Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

HOẠT ĐỘNG của các tổ CHỨC tài CHÍNH PHI NGÂN HÀNG và tác ĐỘNG của nó tới nền KINH tế VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.03 KB, 25 trang )

THẢO LUẬN MÔN TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG VÀ
SỰ PHÁT TRIỂN
NHÓM 2 - LỚP 16 Q
ĐỀ TÀI: HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH PHI NGÂN HÀNG VÀ TÁC
ĐỘNG CỦA NÓ TỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM

ĐẶT VẤN ĐỀ
Việc đẩy mạnh phát triển định chế tài chính là việc làm cần thiết và cấp bách. Trong đó,
đánh giá đúng đắn sự phát triển các tổ chức tài chính phi ngân hàng trong những năm qua là tiền
đề để có những giải pháp và bước đi thích hợp trong việc hoàn thiện dịch vụ tài chính nói chung
của nước ta. Phát triển các định chế tài chính phi ngân hàng trong sự hòa hợp cùng dịch vụ tài
chính ngân hàng là cơ sở để hoàn thiện thị trường tài chính, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh
tế của đất nước trong quá trình hội nhập.
Điểm cốt lõi của các tổ chức tài chính phi ngân hàng là chúng xuất hiện từ những giới hạn
và rào cản trong kinh doanh dịch vụ ngân hàng, sử dụng những công cụ và cách thức tổ chức
thích hợp để đáp ứng các nhu cầu tín dụng chuyên biệt. Tùy thực tế từng nước mà hình thành nên
các đặc thù của tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng như vị thế của chúng trong hệ thống tài
chính mỗi quốc gia. Vì vậy sẽ tốt hơn nếu tiếp cận từ góc độ các tổ chức tài chính. Đề tài thảo
luận tập trung nghiên cứu các tổ chức tài chính Phi ngân hàng hoạt động dưới các loại hình tổ
chức sau: Công ty tài chính; Công ty cho thuê tài chính; Quỹ đầu tư.; Các tổ chức tài chính của
Chính phủ và địa phương; Bảo hiểm; Công ty chứng khoán.
Trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động của các Tổ chức tài chính phi Ngân hàng của
nước ta ; hiệu quả hoạt động cũng như những khó khăn, tồn tại vướng mắc và cơ chế chính sách
về quản lý nhà nước… để từ đó đưa ra các giải pháp phát triển.
I - TỔNG QUAN VỀ CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH PHI NGÂN HÀNG
Định chế tài chính Phi Ngân hàng là loại hình tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tài chính – tiền tệ, được thực
hiện một số hoạt động Ngân hàng như là hoạt động kinh doanh thường xuyên nhưng không được nhận tiền
gửi không kì hạn và không làm dịch vụ thanh toán.

Các tổ chức tài chính phi Ngân hàng bao gồm: Công ty Bảo hiểm, Công ty Tài chính, Công ty
cho thuê tài chính, Quỹ đầu tư, các định chế tài chính phi Ngân hàng khác (Quỹ cho vay của


chính phủ, các công ty chứng khoán, sở giao dịch chứng khoán…)
Các Tổ chức tài chính phi Ngân hàng có một số đặc điểm chung như:
• Huy động các món tiền gửi có kỳ hạn để đưa vào lĩnh vực đầu tư
• Cung cấp một số loại hình dịch vụ ngân hàng như nhận đại lý, môi giới, ủy thác… và mỗi
loại hình còn có chức năng đặc biệt tùy theo mục tiêu hoạt động
• Không được nhận tiền gửi không kỳ hạn và không làm dịch vụ thanh toán cho khách hàng
nên không tham gia vào quá trình tạo tiền và do đó không bị chi phối, điều hành, kiểm
soát chặt chẽ của Ngân hàng Trung ương






Nếu như các khoản đầu tư của Ngân hàng thương mại chủ yếu tập trung vào lĩnh vực
thương mại và công nghiệp thì các tổ chức tài chính phi ngân hàng lại tập trung chủ yếu
vào lĩnh vực chứng khoán, cho vay tiêu dùng và thế chấp
Các Ngân hàng thương mại không ngừng mở rộng dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng, còn
các tổ chức tài chính phi ngân hàng lại tăng cường dịch vụ trên các mặt môi giới, đại lý
chứng khoán và các dịch vụ ủy thác.

Những đặc điểm trên giúp chúng ta phân biệt được Ngân hàng và các định chế tài chính phi ngân
hàng. Tuy nhiên ranh giới phân biệt này ngày càng bị xóa nhòa do những thay đổi trong cơ cấu và
xu hướng pha trộn các hoạt động nghiệp vụ giữa các loại hình trung gian tài chính.
II - HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH PHI NGÂN HÀNG CỦA NƯỚC TA
CÔNG TY BẢO HIỂM:
1. Khái niệm về công ty Bảo hiểm
Công ty bảo hiểm là một định chế tài chính trung gian thực hiện việc huy động vốn bằng cách
bán các hợp đồng bảo hiểm, đồng thời sử dụng vốn vào các hoạt động đầu tư, bù đắp cho người
mua bảo hiểm khi có rủi ro xảy ra theo các điều khoản ký kết trong hợp đồng bảo hiểm. Các hợp

đồng bảo hiểm có thể do các công ty bảo hiểm nhân thọ hoặc công ty bảo hiểm phi nhân thọ cung
cấp.
Công ty bảo hiểm thực hiện trung gian tài chính bằng cách sử dụng phí bảo hiểm đã thu được
thông qua việc bán các hợp đồng bảo hiểm để đầu tư kinh doanh sinh lời. Từ kết quả hoạt động
đầu tư, công ty bảo hiểm sử dụng thanh toán cho các khoản tổn thất do rủi ro bất ngờ trong phạm
vi được quy định trong hợp đồng bảo hiểm
2. Sự hình thành các Công ty Bảo hiểm ở Việt Nam
Cùng với sự mở rộng kinh tế thị trường, thu hút nguồn lực đầu tư của nước ngoài, phát triển kinh
tế - xã hội, Chính phủ Việt Nam cũng rất quan tâm và đánh giá cao đến việc phát triển thị trường
bảo hiểm một cách toàn diện, lành mạnh nhằm đáp ứng nhu cầu bảo hiểm cơ bản của nền kinh tế,
dân cư và cũng rằng việc phát triển ngành bảo hiểm đồng hành với sự phát triển kinh tế - xã hội
là một điều tất yếu.
Chính nhờ sự quan tâm của Chính phủ qua việc ban hành Nghị định số 100/1993/ND-CP đã
chính thức chấm dứt sự độc quyền về bảo hiểm; điều này, cùng với sự ra đời của Luật bảo hiểm
đã góp phần hình thành hàng loạt các công ty bảo hiểm trong và ngoài nước. Thị trường bảo hiểm
Việt Nam đã hình thành và đã có nhiều bước phát triển nhanh chóng.
Xét theo giác độ doanh nghiệp, các công ty bảo hiểm vừa là nhà phát hành chứng khoán, định chế
trung gian tài chính, vừa là nhà đầu tư trên thị trường vốn.
Hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm diễn ra khá phong phú. Các công ty bảo hiểm có thể
sử dụng các nguồn như: vốn điều lệ, quỹ dự trữ bắt buộc; quỹ dự trữ tự nguyện; các khoản lãi của
những năm trước chưa sử dụng và các quỹ được sử dụng để đầu tư, chúng được hình thành từ lợi
tức để lại của doanh nghiệp và nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm


