Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Vận dụng quan điểm toàn diện vào phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở huyện ứng hoà (hà nội) trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (886.96 KB, 74 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

KIỀU THỊ HUỀ

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN
VÀO PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP,
NÔNG THÔN Ở HUYỆN ỨNG HÒA (HÀ NỘI)
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học

Người hướng dẫn khoa học
Th.S NGUYỄN THỊ GIANG

HÀ NỘI - 2014


LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo - Th.s Nguyễn Thị
Giang, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và truyền đạt kinh nghiệm cho
em trong suốt thời gian qua để em hoàn thành tốt khoá luận của mình.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô trong trường ĐHSP Hà Nội
2, đặc biệt là các thầy cô trong khoa giáo dục chính trị đã giảng dạy, dìu dắt
em trong suốt thời gian qua.
Em xin chân thành cảm ơn Ủy ban nhân dân huyện Ứng Hòa, các
phòng ban chuyên môn của huyện, xã đã nhiệt tình giúp đỡ và cung cấp đầy
đủ thông tin, tài liệu cần thiết cho quá trình thực hiện đề tài, cảm ơn các bạn
sinh viên và gia đình đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, do điều kiện hạn hẹp về thời gian
và do sự hạn chế về kiến thức của bản thân nên khoá luận của em không tránh


khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý
kiến của các thầy cô giáo và các bạn để khoá luận này được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Sinh viên thực hiện

Kiều Thị Huề


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan những vấn đề trình bày trong khoá luận là kết quả
nghiên cứu của bản thân em, có tham khảo các tài liệu dưới sự hướng dẫn của
cô giáo - Th.s Nguyễn Thị Giang. Khoá luận không trùng với đề tài nghiên
cứu của các tác giả khác. Nếu sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Sinh viên thực hiện

Kiều Thị Huề


DANH MỤC VIẾT TẮT
CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
PBC: Phép biện chứng
XHCN: Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
NỘI DUNG .................................................................................................... 6
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG .................................... 6

1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến - cơ sở triết học của quan điểm
toàn diện ............................................................................................................ 6
1.2. Khái niệm nông nghiệp, nông thôn và sự cần thiết phải phát triển
kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở huyện Ứng Hòa (Hà Nội) trong giai đoạn
hiện nay ........................................................................................................ 15
1.3. Nội dung của sự vận dụng quan điểm toàn diện vào phát triển kinh tế
nông nghiệp, nông thôn ở huyện Ứng Hòa (Hà Nội) trong giai đoạn
hiện nay ........................................................................................................ 20
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP,
NÔNG THÔN Ở HUYỆN ỨNG HÒA (HÀ NỘI) TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY ..................................................................................................... 24
2.1. Khái quát chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện
Ứng Hòa (Hà Nội)........................................................................................ 24
2.2. Thành tựu của kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở huyện Ứng Hòa
(Hà Nội) trong giai đoạn hiện nay ............................................................... 30
2.3. Hạn chế của kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở huyện Ứng Hòa(Hà Nội)
trong giai đoạn hiện nay................................................................................. 39
Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN KINH TẾ
NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở HUYỆN ỨNG HÒA (HÀ NỘI)
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY TRÊN CƠ SỞ VẬN DỤNG QUAN
ĐIỂM TOÀN DIỆN ...................................................................................... 45
3.1. Chủ trương, văn bản đường lối chỉ đạo chung của Đảng và cụ thể ở
huyện Ứng Hòa về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn .................... 45
3.2. Một số giải pháp cụ thể trong phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn
ở huyện Ứng Hòa (Hà Nội) trong giai đoạn hiện nay ................................. 52
KẾT LUẬN .................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 68


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Nông nghiệp đóng vai trò là cơ sở, nền tảng đối với nền kinh tế của mỗi
quốc gia, không chỉ là mũi phát triển chính của các nước chậm phát triển,
đang phát triển mà cả với các nước đã phát triển thì vẫn không thể bỏ qua lĩnh
vực kinh tế này. Nông nghiệp góp phần thúc đẩy nền kinh tế ngày càng phát
triển, ổn định chính trị, cải thiện đời sống cho nhân dân, đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia, là nguyên liệu cho các ngành kinh tế khác... Ở nước ta,
đặc biệt là những vùng nông thôn thì phát triển kinh tế nông nghiệp, nông
thôn luôn là nhiệm vụ quan trọng trong sự phát triển kinh tế.
Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển của đất nước, nền
kinh tế thành phố Hà Nội đã và đang có nhiều thay đổi theo hướng hiện đại
hóa trong tất cả các lĩnh vực. Đối với kinh tế nông nghiệp, nông thôn, thành
phố Hà Nội đã có những chủ trương chính sách phát triển nông nghiệp nông
thôn theo hướng sinh thái hiện đại kĩ thuật cao, đẩy mạnh công tác dồn điền
đổi thửa, chuyển dịch cơ cấu nội ngành nông nghiệp theo hướng hiệu quả bền
vững, chuyển dịch cơ cấu vùng, ưu tiên phát triển các vùng ven đô, vùng
ngoại thành gắn liền với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn và
xây dựng nông thôn mới.
Ứng Hòa là một huyện nằm ở phía Nam của thủ đô Hà Nội, trên trục
quốc lộ 21B, do từ năm 2008 theo Nghị định của thủ tướng chính phủ Hà Tây
và huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phúc, 4 xã của huyện Lương Sơn tỉnh Hòa
Bình đã sát nhập vào Hà Nội. Trong bối cảnh mới với xu thế thay đổi, trở
thành một huyện ngoại thành của thủ đô Hà Nội, nằm trong vị trí quan trọng
đó nhưng hiện nay Ứng Hòa vẫn là một huyện thuần nông, kinh tế nông
nghiệp đóng vai trò chủ đạo nhưng còn nhiều hạn chế, chậm phát triển, được
coi là một trong số huyện khó khăn nhất của tỉnh Hà Tây (cũ) và thành phố
Hà Nội (mới).

