềm
tin chống lại sự nghi ngờ, sự nghi ngờ có hai mặt: một mặt củng cố niềm tin,
có tri thức về niềm tin; mặt khác, chống lại sự nghi ngờ. Ý nghĩa của các khái
niệm khoa học là ở hiệu quả và hiệu quả được sinh ra từ khái niệm đó mô tả.
Vấn đề đạo đức và tôn giáo: Trong Chủ nghĩa thực dụng, vấn đề đạo
đức rất được coi trọng. Theo W.James, đạo đức học không phải là một loại lý
tính thuần túy chỉ có nguồn gốc của nó lấy căn cứ từ “tâm lí học và nhận thức
học”, hay nói cách khác, đó là ứng dụng của tâm lí học vào lĩnh vực mới. Ông
cũng cho rằng đạo đức cũng là một giá trị thực tiễn của con người trước hoàn
cảnh. Vì thế, không có những khái niệm có sẵn mà đạo đức chỉ là những
phản ứng nhằm thỏa mãn nhu cầu thực tiễn của con người. Với sự kế thừa
quan niệm trong đạo đức học và thuyết tiến hóa của C.Drawin, các nhà thực
dụng đã đề xuất quan điểm xã hội đa nguyên và thuyết tiến hóa xã hội, để từ
đó xây dựng một lí luận về nền dân chủ và tự do, lấy “chủ quyền nhân dân và
giá trị đạo đức làm nền tảng”. Họ bác bỏ chủ nghĩa duy lý bởi các loại triết
học lôgic sẵn có. Với sự kiên trì của phương pháp thăm dò, điều tra J.Dewey
đã xuất phát từ sự phản ánh của con người trước hoàn cảnh xã hội đặc thù để

15


thấy được những giá trị hiệu quả thực tiễn về những giá trị tự do, dân chủ
giúp con người đạt được mục tiêu, tính hiệu quả. Dựa trên cơ sở những nội

dung cơ bản của Chủ nghĩa thực dụng như trên, tôi có thể khái quát những
đặc điểm cơ bản của Chủ nghĩa thực dụng như sau:
Thứ nhất: đề cao thực tiễn, xem việc cải tạo thực tiễn theo hướng có lợi
cho cuộc sống là nhiệm vụ trung tâm của triết học. Với tinh thần “cải tạo triết
học” các nhà thực dụng đều nhất trí phê phán triết học truyền thống. Họ cho
rằng đó là hệ thống triết học trừu tượng, xa rời cuộc sống, không mang lại lợi
ích thiết thực cho con người. Do vậy, triết học phải gác tất các vấn đề như:
Bản chất của thế giới là gì; Con người có khả năng nhận thức được thế giới
hay không?.. để trở về với thực tiễn, với nhiệm vụ và nội dung để nhằm thỏa
mãn nhu cầu, lợi ích thiết thực của con người trong đời sống thực tại.
Thứ hai: đề cao lợi ích của con người, coi lợi ích, tính hiệu quả và thành
công là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa thực
dụng là hành động của con người phải đảm bảo tính hiệu quả tối đa ngay cả
không cần đến tri thức đúng đắn, chân thực. Như vậy, Chủ nghĩa thực dụng là
đúng, triết học trước hết cần liên quan đến vấn đề giá trị, mục đích hành động
của con người. Mọi cái có lợi cho hoạt động của con người có thể làm cho
hoạt động ấy thành công và thu được hiệu quả thì đều có giá trị. Chủ nghĩa
thực dụng với triết lý chú trọng tính hiệu quả của hành động đã có ý nghĩa gợi
mở rất lớn, nó giúp con người thoát khỏi những nguyên tắc giáo điều, máy
móc. Điều này là một trong những cơ sở lí giải về sự lớn mạnh, hùng cường
của nước Mĩ ngày nay.
Thứ ba: triết lý tuyệt đối hóa hoạt động của con người: Theo các nhà
thực dụng, mọi sự việc đều là kết quả hoạt động chủ quan của con người trên
sự quyết định của niềm tin và ý chí. Họ cho rằng, nhiệm vụ của triết học
không có nhiệm vụ nào khác là xác định niềm tin, nếu không thì sẽ không tạo
ra hành động để đạt đến hiệu quả được: “Tư tưởng, quan điểm có tạo thành