3. Qúa trình phát triển của các Công ty Bảo hiểm ở Việt Nam
Thông qua hoạt động kinh doanh, các công ty bảo hiểm đã tạo lập được nguồn tài chính lớn để
đầu tư trở lại nền kinh tế, thúc đẩy sự hình thành và phát triển thị trường vốn. Tổng nguồn vốn
thực tế đầu tư của các công ty bảo hiểm Việt Nam tăng nhanh qua các năm. Năm 1993 là 74 tỷ
đồng thì đến năm 2002 đã là 7.391 tỷ đồng, tăng gấp gần 100 lần, đến năm 2004 hầu hết các công
ty bảo hiểm đều tăng vốn kinh doanh, đưa tổng số vốn tăng 16 lần so với năm 2000. Tính đến

cuối năm 2006, đã có trên 34.400 tỉ đồng, chiếm 4,07% GDP, được các công ty bảo hiểm đầu tư
trở lại nền kinh tế. Với hơn 800 sản phẩm các loại, nguồn thu chủ yếu của ngành là từ phí bảo
hiểm. Mức tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm của ngành từ 1993 đến 2004 là 38%/năm. Đóng
góp của doanh thu phí bảo hiểm vào GDP cũng có tăng trưởng đáng kể. Từ 0,37% năm 1993 tăng
lên 2,13% vào cuối năm 2006. Tổng số tiền bồi thường bảo hiểm cho các tổ chức kinh tế và dân
cư từ năm 2000 - 2005 đạt trên 12.300 tỉ đồng.
Nghị định 45-46 sửa đổi Nghị định số 42-43 và các thông tư hướng dẫn về hoạt động kinh doanh
bảo hiểm được ban hành cùng với các cam kết của Việt Nam về gia nhập WTO có hiệu lực từ
1/1/2007, đã tạo nhiều cơ hội cho hoạt động khai thác dịch vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm có
vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Một số văn bản pháp luật liên quan tới hoạt động kinh doanh bảo hiểm được ban hành đã tác
động tích cực tới khả năng tăng trưởng doanh thu bảo hiểm cho toàn thị trường như Nghị định bắt
buộc về bảo hiểm cháy nổ, bảo hiểm xe cơ giới, hay Nghị định mới qui định về bảo hiểm y tế
thay đổi cách thức chi trả (bệnh nhân tự đóng 20%), Nghị định qui định chi tiết luật du lịch yêu
cầu các công ty lữ hành mua bảo hiểm bắt buộc cho khách.
Tính đến thời điểm này, toàn thị trường có 19 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, trong đó có 7
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Nhiều doanh nghiệp bảo hiểm mới thành lập đã đi vào ổn định và bắt đầu mở rộng hoạt động
như:
-

BIC phát triển mạnh nhờ sự hỗ trợ tích cực của BIDV trong các dự án đầu tư lớn,

-

Bảo hiểm Toàn Cầu (GIC) tận dụng khai thác triệt để ở các dịch vụ bảo hiểm kỹ thuật
và tài sản từ các cổ đông lớn là SFC (Công ty bay dịch vụ) và EVN.

-


Vietnam Airlines cũng đang có kế hoạch thành lập công ty bảo hiểm.

Theo thống kê sơ bộ của Hiệp hội Bảo hiểm, 12 doanh nghiệp bảo hiểm trong nước vẫn nắm giữ
thị trường bảo hiểm phi nhân thọ với thị phần doanh thu phí bảo hiểm đạt hơn 80%, trong đó tập
trung chủ yếu vào các doanh nghiệp lớn như Bảo Việt, Bảo Minh, PVI và Pjico.
A, Bảo hiểm Phi nhân thọ
Nền kinh tế tiếp tục phát triển với sự tăng trưởng của nông nghiệp, công nghiệp, thương mại xuất
nhập khẩu, đầu tư nước ngoài và đầu tư toàn xã hội đã tạo đà cho các Doanh nghiệp bảo hiểm
(DNBH) Phi nhân thọ một tiềm năng khai thác tốt. Tuy nhiên, biến động của thị trường chứng
khoán cũng làm cho các DNBH thận trọng hơn trong việc đầu tư từ vốn chủ sở hữu, thặng dư vốn
và dự phòng nghiệp vụ vào lĩnh vực này.


Nguồn: Website: www.pvi.com.vn
06 tháng đầu năm bảo hiểm phi nhân thọ đạt doanh thu 5.562 tỉ đồng tăng 43% so với cùng kỳ
năm 2007. Dẫn đầu doanh thu là Bảo Việt 1.700 tỉ đồng, PVI 1.124 tỉ đồng, Bảo Minh 997 tỉ
đồng, PJICO 511 tỉ đồng. Chiếm tỉ trọng lớn là các nghiệp vụ bảo hiểm Xe cơ giới 1.699 tỉ đồng,
BH thân tàu và TNDS chủ tàu 602 tỉ đồng, BH sức khỏe và tai nạn con người 583 tỉ đồng. Toàn
thị trường đã giải quyết bồi thường 1.940 tỉ đồng tỉ lệ bồi thường 35%. Top 3 nghiệp vụ có tỉ lệ
bồi thường cao bao gồm BH Con người 55,5%, BH Thân tàu và TNDS chủ tàu 49,2%, BH Xe cơ
giới 44,5%. Top 3 doanh nghiệp có tỉ lệ bồi thường cao bao gồm Bảo Long 50,4%, PVI 43%,
Bảo Minh 41,3%. Như vậy tỉ lệ bồi thường 6 tháng đầu năm có nhiều khả quan nhưng chưa xét
đến những tổn thất đã xảy ra đang xử lý hồ sơ bồi thường.
B,. Bảo hiểm nhân thọ

Kết quả 6 tháng năm 2008, Tổng doanh thu phí Bảo hiểm nhân thọ đạt 5.027 tỉ đồng (trong đó
phí bảo hiểm các sản phẩm chính đạt 4.853 tỉ đồng), tăng 13,58% so với năm 2006. Xét về mặt
tổng doanh thu phí, dẫn đầu là Prudential với 2051 tỉ, tiếp đến là Bảo Việt với 1.709 tỉ đồng,
Manulife là: 508 tỉ đồng.