1



Hàng năm ban lãnh đạo các cấp ủy Đảng, chính quyền của huyện đã có
những chủ trương, chính sách phát triển... đối với kinh tế nông nghiệp, nông
thôn, mỗi một định kỳ đều đưa ra các nghị quyết, kế hoạch 5 năm được thực
hiện từ huyện đến các cấp xã thôn. Các chỉ đạo này đã được nhân dân tham
gia hưởng ứng và cố gắng hoàn thành mục tiêu nên đã đạt được những thành
tựu to lớn.
Tuy nhiên kinh tế nông nghiệp, nông thôn Ứng Hòa đến nay phát triển
vẫn chưa cân xứng với tiềm năng của huyện, nên ứng dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật, thâm canh còn hạn chế. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi chưa
mang tính hàng hóa trong nông nghiệp, thiếu ổn định. Kinh tế vườn, trang trại
chăn nuôi tuy có bước phát triển nhưng chưa đồng bộ, thiếu bền vững. Các
loại dịch vụ trong sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn chưa phát triển,
kinh tế nông nghiệp, nông thôn chưa có sự phát triển đột phá tạo điều kiện
ban đầu cho thúc đẩy kinh tế - xã hội.
Sự yếu kém của Ứng Hòa như vậy là do chính sách trong phát triển
kinh tế nông nghiệp, nông thôn còn vụn vặt nhỏ lẻ, thiếu đồng bộ toàn diện
chỉ dựa trên một góc độ, phạm vi nào đó, chưa có sự thống nhất khái quát cao,
hơn nữa lại đứng trước yêu cầu đòi hỏi của thời đại, của đất nước. Vì vậy, sự
phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn của huyện Ứng Hòa cần phải được
nhìn nhận từ quan điểm toàn diện, hay nói cách khác yêu cầu đặt ra hiện nay
là vận dụng quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác - Lênin vào phát triển
kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở huyện Ứng Hòa. Từ đó đưa ra các giải pháp
nhằm thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở Ứng Hòa phát triển nhanh,
mạnh và bền vững.
Trên chính là lí do mà tôi đã chọn đề tài: “Vận dụng quan điểm toàn
diện vào phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở huyện Ứng Hòa (Hà
Nội) trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài khóa luận của mình, với mong
2



muốn vận dụng kiến thức và phương pháp đã học góp phần thúc đẩy kinh tế
nông nghiệp, nông thôn Ứng Hòa phát triển toàn diện, có những khởi sắc mới
trong tương lai.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ứng Hòa là mảnh đất được khá nhiều người quan tâm nghiên cứu, tuy
nhiên ở những lĩnh vực, góc độ và phạm vi khác nhau. Nghiên cứu về Ứng Hòa
có ở một số công trình như: “Phát triển kinh tế huyện Ứng Hòa trong thời kì
công nghiệp hóa” của Th.s Chu Thị Hường; “Đánh giá hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp trên địa bàn huyện Ứng Hòa” Th.s Xuân Thị Thu Thảo.
Cuốn sách Ứng Hòa trong hành trình phát triển (2007), NXB Văn hóa
thông tin,...
Những công trình nghiên cứu trên là nguồn tài liệu tham khảo vô cùng
quý giá cho việc tìm hiểu, đi sâu nghiên cứu các vấn đề phát triển kinh tế
nông nghiệp, nông thôn ở huyện Ứng Hòa trong giai đoạn hiện nay. Các công
trình đó đã đề cập đến các vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế nông
nghiệp, nông thôn ở Ứng Hòa, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu dưới
góc độ Triết Học về vận dụng quan điểm toàn diện vào phát triển kinh tế nông
nghiệp, nông thôn ở huyện Ứng Hòa (Hà Nội) trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1 Mục đích
Vận dụng quan điểm toàn diện vào phát triển kinh tế nông nghiệp, nông
thôn ở Ứng Hòa, đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế để
thúc đẩy kinh tế Ứng Hòa phát triển vững mạnh, toàn diện.
3.2 Nhiệm vụ
Với mục đích trên, khóa luận cần thực hiện những nhiện vụ cơ bản sau:
- Tìm hiểu một số vấn đề lý luận chung về quan điểm toàn diện, kinh tế
nông nghiệp, nông thôn và nội dung của sự vận dụng quan điểm toàn diện

3



trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở huyện Ứng Hòa trong
giai đoạn hiện nay.
- Làm rõ thực trạng của kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở huyện Ứng
Hòa trong giai đoạn hiện nay, rút ra những thành tựu và hạn chế.
- Trên cơ sở thực trạng, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển
kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở huyện Ứng Hòa trong giai đoạn hiện nay
dựa trên cơ sở lí luận của quan điểm toàn diện.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Khóa luận vận dụng quan điểm toàn diện vào phát triển kinh tế nông
nghiệp, nông thôn ở huyện Ứng Hòa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn
huyện Ứng Hòa (Hà Nội) trong giai đoạn hiện nay (từ 2005 đến năm 2015).
5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
5.1. Cơ sở lí luận
Đề tài dựa trên quan điểm lí luận và phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin, các văn kiện đại hội Đảng, niên giám Ứng Hòa; kế thừa các tài
liệu của các nhà khoa học nghiên cứu về tình hình kinh tế chính trị, văn hóa,
xã hội ở huyện Ứng Hòa.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Ngoài ra khóa luận còn sử dụng một số phương pháp chủ yếu như:
- Phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp thống kê so sánh.
- Phương pháp diễn dịch, quy nạp.
- Phương pháp logic- lịch sử...