16



niềm tin hay không, không phải ở chỗ chúng có phản ánh đúng đối tượng hay
không mà là chúng có thể gây nên hành động của con người, trong hành động
có đạt hiệu quả như dự tính không?” [2,tr.127].
Thứ tư: triết học thực dụng là triết học thực tiễn, triết học hành động, là
triết học đời sống. Các nhà thực dụng đặc biệt nhấn mạnh tác động của thực
tiễn. Theo họ một trong những nhiệm vụ của triết học là nghiên cứu các sự
việc và vấn đề liên quan đến con người nhằm cải thiện, phục vụ con người và
như vậy triết học thực dụng nhấn mạnh rằng: Phải lấy con người làm trung
tâm, ở đó hành động của con người phải gắn liền với đời sống hiện thực. Nếu
thoát ly điều này, triết học không thể giải quyết được.
Thứ năm: triết học thực dụng là một triết lý vận động. Theo các nhà
thực dụng, thế giới hiện thực luôn vận động và biến đổi không ngừng, con
người không thể dựa vào những lý luận đã hình thành trong quá khứ bởi kinh
nghiệm sẵn có để giải quyết các vấn đề thực tại mà phải đặt trong mẫu hình
mới, trên cơ sở đó nghiên cứu để có giải pháp mới. Ở điểm khác các nhà thực
dụng có khía cạnh hợp lý và tích cực khi phản đối tính chất máy móc, giáo
điều, kinh nghiệm của các nhà triết học trước đó.
Tóm lại, có thể kết luận rằng, hạt nhân nền tảng của Chủ nghĩa thực
dụng là hiệu quả, là mục tiêu hữu dụng, là cái có lợi. Các nhà thực dụng đề
cao sự kết hợp giữa kinh nghiệm và niềm tin, khuyến khích năng lực thực tế
của con người. Tuy nhiên, với các nhà thực dụng, vấn đề cơ bản của triết học
là không có ý nghĩa, không có sự phân biệt vật chất với ý thức và càng không
có sự phân biệt chủ quan với khách quan.
1.2. Lí luận về thanh niên và lối sống của thanh niên
1.2.1. Khái niệm thanh niên.
Thanh niên là một khái niệm có thể được hiểu và định nghĩa theo nhiều
cách, tùy thuộc vào nội dung tiếp cận, góc độ nhìn nhận hoặc đánh giá mà có
nhiều định nghĩa khác nhau về thanh niên.