Nguồn: Website: www.pvi.com.vn


Trước những khó khăn về kinh tế và chỉ số giá tiêu dùng tăng cao lãi suất tiền gửi tiết kiệm tăng
đột biến, thị trường chứng khoán suy giảm trong 6 tháng đầu năm các DNBH Nhân thọ đã có
nhiều cố gắng, số phí bảo hiểm khai thác mới trong 6 tháng vẫn có mức tăng trưởng cao, đạt 997
tỉ đồng. so với cùng kỳ năm trước tăng ấn tượng 40 %. Các sản phẩm hỗn hợp vẫn là các sản
phẩm bán được nhiều nhất trong 6 tháng đầu năm 2008 với doanh thu gần 610 tỉ đồng, bên cạnh
đó các sản phẩm đầu tư (liên kết chung và liên kết đơn vị) tuy mới được tung ra thị trường từ đầu
năm 2008 nhưng đã đóng góp doanh thu phí bảo hiểm khai thác mới chiếm 16.68% tổng số
doanh thu khai thác mới (154 tỉ đồng), là sản phẩm bảo hiểm đóng góp doanh thu nhiều thứ hai
trên tổng doanh thu khai thác mới.
Các DNBH Nhân thọ đã tập trung nhiều vào tính hiệu quả khai thác của các hợp đồng bảo hiểm
vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay bằng cách phát triển nhiều sản phẩm bảo hiểm mới, nâng
cao số tiền bảo hiểm từ đó tăng được doanh thu phí bảo hiểm. Các sản phẩm bảo hiểm liên kết
chung và liên kết đơn vị cũng đóng góp đáng kể cho phát triển doanh thu bảo hiểm nhân thọ. Số
tiền bảo hiểm bình quân trên một hợp đồng khai thác mới trong năm 2008 là 41,81 triệu
đồng/hợp đồng tăng 40% so với chỉ tiêu này cùng kỳ năm 2007 (30,24 triệu/hợp đồng). Vì vậy,
mặc dù số lượng hợp đồng khai thác mới không tăng nhưng phí bảo hiểm các hợp đồng khai thác
mới vẫn tăng trưởng ấn tượng.
4. Vai trò của các Công ty Bảo hiểm trong nền kinh tế
Kinh doanh bảo hiểm là một ngành đã được hình thành từ lâu đời và phát triển mạnh mẽ trên thế
giới ngày nay, ngành kinh doanh bảo hiểm đã có một vị trí khá quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân. Hoạt động của bảo hiểm thâm nhập vào mọi lĩnh vực, có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy sự
phát triển toàn bộ nền kinh tế - xã hội.
Trên thế giới những quốc gia có nền kinh tế công nghiệp phát triển bảo hiểm là một tổ chức trung
giai tài chính lớn, có chức năng huy động các nguồn vốn và cung ứng vốn trung, dài hạn cho đầu
tư phát triển và ngành kinh doanh bảo hiểm đóng góp từ 5% đến 10% GDP của các nước đó.
So với thế giới ngành bảo hiểm Việt Nam còn non trẻ, các công tư bảo hiểm trong nước chỉ thật
sự hoạt động trong môi trường cạnh tranh những năm gần đây. Vai trò của các công ty bảo hiểm

đối với sự phát triển của nền kinh tế còn hạn chế.
Ngành bảo hiểm đã có những đóng góp nhất định vào sự phát triển của hệ thống tài chính nói
riêng và tăng trưởng kinh tế Việt Nam nói chung. Thị trường bảo hiểm Việt Nam là một kênh
quan trọng trên thị trường vốn, thể hiện tất cả các vai trò trên thị trường tài chính. Đó là đảm bảo
sự ổn định thông qua việc tập trung và phân tán rủi ro, tăng cường ổn định tài chính trong hộ gia
đình và doanh nghiệp, huy động vốn dài hạn và đầu tư dài hạn, giảm áp lực đối với ngân sách nhà
nước thông qua hệ thống bảo hiểm xã hội.
Bên cạnh đó, thị trường Bảo hiểm Việt Nam vẫn còn một số tồn tại như:
- Quy mô của thị trường bảo hiểm còn nhỏ.
- Vai trò của bảo hiểm đối với nền kinh tế - xã hội còn hạn chế.
- Hoạt động tái bảo hiểm còn dựa vào chế độ bắt buộc.
- Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm còn thấp.
- Môi trường cạnh tranh chưa lành mạnh.


- Hoạt động môi giới chưa phát triển, chất lượng đại lý bảo hiểm chưa cao.
- Văn bản pháp quy còn thiếu và chưa đồng bộ (Luật Cạnh tranh chưa được ban hành)
5. Một số kiến nghị nhắm nâng cao hiệu quả hoạt động của các Công ty bảo hiểm
Về cơ chế chính sách
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, hành lang môi trường pháp lý.
- Cần sớm nghiên cứu và ban hành Luật cạnh tranh để hạn chế tình trạng cạnh tranh
không lành mạnh giữa các đơn vị.
- Nhà nước có chính sách khuyến khích người dân tham gia bảo hiểm.
- Phát triển mạng lưới bảo hiểm chuyên nghiệp, môi giới bảo hiểm và các kênh phân phối
khác.
- Khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm hiện đại hoá công nghệ thông tin
- Thực hiện ưu đãi thuế thu nhập từ hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm.
- Phát hành thêm các trái phiếu chính phủ.
Đối với Công ty bảo hiểm:
- Nâng cao năng lực thị trường của các doanh nghiệp bảo hiểm:

Doanh nghiệp phải phát huy được mọi tiềm năng, huy động được cao nhất mọi đối tượng
tham gia bảo hiểm nhằm nâng cao doanh thu-cơ sở cho nguồn vốn đầu tư của doanh
nghiệp, Nhà nước và các doanh nghiệp phải bằng mọi biện pháp nâng cao được năng lực
kinh doanh bảo hiểm trên thị trường. Giải pháp đặc biệt quan trọng đối với các doanh
nghiệp là nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.
- Đa dạng hóa sản phẩm bảo hiểm:
Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp nghiên cứu triển khai các sản phẩm bảo hiểm
mới, đặc biệt là các sản phẩm bảo hiểm phục vụ chương trình phát triển nông, lâm, ngư
nghiệp. Phấn đấu trong tương lai gần mỗi hộ gia đình trong cả nước ít nhất phải tham gia
một loại sản phẩm bảo hiểm. Tiến đến mỗi cá nhân ở các thành phố lớn ít nhất phải chọn
được cho mình một loại sản phẩm bảo hiểm. Còn các tổ chức, các doanh nghiệp thì xem
bảo hiểm là một công tác không thể thiếu được khi lập kế hoạch hàng năm cho mình.
- Kích thích nhu cầu tham gia bảo hiểm:
+ Tăng cường tuyên truyền quảng cáo, thực hiện ở cả hai cấp độ. Về phía Nhà nước, các
cơ quan quản lý bảo hiểm, Hiệp hội bảo hiểm và doanh nghiệp .
+ Phát triển các kênh phân phối (môi giới và đại lý chuyên nghiệp)
- Quản lý nợ phí bảo hiểm hiệu quả hơn bằng biện pháp: Thành lập Ban quản lý công nợ
của công ty
- Phối hợp hiệu quả hơn với hệ thống NH thông qua các lĩnh vực :
+ Sử dụng dịch vụ thu tiền hộ của hệ thống ngân hàng.
+ Khuyến khích thanh toán qua ngân hàng.