4


6. Đóng góp của đề tài
6.1. Ý nghĩa lí luận
Từ đó tạo cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu sự vận dụng quan điểm
toàn diện vào phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở huyện Ứng Hòa
trong giai đoạn hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đã vận dụng quan điểm toàn diện trong việc phát triển kinh tế ở Ứng
Hòa.
- Tài liệu dùng để tham khảo phát triển kinh tế Ứng Hòa và các tỉnh
khác, tham khảo phát triển kinh tế trên cả nước.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của khóa
luận còn gồm 3 chương và 8 tiết.

5


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến - cơ sở triết học của quan điểm
toàn diện
1.1.1. Khái niệm về phép biện chứng duy vật
Triết học ra đời vào khoảng thế kỷ VIII đến thế kỷ VI TCN, cùng với
đó phép biện chứng (PBC) đã xuất hiện. Trong quá trình phát triển PBC đã
trải qua 3 giai đoạn với 3 hình thức cơ bản là: PBC chất phác thời cổ đại, PBC
duy tâm và PBC duy vật.
PBC chất phác thời cổ đại là hình thức đầu tiên của PBC, thể hiện rõ rệt

trong “Thuyết âm dương”, “Thuyết ngũ hành” của triết học Trung Hoa cổ đại,
đặc biệt là trong nhiều học thuyết của triết học Hy Lạp cổ đại. Các nhà triết
học cho rằng các sự vật của thế giới xung quanh ta nằm trong một mớ chằng
chịt vô tận những sợi dây liên hệ và những tác động qua lại lẫn nhau, không
có cái gì là y nguyên, đứng yên mà tất cả đều vận động, biến hóa, sinh thành
và tiêu vong. Nhưng chưa đạt đến trình độ đi sâu phân tích giới tự nhiên, chưa
làm rõ được cái gì đang liên hệ cũng như những quy luật nội tại của sự vận
động và sự phát triển. PBC thời kỳ này còn nguyên thủy, ngây thơ, thiếu
những căn cứ khoa học do trình độ tư duy phát triển chưa cao, khoa học chưa
phát triển. Vì vậy, nó đã bị PBC siêu hình thay thế từ nửa cuối TK XV.
Trong giai đoạn tiếp theo, PBC duy tâm xuất hiện, bắt đầu với triết học
của Can tơ và hoàn thiện với triết học của Hêghen. Hêghen là đại biểu xuất
sắc của triết học cổ điển Đức ở cuối thế kỷ XVIII, đầu TK XIX, là người xây
dựng hoàn chỉnh PBC duy tâm. Tính chất duy tâm trong PBC của Hêghen thể
hiện ở chỗ ông coi “ý niệm tuyệt đối” tha hóa thành vận động của thế giới tự
nhiên và xã hội, cuối cùng trở về với chính mình trong tinh thần thế giới.
6


Thực chất PBC duy tâm khách quan của Hêghen là biện chứng của ý
niệm quy định tính biện chứng của sự vật và hiện tượng. PBC cổ điển Đức có
những đóng góp to lớn vào sự phát triển tư duy biện chứng của nhân loại, thúc
đẩy tư duy biện chứng lên một trình độ cao, nhưng hạn chế là PBC duy tâm
nên nó chưa trở thành cơ sở lý luận cho một thế giới quan khoa học.
Kế thừa có chọn lọc những thành quả của nhà triết học tiền bối, mà trực
tiếp nhất là PBC của Hêghen và quan điểm duy vật của Phơ Bách, dựa trên
khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học đương thời cũng như thực
tiễn loài người, vào giữa TK XIX C.Mác và Ph.Ăngghen đã sáng lập ra triết
học duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật và về sau được Lênin
phát triển. Trong phép biện chứng đó luôn có sự thống nhất hữu cơ giữa thế

giới quan duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã tiếp thu có phê phán triết học Hêghen và chủ
nghĩa duy vật Phơ Bách. Đối với Hêghen trong tác phẩm “Bộ tư bản”, Các
Mác đã viết: “... ở ông phép biện chứng lộn đầu xuống đất, chỉ cần dựng nó
lại là sẽ thấy được bộ mặt hoàn toàn có lí của nó” [18, tr.34].
Kế thừa có chọn lọc triết học cũ và phát triển cao hơn do vậy bản chất
PBC của Mác cao hơn về chất so với PBC của Hêghen. Chủ nghĩa Mác mang
giá trị to lớn đó là tính phê phán đối với mọi quan điểm sai trái, với những
quan điểm siêu hình và đối với mọi chủ nghĩa triết chung phản động, một
trong những kẻ xuyên tạc chủ nghĩa Mác là Đuyrinh - giáo sư môn cơ học
người Đức, nhà triết học và kinh tế học. Ăngghen đã phản đối và kịch liệt phê
phán quan điểm của Đuyrinh trong cuốn sách “Chống Đuyrinh”, chính trong
tác phẩm này Ăngghen đã đưa ra định nghĩa hoàn chỉnh về phép biện chứng:
“phép biện chứng chẳng qua là môn khoa học về những quy luật phổ biến của
sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội và của tư duy” [1, tr.39].
Sau này cuối TK XIX, đầu TK XX Lênin đã phát triển thêm học thuyết
của Mác và Ăngghen về PBC và chỉ rõ: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện
7