17



Về mặt sinh học, các nhà nghiên cứu coi thanh niên là một giai đoạn xác
định trong quá trình tiến hóa của cơ thể. Các nhà tâm lí học thường nhìn nhận
thanh niên là một giai đoạn chuyển tiếp từ tuổi thơ phụ thuộc sang hoạt động
độc lập với tư cách là một công dân có trách nhiệm. Dưới góc độ kinh tế học,
thanh niên được xem là một lực lượng lao động xã hội, nguồn bổ sung cho đội
ngũ lao động trên tất cả các lĩnh vực.
Trên thế giới, tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, chính trị, xã hội,
đạo đức truyền thống, tuổi thọ trung bình … mà mỗi quốc gia có quy định về
độ tuổi thanh niên khác nhau. Nhưng hầu hết các quốc gia trên thế giới đều
thống nhất tuổi thanh niên bắt đầu từ 15 đến 16 tuổi, còn thanh niên kết thúc ở
độ tuổi nào thì có sự khác biệt, có nước quy định là 25 tuổi, có nước quy định
là 30 tuổi. Nhìn chung thời điểm kết thúc của tuổi thanh niên chưa thống nhất.
Liên Hợp Quốc định nghĩa thanh niên là nhóm người từ 15 đến 24. Chủ
yếu dựa trên cơ sở phân biệt đặc điểm tâm lí và hoàn cảnh xã hội với nhóm
lứa tuổi khác.
Ở Việt Nam, trong các văn bản pháp lý hiện hành thuật ngữ “thanh
niên” cũng có phạm vi điều chỉnh không thống nhất.
Theo “chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam đến năm 2010” do thủ
tướng chính phủ kí phê duyệt kèm theo quyết định số 30/2003/QĐTTg ngày
29/4/2003 thì thanh niên Việt Nam được cho là những người Việt Nam trong
độ tuổi từ 15 đến 34. Tuy nhiên sau hai năm, luật thanh niên (luật số
53/2005/QH11) được quốc hội khóa XI thông qua đã quy định tại điều 1:
“thanh niên quy định trong luật này là công dân Việt Nam từ đủ 16 đến 30
tuổi” [14,tr. 47 ]. Đây cũng là điều được quy định tại điều 1, mục 2 của “Điều
lệ thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh”(2007).
Trong cuộc đời của mỗi con người thì “tuổi thanh niên” có ý nghĩa vô
cùng quan trọng. Xét từ góc độ tâm - sinh lý thì đây là giai đoạn chuyển biến


18


từ đứa trẻ thành một người trưởng thành với sự hoàn thiện cơ thể về mặt tâm
lý, tình cảm điển hình, đặc biệt là trong độ tuổi dậy thì. Xét từ góc độ con
người xã hội thì tuổi thanh niên chính là độ tuổi trải qua quá trình xã hội hóa,
chuẩn bị hành trang cho cuộc đời mình như: học việc, nghề nghiệp, lối sống
… trên cơ sở định hình hệ giá trị riêng cho mình, trở thành công dân thực thụ
và đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ do luật quy định.
Như vậy, với những đặc điểm trên của tuổi thanh niên ta có thể thấy tính
trẻ, năng động ưa thử nghiệm, nhiệt huyết nhưng dễ sai lầm là đặc điểm
chung của thanh niên ở mọi thời đại, mọi quốc gia, dân tộc.
1.2.2. Phạm trù lối sống của thanh niên.
Khi nói đến phạm trù lối sống thì chúng ta có thể thấy, cho đến nay đã
có rất nhiều công trình nghiên cứu về lối sống của con người nhưng nhìn
chung đều được đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với nghiên cứu về văn hóa,
bởi nó là một phạm trù của văn hóa.
Theo từ điển Tiếng Việt- Wikipedia thì văn hóa được định nghĩa như
sau: “Văn hóa có thể định nghĩa là toàn bộ những ứng xử, lối sống, nghệ
thuật, đức tin và các thể chế của dân cư được truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Văn hóa còn được gọi là “các lối sống của toàn thể xã hội” (Ways of
life an entrisociety). Và như vậy nó bao gồm các mã số về phong cách, trang
phục, ngôn ngữ, tôn giáo và lễ nghi các chế định về ứng xử như luật pháp, đạo
đức và các hệ thống đức tin, kể cả mỹ thuật và nghệ thật ẩm thực”.
Trong định nghĩa của UNESCO về văn hóa năm 2002 thì: Văn hóa được
đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tinh thần, vật chất trí
thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội mà nó chứa
đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, các phong cách sống, các lối sống chung,
các hệ giá trị, các truyền thống và đức tin.
Như vậy, có thể thấy rằng “lối sống” được coi như là một bộ phận hợp