+ Sử dụng dịch vụ chuyển tiền tự động của ngân hàng.
- Về biện pháp nâng cao tính chuyên nghiệp trong đầu tư:
+ Doanh nghiệp chú trọng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, am hiểu về
thị trường tài chính và đầu tư tài chính.
+ Mỗi công ty bảo hiểm nên thành lập một công ty đầu tư để nâng cao vai trò, trách
nhiệm của công tác đầu tư
- Áp dụng tiến bộ của khoa học công nghệ công nghệ: Nhất là công nghệ thông tin trong

lĩnh vực đầu tư, trên cơ sở thực hiện chiến lược đầu tư phát triển công nghệ của toàn hệ
thống.
Tóm lại, mục tiêu quan trọng nhất để thành công trong việc cạnh tranh của một công ty là phải
làm tăng được giá trị của công ty trên thị trường. Một công ty có nguồn vốn dồi dào, các quỹ dự
trữ được trích đầy đủ và đều đặn hàng năm, doanh số và hiệu quả ngày càng phát triển đó là
mục tiêu chung của tất cả các công ty.
CÔNG TY TÀI CHÍNH
1. Khái niệm Công ty tài chính:
Công ty Tài chính (theo NĐ 81/2008/NĐ-CP ngày 29/7/2008 quy định về tổ chức, hoạt động của
CTTC) là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng, với chức năng là sử dụng vốn tự có, vốn huy
động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư; cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ
và thực hiện một số dịch vụ khác theo quy định của pháp luật, nhưng không được làm dịch vụ
thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới 01 năm.
 Hoạt động gần tương tự như các NH. Để tăng khả năng cạnh tranh với các NH, các CTTC tập
trung chuyên môn hóa sâu vào các lĩnh vực dịch vụ như đầu tư tài chính, quản lý vốn, thu xếp
vốn, dịch vụ tư vấn
2. Sự ra đời các Công ty tài chính ở VN
Công ty tài chính có hoạt động đa dạng gần như ngân hàng thương mại, nhưng khác với ngân
hàng thương mại, công ty tài chính không được thực hiện dịch vụ thanh toán và không được huy
động vốn không kỳ hạn, dưới một năm. Các công ty tài chính thường tạo khả năng đặc trưng
bằng cách chuyên môn hoá sâu một số dịch vụ tài chính như: đầu tư tài chính, quản lý vốn, thu
xếp vốn và một số dịch vụ tư vấn. Chính vì vậy, công ty tài chính còn được phân loại là trung
gian tài chính đầu tư.
- Do chính sách quản lý tiền tệ chặt chẽ, hoạt động ngân hàng bị thu hẹp. Các điều kiện thành lập
mới NH cũng trở nên ngày một khắt khe, VD: vốn điều lệ tối thiểu 1000 tỷ, đối với cttc là 300 tỷ.
Trong bối cảnh đó, các CTTC có cơ hội ra đời mạnh mẽ.
- Xuất phát từ nhu cầu huy động vốn cho đầu tư, các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty đều đẻ ra
các CTTC để phục vụ cho mục đích trên. Ví dụ như: PVFC của Petro Việt Nam, CTTC Vinashin
của Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy VN, Dệt may, Bưu điện, Điện lực, Cao su ...



- Nhận thấy tiềm năng to lớn của các dịch vụ trên thị trường VN mà các NH chưa quan tâm hoặc
chưa đáp ứng được như vay tiêu dùng, vay mua nhà, vay mua xe hơi, thẻ tín dụng ... nhiều tập
đoàn tài chính, NH, bảo hiểm của nước ngoài đã nối đuôi thành lập các công ty tài chính ở VN
như CTTC Prdential Việt Nam, Societe Generale của Pháp, PPF của Czech, Toyota VN.
3. Quá trình hoạt động và phát triển của CTTC ở VN
Như đã nói ở phần trên, do điều kiện thành lập NH chặt chẽ, nhu cầu huy động vốn và tiềm năng
của thị trường lớn, các công ty tài chính lần lượt ra đời.
Thành lập từ năm 2000 và đến tháng 3-2008, Công ty Tài chính Dầu khí (thuộc Tập đoàn Dầu
khí quốc gia VN - Petro VN) đã “nâng cấp” lên thành Tổng Công ty Tài chính cổ phần Dầu khí
(PVFC) với vốn điều lệ lên tới 5.000 tỷ đồng để phù hợp với yêu cầu mới. Năm 2007, tổng tài
sản đạt 47.993 tỷ đồng, doanh thu đạt 3.144 tỷ đồng và thu được lợi nhuận trước thuế là 616 tỷ
đồng.
Đó là, với các dự án đang phát triển đến năm 2015, Petro VN cần khoảng 100 tỷ USD. Do vậy,
Petro VN rất cần có một “cỗ máy” huy động, điều phối nguồn vốn này. Hơn nữa, PVFC còn tiếp
tục củng cố để hướng đến mục tiêu trở thành tập đoàn tài chính vào năm 2010. Vào cuối năm
2005, nhờ đã có CTTC mà Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin) được Bộ Tài
chính ưu tiên cho vay lại 750 triệu USD từ việc phát hành trái phiếu quốc tế.
Từ đó đến nay, CTTC Vinashin liên tục phát triển, vốn điều lệ đã tăng từ 140 tỷ đồng (cuối 2005)
lên trên 1.000 tỷ đồng. Qua gần một nǎm hoạt động, Công ty đã huy động được nguồn vốn 230 tỷ
phục vụ cho nhu cầu của các đơn vị thành viên trong Tổng công ty. Cùng thời điểm đó, Tập đoàn
Điện lực VN (EVN) đang rất “khát vốn”, cũng xin được vay một phần nguồn vốn 750 triệu USD
trên nhưng không được chấp thuận vì chưa đảm bảo về năng lực quản lý vốn. Có lẽ vì thấy được
sự thua thiệt của mình nên EVN cũng tích cực tìm cách mở ra CTTC. Đến tháng 7-2008, mong
mỏi của EVN đã thành sự thật. Với sự liên kết của nhiều đối tác, CTTC EVN ra đời và sẽ hỗ trợ
đáng kể cho yêu cầu phát triển đến năm 2010 của EVN với nhu cầu vốn lên đến hàng trăm ngàn
tỷ đồng. Ngoài hai tập đoàn trên, nhiều “đại gia” khác của VN cũng mở CTTC như Dệt May, Cao
su, Bưu điện, Sông Đà, Xi măng. Qua 8 năm hình thành và phát triển, tốc độ tăng trưởng bình
quân hàng năm của CTTC Cao su đạt 178% đến cuối quý 3 năm 2006, vốn điều lệ đạt
500.000.000.000đ, vốn nhận ủy thác của cơ quan đầu tư phát triển Pháp (AFP) 300 tỷ đ, Tổng tài

sản đạt 1.100 t ỷ đ.