chứng là sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế, người ta sẽ nắm được
hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải
thích và một sự phát triển thêm” [17, tr.240].
PBC duy vật đã khái quát một cách đúng đắn quy luật vận động và phát
triển chung nhất của thế giới. Nhờ vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khắc phục
được những hạn chế vốn có của PBC chất phác thời cổ đại, cũng như những
sai lầm của PBC duy tâm khách quan thời cận đại, làm cho PBC duy vật trở
thành một khoa học và là hình thức phát triển cao nhất, hoàn bị nhất trong lịch
sử PBC.
PBC duy vật được tạo thành từ một loạt những nguyên lý, phạm trù,

quy luật được khái quát từ hiện thực, phù hợp với hiện thực. Đó là hai nguyên
lý (nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển), ba quy
luật (quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi
về chất và ngược lại; quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập;
quy luật phủ định của phủ định), và sáu cặp phạm trù (cái chung và cái riêng;
nguyên nhân và kết quả; tất nhiên và ngẫu nhiên; nội dung và hình thức; bản
chất và hiện tượng; khả năng và hiện thực). Song nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến và nguyên lý về sự phát triển vẫn được xem là những nguyên lý có ý
nghĩa khái quát nhất trong PBC duy vật. Tuy nhiên trong phạm vi khóa luận
này chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu về mối liên hệ phổ biến - cơ sở để xác định
quan điểm toàn diện.
1.1.2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
* Khái niệm về mối liên hệ phổ biến.
Khi giải thích về sự tồn tại của thế giới, những câu hỏi được đặt ra là:
Thứ nhất: Các sự vật, hiện tượng và các quá trình khác nhau của thế
giới có mối liên hệ tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại
biệt lập, tách rời nhau?

8


Thứ hai: Nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì đã quy định mối
liên hệ đó?
Trong lịch sử triết học, để trả lời cho những câu hỏi trên có nhiều quan
điểm khác nhau, thậm chí là trái ngược nhau.
Trả lời cho câu hỏi thứ nhất: Những người theo quan điểm siêu hình
cho rằng, các sự vật, hiện tượng tồn tại biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại
bên cạnh cái kia. Chúng không có sự phụ thuộc, không có sự ràng buộc, quy
định lẫn nhau. Nếu giữa chúng có sự quy định lẫn nhau thì cũng chỉ là những
quy định bề ngoài, mang tính ngẫu nhiên. Tuy vậy, trong số những người theo

quan điểm siêu hình cũng có một số người cho rằng các sự vật, hiện tượng có
mối liên hệ với nhau và mối liên hệ rất đa dạng phong phú, song các hình
thức liên hệ khác nhau không có khả năng chuyển hóa lẫn nhau. Chẳng hạn:
“Giới vô cơ và giới hữu cơ không có mối liên hệ gì với nhau; tồn tại độc lập,
không thâm nhập lẫn nhau; tổng số đơn giản của những con người riêng lẻ tạo
thành xã hội đứng yên không vận động” [3, tr. 208].
Trái lại những người theo quan điểm biện chứng lại cho rằng sự vật,
hiện tượng và các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác
động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau. Chẳng hạn, sự phát triển của kinh tế sẽ tác
động trực tiếp đến vấn đề chính trị, xã hội, giáo dục, y tế,... không chỉ trong
một nước mà còn trên toàn thế giới và ngược lại, sự ổn định, phát triển của
chính trị, xã hội, giáo dục, y tế,... của mỗi nước cũng sẽ có sự ảnh hưởng, tác
động trở lại đối với sự phát triển kinh tế của nước đó.
Trả lời câu hỏi thứ hai: Những người theo chủ nghĩa duy tâm khách
quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng, cái quyết định mối liên hệ, sự
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng là một lượng siêu tự nhiên
nào đó hay do ý thức cảm giác của con người. Đứng trên quan điểm duy tâm
chủ quan Béccơli cho rằng cảm giác là nền tảng của mối liên hệ của các sự
9


vật hiện tượng. Hêghen xuất phát từ quan điểm duy tâm khách quan lại vạch
ra rằng “ý niệm tuyệt đối” là nền tảng của mối liên hệ giữa các sự vật hiện
tượng.
Những người theo quan điểm duy vật biện chứng khẳng định tính thống
nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng.
Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới dù có đa dạng, phong phú, có khác
nhau bao nhiêu song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới
duy nhất, thống nhất - thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng
không thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau mà tồn tại trong sự tác động qua lại,

chuyển hóa lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó, triết
học duy vật biện chứng khẳng định rằng: “Mối liên hệ là phạm trù triết học
dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các
sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong
thế giới” [3, tr. 210]
* Các tính chất của mối liên hệ
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ có 3
tính chất cơ bản: tính khách quan, tính phổ biến, và tính đa dạng phong phú.
- Tính khách quan: Vì mối liên hệ là khách quan vốn có của sự vật hiện
tượng. Nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người hay thần linh
thượng đế. Ngay cả những sự vật vô tri vô giác cũng đang hàng ngày chịu sự
tác động của các sự vật, hiện tượng khác như: ánh sáng, nhiệt độ, không
khí,… Con người - một sinh vật phát triển cao nhất trong tự nhiên, dù muốn
hay không, cũng luôn bị tác động của các sự vật, hiện tượng khác và các yếu
tố ngay trong chính bản thân mình. Ngoài sự tác động của tự nhiên con người
còn tiếp nhận sự tác động của xã hội và của những người khác. Chính con
người và cũng chỉ có con người mới dám tiếp nhận vô vàn các mối liên hệ.
Do vậy con người phải hiểu biết các mối liên hệ vận dụng chúng vào hoạt
10