thành của văn hóa, hay là một phương thức tồn tại và biểu hiện của các văn

19


hóa. Chúng ta đã nói ở trên thì các công trình nghiên cứu về lối sống rất đa
dạng, phong phú với nhiều định nghĩa khác nhau như:
Định nghĩa lối sống theo quan điểm của một số nhà khoa học trên
thế giới:
- Theo Đumốp.Z và đồng sự của ông cho rằng: “Lối sống trước hết là
những điều kiện, trong đó con người tự tái sản xuất về mặt sinh học cũng như
về mặt xã hội. Đó là toàn bộ những hình thức, hành vi hàng ngày, ổn định và
điển hình của con người. (dẫn theo báo cáo khoa học đề tài cấp Bộ 2001, tr.9).
- Theo Đôbơriannốp: “Lối sống là sinh hoạt cá nhân, chủ quan của hệ
thống những quan hệ xã hội, của toàn bộ tổng thể những điều kiện sống, thể
hiện trong hoạt động của con người” (V.Đôbơriannốp, 1985, Xã hội học Mác
-Lênin, Nxb thông tin lý luận Hà Nội, 1985, tr.213).
- Theo Sôkhôva: “Lối sống là toàn bộ những hình thức hoạt động sinh
sống tiêu biểu, là phương thức hoạt động đã được xác định”. (Theo Nguyễn
Ánh Hồng, 2005, tr.12).
Định nghĩa lối sống theo quan điểm của các nhà khoa học Việt Nam:
- Theo từ điển xã hội học, khái niệm lối sống bao gồm những mối liên hệ
và quan hệ đa dạng giữa con người với nhau trong một xã hội nhất định,
những điều kiện thực hiện thông qua những đặc điểm điển hình về hoạt động
của các giai cấp, các tập đoàn xã hội và thành viên trong xã hội.
- Theo Trần Văn Bình và cộng sự: “Lối sống là một phạm trù xã hội học,
khái quát toàn bộ hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các cá nhân trong
những điều kiện của một hình thái kinh tế xã hội nhất định và biểu hiện trên
các lĩnh vực đời sống trong lao động và hưởng thụ, trong quan hệ giữa con
người với con người, trong tinh thần và văn hóa”.

- Theo Nguyễn Trần Bạt (trang web chungta.com): “Lối sống là một thói
quen có định hướng, có chất lượng lí tưởng. Lối sống là phương cách thể hiện

20


tổng hợp tất cả các cấu trúc, nền văn hóa, đặc trưng văn hóa của một con
người hay một cộng đồng”. Theo ông lối sống bao gồm nhiều yếu tố cấu
thành như:
+ Cách thức lao động, làm ăn, kinh doanh …
+ Các phong tục, tập quán.
+ Cách thức giao tiếp ứng xử với nhau.
+ Quan niệm về đạo đức và nhân cách.
Ngoài ra còn có nhiều định nghĩa khác nhau về lối sống. Tuy nhiên
trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này phạm trù “lối sống” sẽ được hiểu
theo định nghĩa của PGS.TS Triết học Nguyễn Văn Huyên, đăng trên tạp chí
triết học 12/2003 như sau:
“Lối sống là tổ hợp mô hình, cách thức và phong thái sống của con
người thể hiện trong mọi phương thức cũng như lĩnh vực hoạt động, từ sản
xuất, tiêu dùng, sinh hoạt đến thái độ, hành vi, cách tư duy, lối ứng xử giữa
con người với con người, giữa chủ thể với đối tượng, giữa điều kiện với
phương tiện mục đích sống. Trong lối sống là tổng hòa những nét cơ bản,
khắc họa những đặc điểm, cuộc sống của cá nhân, của các nhóm người, của
giai cấp, dân tộc trong một xã hội nhất định” [11, tr.1].
Như vậy, theo định nghĩa này về lối sống thì ta có thể hiểu lối sống của
thanh niên chính là tổ hợp toàn bộ cách thức và phong thái sống của thanh
niên, thể hiện trong mọi phương thức cũng như mọi lĩnh vực hoạt động từ sản
xuất, tiêu dùng, sinh hoạt đến thái độ, hành vi, cách tư duy, lối ứng xử của
thanh niên được hiện thực hoá trong đời sống hàng ngày của họ.


21


×