Bên cạnh các CTTC trong nước, các tập đoàn nước ngoài cũng đổ xô thành lập CTTC 100% vốn
nước ngoài. Đầu tiên là Prudential, một tập đoàn bảo hiểm hàng đầu thế giới, đã đến VN gần 10
năm qua. Từ 7,5 triệu USD lúc mới thành lập (10-2006) đến nay CTTC Prudential đã tăng vốn
điều lệ lên trên 23 triệu USD. Đồng thời, công ty cũng đã xây dựng được hệ thống với năng lực
phục vụ đến 50.000 lượt khách hàng mỗi ngày với sản phẩm đa dạng như vay tiêu dùng, vay mua
nhà, thẻ tín dụng, vay mua xe hơi, vay vốn khởi nghiệp… Nhìn thấy được tiềm năng to lớn của
mảng dịch vụ trên khi các NH đều hạn chế đáp ứng loại hình này, nhiều tập đoàn khác cũng “nối
đuôi” như Societe Generale (Pháp), PPF (Czech), Toyota VN.
4. Vai trò của các Công ty Tài chính trong nền kinh tế


Mặc dù công ty tài chính ở nước ta mới thực sự phát triển mạnh khoảng 5 năm trở lại đây, nhưng
các công ty đã sớm khẳng định được vai trò quan trọng trong việc tạo lập thêm một kênh tài trợ
tín dụng mới, hữu hiệu cho các đơn vị thành viên trong Tập đoàn và mở rộng phục vụ tổ chức, cá
nhân ngoài Tập đoàn. Hoạt động của các công ty tài chính cũng đồng thời góp phần làm phong
phú thêm các dịch vụ tài chính - ngân hàng, đáp ứng nhu cầu phát triển đa dạng của thị trường tài
chính - tiền tệ trong nền kinh tế thị trường. Cá biệt một số công ty tài chính đã đạt được những
kết quả khả quan, tạo được vị thế trên thị trường, là các đối tác tin tưởng của các định chế tài
chính lớn trong nước và quốc tế. Tiểu biểu cho nhóm này là: Công ty tài chính Dầu khí và Công
ty tài chính công nghiệp Tàu thuỷ.
Tuy nhiên, những kết quả đạt được của các công ty tài chính chưa tương xứng với tiềm năng và
vai trò của mình trong hệ thống tài chính, thị trường tài chính và nền kinh tế. Trong thời gian tới,
để phát triển mạnh hơn nữa, các công ty tài chính cần phải sử dụng các nhân tố có ảnh hưởng tích
cực và quyết định đến sự phát triển.
5. Một số kiến nghị đối với Công ty tài chính:
Trước kia, lĩnh vực cho vay tiêu dùng và vay tín chấp cũng là một trong những dịch vụ chủ lực
của các NH. Tuy nhiên, với tình hình kinh tế khó khăn gần một năm qua, đa số NH đã buông lơi
mảng sản phẩm này. Cùng với đó, nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp (DN) vừa và nhỏ ngày

càng tăng cao trong lúc dòng tiền tệ bị “quản” chặt đã tạo ra cơ hội để các CTTC hình thành.
Theo quy định hiện hành, CTTC hoạt động tương tự như ngân hàng với chức năng sử dụng vốn
tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư; cung ứng các dịch vụ tư vấn về
tài chính, tiền tệ… Yêu cầu về vốn điều lệ thì chỉ cần tối thiểu 300 tỷ đồng, thấp hơn nhiều so với
1.000 tỷ đồng đối với NH. Hơn nữa, với hoạt động tín dụng tiêu dùng và vay tín chấp thì rủi ro
nợ xấu khá thấp. Điểm khác là CTTC không được làm dịch vụ thanh toán và không được nhận
tiền gửi dưới 12 tháng. Cuối năm 2007, nước ta có gần 10 CTTC và gần 20 bộ hồ sơ xin thành
lập. Đến nay số CTTC đã lên gấp rưỡi và vẫn còn trên chục hồ sơ xếp hàng chờ ngày “khai sinh”.
Một số chuyên gia kinh tế cho rằng, các CTTC ra đời nhiều là xu hướng tích cực khi nhu cầu vay
vốn đầu tư phát triển sản xuất, nhất là đầu tư vào các ngành nghề mới, và tín dụng tiêu dùng,
ngày càng tăng trong lúc khả năng đáp ứng của NH lại hạn chế. Bên cạnh đó, hiện tại, tỷ lệ người
dân VN sử dụng các dịch vụ tài chính NH chỉ khoảng 10% trong lúc nguồn vốn trong dân còn rất
lớn, ước chừng 50.000 - 60.000 tỷ đồng.
Do vậy, “đất sống” của các CTTC là rất lớn. Nhiệm vụ chính của các CTTC do các tập đoàn kinh
tế VN lập ra là luân chuyển hiệu quả dòng vốn trong các đơn vị “người nhà” và các DN trong các
khu công nghiệp tập trung. Thế nhưng với tình hình kinh tế hiện nay, các DN đều hoạt động cầm
chừng và lại thiếu vốn nên mục tiêu của các CTTC này rất khó đạt được khi đầu vào của CTTC
chủ yếu là vốn nhàn rỗi của các DN, đầu ra cũng chủ yếu là DN, cho vay hoặc thông qua NH bảo
lãnh cho vay. Vì vậy, nếu cứ mở CTTC tràn lan sẽ dễ rơi vào cảnh “ăn xổi ở thì”, “bạo phát bạo
tàn” tốt nhất là số lượng CTTC nên dao động quanh tỷ lệ 1/5 số lượng NH.
Ngoài ra, cũng có hiện tượng CTTC có “vỏ nội” nhưng “ruột ngoại”, điều này sẽ đẩy các CTTC
vào thế không chủ động được nguồn vốn và nguy cơ phá sản khi đối tác nước ngoài “tháo chạy”.


để nâng cao chất lượng thì vốn điều lệ tối thiểu của CTTC nên nâng lên mức 50 triệu USD.
CTTC thường là bước đệm để phát triển lên NH. Do vậy, để đảm bảo các CTTC ra đời hoạt động
được an toàn, hiệu quả và bền vững, NHNN sẽ xem xét khắt khe hơn khi cấp giấy phép thành lập
CTTC; và hiện nay các bộ phận chức năng của NHNN đang soạn thảo quy định về điều kiện
thành lập CTTC, trong đó mức vốn điều lệ sẽ được nâng cao hơn.


CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH
1. Khái quát chung về công ty cho thuê tài chính:
Công ty cho thuê tài chính là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng, là pháp nhân Việt Nam;
được thành lập và hoạt động tại Việt Nam dưới các hình thức: CTCTTC trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên; CTCTTC trách nhiệm hữu hạn một thành viên và CTCTTC cổ phần. Việc
chuyển đổi sở hữu, thay đổi hình thức CTCTTC thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam.
2. Quá trình ra đời và phát triển các CTTC tại Việt Nam
Thời gian qua, việc phát triển thị trường vốn và tiền tệ nhằm thu hút các nguồn vốn trong xã
hội, giảm mạnh các hình thức bao cấp trong cung ứng vốn là để từng bước giải quyết nhu cầu
trên. Sự ra đời của các định chế tài chính đa dạng bên cạnh hệ thống ngân hàng như các công ty
tài chính, công ty bảo hiểm, công ty cho thuê tài chính, các quỹ đầu tư, quỹ hỗ trợ phát triển,
nhằm đảm bảo có thêm nhiều chủ thể cung ứng vốn cho nền kinh tế. Bên cạnh hoạt động tín dụng
của ngân hàng thì các công ty cho thuê tài chính cũng là một kênh dẫn vốn trung, dài hạn hữu
hiệu. Thật vậy, luật pháp đã công nhận cho thuê tài chính (CTTC) là hoạt động tín dụng trung,
dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác.
Đối với nền kinh tế, phương thức tài trợ này đã đa dạng hóa hoạt động tín dụng lại có những ưu
điểm như: đối với bên đi thuê nhận tài sản (100% vốn vay) mà không phải thế chấp hoặc chỉ cần
ký quỹ một số tiền nhỏ tương đương 5-10% giá trị tài sản. Đối với bên cho thuê thì phương thức
này hạn chế được rủi ro, đảm bảo vốn vay được sử dụng đúng mục đích, an toàn.
Ở Việt Nam, hoạt động này ra đời trong thời gian gần đây trên cơ sở Nghị định 64/CP của
Chính phủ ban hành ngày 9.10.1995. Hiện nay, trên cả nước có 12 công ty CTTC hoạt động dưới
3 loại hình gồm :
-6 công ty CTTC trực thuộc các ngân hàng thương mại (NHTM
-4 công ty CTTC 100% vốn nước ngoài
-2 công ty CTTC liên doanh
Hiện nay nguồn vốn hoạt động của các công ty CTTC chủ yếu là vốn tự có và vốn huy động.
Về vốn tự có thì mức vốn pháp định do Chính phủ quy định đối với các công ty CTTC trong
nước là 50 tỷ đồng và công ty vốn nước ngoài 100% là 5 triệu USD. Về vốn huy động thì
theo quy định của nghị định 16, các công ty CTTC chỉ được nhận tiền gởi có kỳ hạn trên một

năm và phát hành các loại giấy tờ có giá nếu được sự đồng ý của Ngân hàng Nhà nước, ngoài


ra còn có thể huy động từ tiền ký quỹ của khách hàng thuê và đi vay của các ngân hàng
thương mại.
Các công ty CTTC đã sử dụng nguồn vốn có được cho hoạt động chính của mình là cho thuê
tài chính. Dư nợ đến tháng 7 năm 2007 của các công ty này đạt gần 10.000 tỷ đồng. Con số
này tuy còn khiêm tốn so với thị trường VN rộng lớn với gần 300.000 DN trong đó chủ yếu là
DN vừa và nhỏ, tuy nhiên, theo nhận xét của các công ty CTTC, các DN vừa và nhỏ đã chọn
kênh huy động vốn này. Khách hàng của các công ty CTTC chủ yếu là các doanh nghiệp vừa
và nhỏ, các doanh nghiệp và công ty tư nhân mới thành lập. Điều đó chứng tỏ phương thức
tài trợ này đã khắc phục những hạn chế của phương thức cho vay bằng tiền và là kênh dẫn
vốn hữu hiệu cho các doanh nghiệp chưa đủ điều kiện vay vốn ngân hàng.
Hiện nay, tài sản cho thuê tài chính chủ yếu tập trung vào phương tiện vận tải, máy móc thiết
bị đáp ứng được tỷ lệ 37% so với nhu cầu của nền kinh tế. Tiếp đến là máy móc thiết bị và
dây chuyền công nghệ cũng chỉ đáp ứng được 34% so với nhu cầu của nền kinh tế. Máy móc,
thiết bị của một ngành khác được tài trợ bằng phương thức thuê tài chính như thiết bị ngành
in, máy móc công trình sử dụng cho hoạt động xây dựng cơ bản cũng chiếm một tỷ trọng thấp
so với nhu cầu của nền kinh tế.
* TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH VÀ CÔNG TY CHO
THUÊ TÀI CHÍNH

* Về nguồn vốn:
- Tổng nguồn vốn hoạt động đến hết quý 4/2006 là
29.710.330 trđ tăng so với cùng kỳ năm trước 147,1%, trong đó: vốn tự có 2.531.319
trđ (chiếm gần 8,5% tổng nguồn vốn) tăng so cùng kỳ năm trước 240,%; vốn huy động:
5.879.344 trđ (chiếm 19,8% tổng nguồn vốn), tăng so cùng kỳ năm trước 119,2%.

* Về sử dụng vốn:
- Tổng dư nợ cho vay, cho thuê tài chính:

10.391.903 trđ (chiếm 36% tổng sử dụng vốn), tăng 66,5% so với cùng kỳ năm trước;
tốc độ tăng trưởng tín dụng đạt mức 36,3%; tài sản có sinh lời so với tổng tài sản có là
82,3%.
* Về kết quả kinh doanh:
- Đối với TCTD phi ngân hàng: chênh lệch thu nhập – chi phí lũy kế đến


31/12/2006: 176.196 trđ, tăng 121,5% so cùng kỳ năm trước, hầu hết các CTTC đều
kinh doanh có lãi.
3. Vai trò của các Công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam
Qua thời gian thực hiện nghiệp vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam cho thấy những lợi ích mà
nghiệp vụ cho thuê tài chính mang lại là rất lớn, nó làm giảm những khó khăn về nguồn vốn đầu
tư dài hạn vào máy móc, thiết bị của doanh nghiệp, tạo điều kiện để các doanh nghiệp tiếp cận
với thiết bị và công nghệ hiện đại; cho thuê tài chính tỏ ra rất thích hợp đối với các doanh nghiệp
đang trong giai đoạn tái cấu trúc và cơ cấu lại dây chuyền công nghệ sản xuất các doanh nghiệp
mới thành lập.
Các ngân hàng thương mại thường cho các doanh nghiệp lớn, có uy tín đã hoạt động lâu năm vay
vốn trung, dài hạn và phải có tài sản đảm bảo chắc chắn. Còn với các công ty cho thuê tài chính
thì lại tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuê tài chính
(trang bị tài sản cố định) mà không cần tài sản thế chấp và thủ tục cho thuê nhanh gọn, không
phức tạp.
4. Những mặt còn tồn tại :
Thứ nhất, mặc dù đã xuất hiện 10 năm trên thị trường Việt Nam nhưng sự quảng bá, giới thiệu để
cộng đồng doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ về lĩnh vực cho thuê tài chính còn hạn
chế.
Thứ hai, mạng lưới hoạt động của các công ty cho thuê tài chính mới chỉ có mặt tại một vài trung
tâm kinh tế lớn, chưa trải rộng trong cả nước cũng như chưa có sự phối hợp với các ngân hàng
thương mại để có thể quảng bá hoặc bán trọn gói sản phẩm.
Thứ ba, trình độ của cán bộ kinh doanh trong các Công ty cho thuê tài chính chưa chuyên nghiệp,
không năng động trong việc tiếp cận và tư vấn cho doanh nghiệp về cơ cấu nguồn vốn.