động của mình, giải quyết các mối liên hệ phù hợp nhằm phục vụ nhu cầu lợi
ích của toàn xã hội và bản thân con người. Chỉ có liên hệ với nhau sự vật,
hiện tượng mới tồn tại, vận động và phát triển.
- Tính phổ biến: Xuất phát từ bản thân tính biện chứng của thế giới mỗi
sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất. Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng
liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác, không có sự vật hiện tượng nào tồn tại
một cách cô lập, biệt lập, nằm ngoài mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng
khác. Ví dụ, trong thời đại ngày nay, không một quốc gia nào không có quan
hệ với quốc gia khác, không liên hệ với quốc gia khác về mọi mặt đời sống xã

hội. Chính vì thế hiện nay trên thế xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa ngày
càng phát triển. Nhiều vấn đề đã và đang trở thành vấn đề toàn cầu như: Đói
nghèo, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, chiến tranh,…
Tiếp đó, mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể
tùy theo điều kiện nhất định. Song dù dưới hình thức nào chúng cũng chỉ là
biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất. Những hình thức liên hệ
riêng rẽ, cụ thể được các nhà khoa học nghiên cứu. PBC duy vật chỉ nghiên
cứu những mối liên hệ chung nhất, bao quát nhất của thế giới.
- Tính đa dạng: quan điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định
tính khách quan, tính phổ biến của sự liên hệ giữa các sự vật hiện tượng, các
quá trình mà nó còn nêu rõ tính đa dạng của sự liên hệ đó. Sự vật khác nhau,
hiện tượng khác nhau, không gian khác nhau thì các mối liên hệ biểu hiện
khác nhau: Có mối liên hệ bên ngoài, có mối liện hệ bên trong, có mối liên hệ
chủ yếu, mối liên hệ thứ yếu, có mối liên hệ chung bao quát toàn thế giới, có
mối liên hệ bao quát một số lĩnh vực hoặc lĩnh vực riêng biệt của thế giới, có
mối liên hệ trực tiếp, có mối liên hệ gián tiếp, có mối liên hệ bản chất và mối
liên hệ không bản chất, liên hệ tất yếu và liên hệ ngẫu nhiên. Có mối liên hệ
giữa các sự vật khác nhau, có mối liên hệ giữa các mặt khác nhau của cùng

11


một sự vật. Sự vật, hiện tượng nào cũng vận động và phát triển qua nhiều giai
đoạn khác nhau, giữa các giai đoạn đó cũng có mối liên hệ với nhau tạo thành
một lịch sử phát triển hiện thực của các sự vật và các quy trình tương ứng.
Tính đa dạng của sự liên hệ đó là do tính đa dạng trong sự tồn tại, sự
vận động và phát triển của chính sự vật, hiện tượng quy định.
Các loại liên hệ khác nhau có vai trò khác nhau đối với sự vận động và
phát triển của các sự vật hiện tượng, đồng thời các liên hệ khác nhau có thể
chuyển hóa lẫn nhau.

Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối, vì mỗi loại
mối liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của mối liên hệ
phổ biến. Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hóa lẫn nhau tùy
theo phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động và phát triển
của chính sự vật.
Mặc dù phân chia thành các loại mối liên hệ chỉ mang tính tương đối
nhưng sự phân chia đó lại rất cần thiết, bởi vì mỗi loại mối liên hệ có vị trí và
vai trò xác định trong sự vận động và phát triển của sự vật. Con người phải
nắm bắt được đúng các mối liên hệ đó để có cách tác động phù hợp nhằm đưa
lại hiệu quả cao nhất cho hoạt động của mình.
Như vậy bất kì sự vật, hiện tượng nào trong thế giới cũng luôn tồn tại
trong mối liên hệ mật thiết với các sự vật, hiện tượng khác. Do đó, muốn tìm
hiểu về một sự vật, hiện tượng nào đó chúng ta cần phải đặt nó trong mối liên
hệ, quan hệ với xung quanh, nghĩa là phải xem xét một cách toàn diện. Đó
cũng chính là nguyên tắc phương pháp luận rút ra từ nguyên lí mối liên hệ
phổ biến.
1.1.3 Một số nguyên tắc, phương pháp luận rút ra từ mối liên hệ phổ biến
* Quan điểm toàn diện
Vì bất cứ sự vật, hiện tượng nào trên thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ
với các sự vật, hiện tượng khác và mối liên hệ đó rất đa dạng, phong phú, do đó
12


khi nhận thức về một sự vật, hiện tượng chúng ta phải có quan điểm toàn diện,
tránh rơi vào quan điểm phiến diện chỉ xét sự vật, hiện tượng ở một vài mối liên
hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay về tính quy luật của chúng.
Trên cơ sở quán triệt quan điểm toàn diện trong mọi hoạt động nhận
thức và thực tiễn, quan điểm toàn diện đặt ra các yêu cầu sau:
Thứ nhất: Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật
trong mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các mặt của chính sự

vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác. Cần tránh
quan điểm phiến diện chỉ xem xét sự vật, hiện tượng ở một vài mối liên hệ đã
vội vàng kết luận về bản chất của sự vật, hiện tượng.Chỉ trên cơ sở đó chúng
ta mới nhận thức đúng về sự vật. Chẳng hạn muốn nhận thức đúng và đầy đủ
tri thức khoa học của triết học, chúng ta cần phải tìm ra mối liên hệ giữa tri
thức triết học với các môn khoa học khác và cả tri thức của cuộc sống. Vì tri
thức triết học được khái quát từ tri thức các môn khoa học khác và hoạt động
thực tiễn của con người. Một trong những nguyên nhân làm cho người học
không nắm vững tri thức của triết học chính là do người học không biết liên
hệ giữa tri thức của triết học với tri thức ngoài thực tiễn cuộc sống.
Thứ hai, Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng
mối liên hệ, phải chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, chủ
yếu, thứ yếu, tất nhiên… để hiểu đúng, rõ bản chất của sự vật và từ đó có
phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt
động của bản thân. Đương nhiên, trong nhận thức và hành động, chúng ta cần
lưu ý tới sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện xác
định. Trong quan hệ giữa con người với con người, chúng ta phải biết ứng xử
sao cho phù hợp với từng con người. Ngay cả quan hệ với một con người nhất
định ở những không gian và thời gian khác nhau chúng ta cũng phải có những
cách giao tiếp, cách quan hệ phù hợp. Như ông cha ta đã đúc kết: “đối nhân
xử thế”.
13


Thứ ba, Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta tránh rơi vào sai lầm của
chủ nghĩa triết chung và thuật ngụy biện. Thực chất của chủ nghĩa triết chung
là không biết rút ra mặt bản chất, mối liên hệ căn bản cho nên rơi vào chỗ cào
bằng các mặt, kết hợp một cách vô nguyên tắc các mối liên hệ khác nhau, do
đó hoàn toàn bất lực khi cần phải có quyết sách đúng đắn. Tương tự như vậy,
thuật ngụy biện cũng để ý tới những mặt, những mối liên hệ khác nhau của sự

vật, nhưng lại đưa cái không cơ bản thành cái cơ bản, cái không bản chất
thành cái bản chất.
Những quan điểm trên đã phản ánh sai lệch, xuyên tạc sự vật, hiện
tượng. Do đó, trong hoạt động thực tiễn, theo quan điểm toàn diện, khi tác
động vào sự vật chúng ta không những phải chú ý đến những mối liên hệ nội
tại của nó mà còn phải chú ý tới mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác.
* Nguyên tắc lịch sử - cụ thể
Mọi sự vật tồn tại trong không gian, thời gian nhất định và mang dấu ấn
của không gian, thời gian. Do vậy chúng ta cần có quan điểm lịch sử - cụ thể
khi xem xét và giải quyết một vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Nguyên tắc lịch sử cụ thể có nghĩa là: trong những điều kiện hoàn cảnh
khác nhau thì mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng cũng khác nhau.
Nguyên tắc lịch sử cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật hoặc
tác động vào sự vật phải chú ý đến hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể, môi
trường cụ thể trong đó sự vật, hiện tượng sinh ra, tồn tại và phát triển. Một
luận điểm nào đó sẽ là luận điểm khoa học trong điều kiện này nhưng không
phải luận điểm khoa học trong điều kiện khác. Chẳng hạn, trong cuộc Tổng
khởi nghĩa giành chính quyền Tháng 8/ 1945, mục tiêu của cả nước là độc lập
dân tộc, đánh đổ thực dân Pháp giành độc lập tự do được đặt lên hàng đầu.
Nhưng trong giai đoạn hiện nay, thời bình, chúng ta phải thực hiện thành công
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa đất nước thoát khỏi
14


đói nghèo, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng chủ nghĩa
xã hội nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ xã hội công bằng văn
minh, lúc này mục tiêu độc lập dân tộc không phải là mục tiêu hàng đầu nữa.
Do đó khi nhận thức về sự vật, hiện tượng và tác động vào sự vật, hiện tượng
phải chú ý đến điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, môi trường cụ thể trong đó
sự vật, hiện tượng sinh ra tồn tại và phát triển.

Như vậy trong khi tìm hiểu về mối liên hệ phổ biến chúng ta rút ra quan
điểm toàn diện và nguyên tắc lịch sử cụ thể. Đây là hai nguyên tắc có ý nghĩa
quyết định đối với quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên
trong phạm vi của khóa luận, chúng tôi chỉ đi sâu tìm hiểu về việc vận dụng
quan điểm toàn diện vào phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở huyện
Ứng Hòa (Hà Nội) trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Khái niệm nông nghiệp, nông thôn và sự cần thiết phải phát triển
kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở huyện Ứng Hòa (Hà Nội) trong giai
đoạn hiện nay
1.2.1. Khái niệm về nông nghiệp, nông thôn
Nông nghiệp
Theo nghĩa hẹp, đó là ngành sản xuất vật chất mà con người phải dựa vào
quy trình sinh trưởng của cây trồng vật nuôi nhằm tạo ra sản phẩm lương thực,
thực phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của mình. Nông nghiệp theo nghĩa
rộng còn được hiểu là bao gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp[ 4, tr. 312].
Như vậy nông nghiệp là ngành sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào điều
kiện tự nhiên như: đất đai, nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa, bức xạ mặt trời,… là
ngành gặp khó khăn trong việc ứng dụng khoa học công nghệ. Do vậy nông
nghiệp cũng là ngành sản xuất có năng suất lao động rất thấp. Ngoài ra, sản
xuất nông nghiệp ở nước ta thường gắn liền với những phương pháp canh tác,
tập quán cổ truyền … đã có từ hàng nghìn năm nay.
15