Thứ tư, quy định về đối tượng cho thuê tài chính tại Việt Nam chỉ bó hẹp trong động sản, đối với
dây chuyền sản xuất lại yêu cầu tỷ lệ tham gia vốn lớn.
5. Một số kién nghị đối với các Công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam
5.1. Tiếp tục hoàn thiện các điều kiện của một giao dịch cho thuê tài chính. Theo các văn bản
hiện hành, một giao dịch cho thuê tài chính thoả mãn các điều kiện là: Khi kết thúc thời hạn cho
thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền sở hữu tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo sự thỏa
thuận của hai bên. Để được quyền sở hữu tài sản thuê, bên thuê mua lại tài sản thuê theo giá danh
nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời điểm mua lại. Thời hạn cho thuê một tài sản
ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản thuê. Tổng số tiền thuê một loại tài
sản quy định tại hợp đồng thuê ít nhất phải tương đương với giá của tài sản đó trên thị trường vào
thời điểm ký hợp đồng.
Với các điều kiện trên đây tác giả kiến nghị trong các văn bản hiện hành cần phải bổ sung thêm
quy định về việc bên thuê có quyền sở hũu tài sản thuê vào thời điểm kết thúc thời hạn thuê.
5.2. Vấn đề quản lý tài sản thuê. Để đảm bảo an toàn hoạt động cho các công ty cho thuê tài
chính, theo kinh nghiệm của nhiều nước, cần phải đăng ký quyền sở hữu tài sản cho thuê, tránh
trường hợp bên thuê sử dụng tài sản cho thuê vào mục đích cầm cố, thế chấp và bán...


5.3. Vấn đề xuất, nhập khẩu đối với tài sản cho thuê
Các công ty cho thuê tài chính muốn có tài sản cho thuê thường phải thông qua uỷ thác hoặc mua
lại của các đơn vị kinh doanh xuất, nhập khẩu nên làm tăng chi phí và không chủ động cho thuê.
Để tháo gỡ khó khăn này, đề nghị cho phép các công ty cho thuê tài chính được nhập khẩu trực
tiếp tài sản cho thuê như các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu.
5.4. Các giải pháp khác
- Cần có chính sách miễn, giảm thuế để tạo điều kiện cho các công ty cho thuê tài chính áp dụng
lãi suất cho thuê phù hợp, đủ sức cạnh tranh trên thị trường như thuế xuất nhập khẩu, thuế chuyển
nhượng quyền sở hữu tài sản, thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động cho thuê.
- Sớm hình thành các trung tâm giao dịch, mua bán máy móc, thiết bị cũ. Khi kết thúc hợp đồng
cho thuê tài chính hoặc vì lý do nào đó hợp đồng cho thuê tài chính kết thúc trước hạn, để tìm
được một khách hàng mới thuê lại máy móc, thiết bị này quả là một việc khó khăn. Việc hình

thành các trung tâm môi giới, mua bán, kinh doanh thiết bị cũ giúp tháo gỡ khó khăn cho các
công ty cho thuê tài chính trong việc thu hồi vốn.
- Vấn đề Markting trong cho thuê tài chính.
Do các công ty cho thuê tài chính mới ra đời và hoạt động, nghiệp vụ cho thuê tài chính rất mới
mẻ đối với các doanh nghiệp Việt Nam, địa bàn hoạt động của công ty lại rộng khắp trong toàn
quốc, do vậy, việc quy định chi phí quảng cáo, tiếp thị của các công ty cho thuê tài chính (5%-7%
tổng chi phí) giống như các tổ chức tín dụng hiện hành là chưa hợp lý. Chúng tôi kiến nghị mức
chi phí này của các công ty cho thuê tài chính từ 7%-10% là hợp lý hơn.
Cho thuê tài chính là vấn đề rộng lớn, phức tạp và mới mẻ ở nước ta. Với những định hướng và
giải pháp cơ bản trên đây, tác giả mong muốn góp một số ý kiến vào tiếng nói chung của các nhà
nghiên cứu về lĩnh vực này nhằm hoàn thiện và phát triển hoạt động cho thuê tài chính ở nước ta
hiện nay.
Qua phân tích trên cho thấy những tồn tại trong hoạt động cho thuê tài chính chủ yếu là những
vướng mắc từ cơ chế tổ chức, vận hành. Mong rằng nó sẽ được các cơ quan chức năng quan tâm
giải quyết để cho thuê tài chính thực sự trở thành một kênh dẫn vốn trung, dài hạn hữu hiệu góp
phần cùng các định chế tài chính khác thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển trên con đuờng hội
nhập.
CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1. Khái niệm về công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn thành lập theo pháp luật
Việt Nam để kinh doanh chứng khoán theo giấy phép kinh doanh chứng khoán do Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước (UBCKNN) cấp.
2. Qúa trình ra đời và phát triển của các Công ty chứng khoán ở Việt Nam
Để thực hiện đường lối công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH – HĐH) đất nước, duy trì nhịp độ
tăng trưởng kinh tế bền vững và chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao hiệu
quả và sức cạnh tranh, đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn cho đầu tư phát triển.


Vì vậy, việc xây dựng Thị trường chứng khoán (TTCK) ở Việt Nam đã trở thành nhu cầu bức xúc
và cấp thiết nhằm huy động các nguồn vốn trung, dài hạn ở trong và ngoài nước vào đầu tư phát

triển kinh tế thông qua chứng khoán nợ và chứng khoán vốn.
Thêm vào đó, việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước với sự hình thành và phát triển của
TTCK sẽ tạo môi trường ngày càng công khai và lành mạnh hơn. Ngày 10/07/1998 Thủ tướng
Chính phủ đã ký ban hành Nghị định 48/1998/NĐ-CP về Chứng khoán và Thị trường chứng
khoán cùng với Quyết định thành lập hai (02) Trung tâm Giao dịch Chứng khoán (TTGDCK) tại
Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.
Ngày 20/07/2000, TTGDCK Tp.HCM đã chính thức khai trương đi vào vận hành, và thực hiện
phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000 với 02 loại cổ phiếu niêm yết.
Ngày 08/03/2005 TTGDCK Hà Nội chính thức khai trương hoạt động, và thực hiện giao dịch đầu
tiên vào ngày 14/07/2005 với 06 loại cổ phiếu niêm yết.
Đồng hành với sự ra đời của các Trung tâm giao dịch chứng khoán, thì không thể thiếu được sự
ra đời của các Công ty chứng khoán.
Theo Quyết định số 04/1998/QĐ-UBCK, ngày 13/10/1998 của UBCKNN, các công ty chứng
khoán được thành lập dưới hình thức pháp lý là công ty cổ phần hoặc các công ty trách nhiệm
hữu hạn. Đó là những tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, có vốn riêng và hạch toán kinh tế độc
lập. Tuỳ theo vốn điều lệ và đăng ký kinh doanh mà một công ty có thể thực hiện một hoặc một
số nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán: môi giới chứng khoán, tự doanh, quản lý danh mục đầu
tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư và lưu ký chứng khoán.
Trước sự tăng trưởng của TTCK, số lượng công ty chứng khoán được thành lập và đi vào hoạt
động cũng không ngừng tăng về số lượng, quy mô và chất lượng dịch vụ.
Có thể nói sau gần 8 năm hoạt động, quy mô của thị trường chứng khoán (TTCK) đã có sự gia
tăng khá mạnh. Trong những năm đầu, quy mô của thị trường còn rất hạn chế và rất ít tổ chức
muốn tham gia hoạt động cung cấp các dịch vụ tài chính chứng khoán trên thị trường này, kể cả
trong lĩnh vực niêm yết. Do đây là một lĩnh vực còn khá mới nên các định chế tài chính trung
gian trong nền kinh tế như ngân hàng, bảo hiểm và các thành phần kinh tế khác trong xã hội chưa
có đủ kinh nghiệm cũng như sự hiểu biết về chứng khoán và TTCK nên các tổ chức còn thận
trọng cân nhắc trước khi tham gia.
Tuy nhiên, đến năm 2007, khi quy mô thị trường đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ hơn so với các
năm trước đó, giá trị vốn hóa thị trường năm đạt trên 43% GDP (xem bảng), cũng là lúc “bùng
nổ” các tổ chức tài chính trung gian tham gia mạnh mẽ vào TTCK. Nếu như tại thời điểm năm