Khái niệm nông thôn
Nông thôn là khái niệm dùng để chỉ một địa bàn mà ở đó sản xuất nông
nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, dân cư chủ yếu làm nông nghiệp. Nông thôn có thể
được xem xét trên nhiều góc độ: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,... [4, tr. 313].
Kinh tế nông thôn
Là khu vực kinh tế gắn liền với địa bàn nông thôn. Kinh tế nông thôn

gồm các ngành nghề, các thành phần kinh tế có quan hệ tác động qua lại với
nhau. Các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
và dịch vụ. Trong đó chủ yếu là các thành phần kinh tế: tập thể, nhà nước, cá
thể... kinh tế nông nghiệp còn có các vùng như: vùng chuyên canh lúa, chuyên
canh hoa màu, trồng cây ăn quả...[ 4, tr. 313].
1.2.2. Sự cần thiết phải phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở huyện
Ứng Hòa (Hà Nội) trong giai đoạn hiện nay
* Phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở huyện Ứng Hòa trong giai đoạn
hiện nay là một tất yếu khách quan
Từ xa xưa cho đến nay, nông nghiệp luôn đóng vai trò hết sức quan
trọng đối với sự phát triển của xã hội loài người. Kinh tế nông nghiệp là cơ sở
nền tảng để phát triển các ngành kinh tế khác, dù công nghiệp và dịch vụ có
phát triển đến đâu cũng không thay thế được các sản phẩm nông nghiệp. Nông
nghiệp là ngành cung cấp lương thực, thực phẩm thiết yếu cho con người, nâng
cao mức sống dân cư, đảm bảo ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
Ứng Hòa vốn là một huyện thuần nông lấy kinh tế nông nghiệp làm
đầu, nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng nhất của huyện. Trên cơ sở thế
mạnh về đất đai màu mỡ, khí hậu thuận lợi, nguồn nước dồi dào cùng với đội
ngũ lao động có truyền thống canh tác lâu đời, đã tạo điều kiện và thúc đẩy
kinh tế nông nghiệp Ứng Hòa phát triển. Với số người sống ở nông thôn
chiếm khoảng 92,7% dân số Huyện và gần một nửa (47,4%) lao động hoạt

16


động trong lĩnh vực nông nghiệp. Vì thế đây là ngành có vai trò thực sự quan
trọng trong quá trình phát triển nông thôn Ứng Hòa.
Mặc dù đã có sự phát triển hơn so với thời điểm trước, nhưng thực
trạng nền kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở Ứng Hòa hiện nay vẫn còn nhiều
mặt hạn chế, yếu kém. Thu nhập bình quân đầu người năm 2013 toàn huyện

đạt 16,46 triệu đồng/người/năm cao hơn 5,7 triệu đồng so với năm 2010. Tuy
nhiên so với bình quân chung của toàn thành phố (24,7 triệu đồng/ng/ năm)
mức thu nhập này vẫn còn khá khiêm tốn.( Báo cáo tổng kết tình hình phát
triển kinh tế- xã hội của huyện Ứng Hòa năm 2013).Đời sống dân cư còn gặp
nhiều khó khăn, dân cư đa phần sống ở nông thôn, tỷ lệ hộ nghèo toàn huyện
cũng vẫn còn cao hơn bình quân của thành phố hiện ở mức 5,6%. Việc nâng
cao thu nhập và cải thiện đời sống cho người dân, đáp ứng tiêu chí nông thôn
mới trên địa bàn huyện Ứng Hòa còn gặp nhiều khó khăn bởi đặc thù là huyện
thuần nông.
Phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở Ứng Hòa còn là giải pháp
quan trọng để giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội ở nông thôn, đặc biệt là
vấn đề việc làm cho người lao động, hướng nông dân vào đa dạng hóa nông
nghiệp, giải quyết vấn đề chiến lược an ninh quốc phòng và khai thác tận
dụng các nguồn lực hiện có của huyện (diện tích đất nông nghiệp màu mỡ,
nguồn nước tưới tiêu phong phú, khí hậu thuận lợi…).
Ứng Hòa có nhiều lợi thế trong phát triển nông nghiệp, phát triển nông
nghiệp sẽ tận dụng được những nguồn lực hiện có. Bên cạnh đó phát triển
nông nghiệp còn là cơ sở để thúc đẩy công nghiệp như: công nghiệp chế biến,
sản xuất hàng tiêu dùng, dịch vụ nông nghiệp và dịch vụ khác…
Như vậy phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở huyện Ứng Hòa
(Hà Nội) trong giai đoạn hiện nay là một tất yếu khách quan. Nó góp phần
thúc đẩy sự phát triển kinh tế chung của toàn huyện, nâng cao đời sống nhân
dân, đưa Ứng Hòa phát triển kịp với sự phát triển của thành phố và cả nước.
17


* Vị trí, vai trò của kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở huyện Ứng Hòa đối
với phát triển kinh tế của Hà Nội và đất nước.
Theo Quyết định về mở rộng hành chính cho thủ đô Hà Nội, từ ngày
1/8/2008, Ứng Hòa trở thành một huyện của thành phố Hà Nội. Là một huyện

ngoại thành, nhưng Ứng Hòa có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung.
Ứng Hòa là huyện đồng bằng nằm trong vùng thuộc nền văn minh lúa
nước sông Hồng, có điều kiện khí hậu đất đai đa dạng, phù hợp với một nền
nông nghiệp sinh thái toàn diện, mang đặc trưng của nền sản suất nông nghiệp
truyền thống, bên cạnh đó, nhân dân cần cù lao động, giàu kinh nghiệm sản
xuất nông nghiệp. Vì vậy sản xuất nông nghiệp, nông thôn ở Ứng Hòa khá
phát triển, có vai trò đáng kể trong việc cung cấp lương thực,thực phẩm, sản
phẩm nông nghiệp như: cung cấp rau sạch, các sản phẩm chăn nuôi, thủy
sản,… cho thị trường Hà Nội và các vùng khác. Cung cấp nguyên liệu cho các
ngành công nghiệp khác, tạo ra thu nhập cho người dân.
Chính vì vậy sự phát triển kinh tế nông nghiệp của Ứng Hòa sẽ góp
một phần quan trọng vào việc đảm bảo nguồn cung cấp lương thực thực phẩm
cho thành phố, giúp thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, cải thiện và nâng cao đời
sống nhân dân của huyện cũng như thúc đẩy và nâng cao vị thế của Hà Nội.
Với vị trí địa lý, giao thông thuận tiện, Ứng Hòa là một trong những
cửa ngõ quan trọng phía đông nam của thành phố Hà Nội, nằm trên cầu nối
giữa vùng đồng bằng với vùng rừng núi Hòa Bình. Đặc biệt, có tuyến đường
quốc lộ 21B bắt đầu từ thành phố Hà Đông đi Thanh Oai và có nhiều tuyến
đường liên huyện quan trọng. Chạy theo hướng Tây - Đông, nối liền với
đường quốc lộ 21B với quốc lộ số 1 như tuyến tỉnh lộ 60, 73, 75,… đã tạo
điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán hàng hóa, đặc biệt là việc cung
cấp nhu yếu phẩm cho thị trường các tỉnh như Hòa Bình, Hà Nam… Bên cạnh
18


đó Ứng Hòa có một số chợ lớn nằm sát đường giao thông chính, đó chính là
những cái cầu giao lưu hàng hóa đối với các vùng xung quanh như các chợ:
Vân Đình, chợ Đanh, chợ Ba Thá… Điều này đã góp phần thúc đẩy kinh tế
nông nghiệp cũng như nền kinh tế của thành phố Hà Nội, đưa Hà Nội trở

thành thành phố có nền kinh tế phát triển lớn nhất nhì trong cả nước.
Hà Nội là thủ đô trung tâm kinh tế chính trị lớn trong cả nước, sự phát
triển của kinh tế nông nghiệp, nông thôn Hà Nội sẽ thúc đẩy sự phát triển
kinh tế của cả nước.Vì vậy phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở Ứng
Hòa đóng vai trò hết sức quan trọng.
* Thực trạng kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở huyện Ứng Hòa còn nhiều
yếu kém, hạn chế
Mặc dù sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, song sản xuất nông nghiệp
chưa đáp được yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng và xã hội, cũng
như chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp, chuyển dịch theo hướng tích
cực của vùng và cả nước; nhiều nguồn lực của huyện chưa được khai thác
hiệu quả, cơ cấu nội ngành kinh tế nông nghiệp, nông thôn chuyển dịch chậm,
chưa đồng đều, thiếu vững chắc.
Khu vực kinh tế tập thể, nhất là hợp tác xã nông nghiệp còn nhiều hạn
chế, hoạt động kém hiệu quả, nhiều hợp tác xã không năng động, nhạy bén,
nhiều khâu dịch vụ hiệu quả thấp hoặc bị thua lỗ.
Việc ứng dụng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ cao vào sản
xuất nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế, chưa tạo được hàng hóa nông
nghiệp sạch và có thương hiệu trên thị trường. Ở một số xã như: Hòa Lâm,
Đội Bình, Hòa Phú,...vẫn sử dụng sức lao động của con người là chủ yếu.
Hệ thống hạ tầng kĩ thuật, đặc biệt là kết cấu hạ tầng giao thông tuy có
cải thiện, song vẫn không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội,
nhất là giao thông nông thôn còn nhiều khó khăn, hệ thống đường giao thông
19


cấp huyện và liên xã còn nhỏ hẹp, xuống cấp do việc duy tu, sửa chữa không
thường xuyên. Các trục tuyến chính kết nối với bên ngoài, với các quận, các
huyện trong Thành phố, với các tỉnh đồng bằng sông Hồng, vùng kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ còn chưa được đầu tư nhiều và chưa đồng bộ.Tình trạng vi

phạm luật đê điều và pháp lệnh khai thác, bảo vệ công trình thủy lợi chưa
được ngăn chặn triệt để.
Kết quả đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người lao động còn
hạn chế. Kinh phí hỗ trợ từ ngân sách rất thấp, khó tiếp cận nguồn vốn vay.
Cơ chế, chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân còn hạn chế. Sự hạn hẹp
của Ngân sách huyện, dựa chủ yếu vào sự hỗ trợ của thành phố Hà Nội trong
cân đối Ngân sách hàng năm của địa phương, ảnh hưởng đến sự phát triển ổn
định, bền vững của huyện.
Thị trường tiêu thụ chưa ổn định, chưa có cửa hàng kinh doanh và giới
thiệu sản phẩm rau an toàn. Tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, manh mún vẫn còn
nhiều, gây mất vệ sinh môi trường. Trong sản xuất nông nghiệp, chưa hình
thành các vùng chuyên canh nông nghiệp với quy mô lớn. Việc triển khai các
chương trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo các mô hình chuyên
canh, đa canh, nuôi thủy sản còn gặp nhiều khó khăn. Sản phẩm sản xuất
nông nghiệp mới chỉ đáp ứng được một phần cho thị trường Hà Nội, hàng hóa
buôn bán với các tỉnh khác còn ít cả về số lượng và phạm vi. Đầu tư cho nông
nghiệp, nông thôn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
1.3. Nội dung của sự vận dụng quan điểm toàn diện vào phát triển kinh
tế nông nghiệp, nông thôn ở huyện Ứng Hòa (Hà Nội) trong giai đoạn
hiện nay
Kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở Ứng Hòa mặc dù đã có sự phát triển
hơn thời điểm trước, nhưng nhìn chung trong giai đoạn hiện nay vẫn còn
nhiều hạn chế và thiếu sót do chưa được phát triển một cách toàn diện, đồng
20


×