2001, khi TTCK Việt Nam mới đi vào hoạt động với chỉ 8 công ty chứng khoán (CTCK), thì tính
đến cuối năm 2007 số lượng CtyCK tăng lên 78 công ty; đến tháng 4/2008 đã có 98 CTCK được
cấp phép thành lập, trong đó có hơn 80 công ty đã hoạt động thực sự với vai trò là thành viên của
Sở Giao dịch Chứng khoán Hồ Chí Minh (HOSE) và Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội
(HASTC).


Bảng 1 và Biểu đồ 1: So sánh giá trị tuyệt đối theo các năm

Năm
Giá trị vốn hóa thị trường/GDP (%)
Số lượng CtyNY
Số lượng CtyCK

2001 2004 2005 2006 2007
6,10 22,40 43,00

4/2008

1,00

3,80

27,00

5

15

41


193

249

280

8

13

14

55

74

98

Nhìn vào bảng trên, chúng ta có thể thấy mức tăng của số lượng các CTCK trên thị trường với
mức tăng của giá trị vốn hóa thị trường/GDP (Market Cap./GDP) và số lượng công ty niêm yết
(CTNY) theo từng năm hoặc theo 3 giai đoạn.
Giai đoạn 2001 – 2005 là giai đoạn các tổ chức tài chính chưa có đủ kinh nghiệm và hiểu biết về
chứng khoán và TTCK nên số lượng CTCK trên TTCK rất hạn chế, đến năm 2005 toàn TTCK
mới chỉ có 13 CTCK quản lý trên 29.000 tài khoản của các nhà đầu tư trên thị trường.
Giai đoạn 2005-2006 đã chứng kiến sự tăng trưởng đột biến của thị trường với số lượng các
CTCK tăng gấp 3 lần so với năm trước. Giá trị vốn hóa của thị trường tính đến hết năm 2006 tăng
hơn 20 lần so với năm 2001, tăng gần 3 lần so với năm 2005. Trong giai đoạn này, mức tăng của
số lượng các CtyCK thấp hơn nhiều so với mức tăng của giá trị vốn hóa của thị trường/GDP và
số lượng CTNY. Số lượng CtyNY cũng tăng gần 4 lần so với năm 2005 và đạt các chỉ tiêu tăng

trưởng tốt. TTCK thu hút được sự quan tâm của đông đảo công chúng đầu tư và các thành phần
kinh tế. Giá cổ phiếu trên thị trường liên tục tăng trong một giai đoạn dài. Bối cảnh chung nền
kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao, xuất hiện nhiều cơ hội phát triển mới từ việc gia nhập WTO,
các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô được duy trì ở mức hợp lý, đầu tư nước ngoài (ĐTNN) được đẩy mạnh.
Tất cả những yếu tố này đã tạo niềm tin cho các nhà đầu tư vào một TTCK tiềm năng, với những
kỳ vọng về các khoản lợi nhuận do thị trường đem lại... Nhiều tổ chức nhanh chóng gia nhập thị
trường và mong muốn được “hưởng một phần của chiếc bánh” lợi nhuận từ TTCK. Do vậy, nhu
cầu thành lập CTCK tăng mạnh là điều dễ hiểu.
Sự ra đời của Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã đánh dấu
sự chuyển biến về quy định pháp luật ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của các công ty chứng


khoán, sự ban hành các văn bản luật đã từng bước góp phần xây dựng hành lang pháp lý cho các
hoạt động trong lĩnh vực như môi giới, bảo lãnh, tư vấn, tự doanh .... của các công ty này.
Cụ thể:
Về hoạt động môi giới
Tính đến hết ngày 30/6/2007, số tài khoản giao dịch chứng khoán tại các CtyCK đạt 255.185 tài
khoản (tăng 169.001 tài khoản, tương đương 196% so với thời điểm ngày 31/12/2006). Trong đó,
đối với những CtyCK đã có bề dày hoạt động, đều chiếm tỷ trọng cao về số lượng nhà đầu tư mở
tài khoản giao dịch như: VCBS có 34.490 tài khoản, chiếm 16,52% tổng số tài khoản toàn thị
trường; BVSC có 34.395 tài khoản, chiếm 13,48%; CtyCK Sài Gòn (SSI) có 26.746 tài khoản,
chiếm 10,48%; CtyCK Ngân hàng Đầu tư (BSC) có 24.525 tài khoản, chiếm 9,61%. Bên cạnh
đó, một số CtyCK tuy mới triển khai hoạt động nhưng đã thu hút được khá nhiều nhà đầu tư, như
SBS đạt 7.720 tài khoản, chiếm 3,03% thị phần, ABS đạt 6.104 tài khoản, chiếm 2,39% thị phần,
CtyCK Vndirect đạt 5.195 tài khoản, chiếm 2,04% thị phần...
TT

Công ty chứng khoán

Số tài khoản đã mở


Thị phần về số tài
khoản (%)

1

VCBS

34.490

16,52

2

BVSC

34.395

13,48

3

SSI

26.746

10,48

4


BSC

24.525

9,61

5

Khác

49, 91

Về hoạt động tự doanh
Tổng giá trị chứng khoán tự doanh tính tại thời điểm ngày 30/6/2007 đạt 9.667 tỷ đồng (tăng
4.671 tỷ đồng, tương đương 48,31% so với thời điểm 01/01/2007). Đối với 14 CtyCK đã hoạt
động lâu năm, giá trị chứng khoán tự doanh tính tại thời điểm ngày 30/6/2007 đạt 5.997 tỷ đồng
(tăng 1.000 tỷ đồng, tương đương 16,69% so với giá trị ngày 01/1/2007). Một số công ty có giá
trị tự doanh cuối kỳ tăng khá nhanh và đạt giá trị cao.
Hoạt động bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành
Hoạt động bảo lãnh phát hành của các CtyCK 6 tháng đầu năm 2007 vẫn tập trung chủ yếu là bảo
lãnh phát hành các loại trái phiếu như trái phiếu chính phủ cho Kho bạc Nhà nước, trái phiếu
ngân hành, trái phiếu đô thị.


Công ty

Khối
Giá bảo
lượng
lãnh

bảo lãnh (đồng)

Vốn chủ sở
hữu của
CtyCK (tỷ
đồng)

Hình thức
bảo lãnh

Số hợp
Giá trị bảo lãnh
đồng bảo
(triệu đồng)
lãnh

BVSC

5.314

33.500

150

Chắc chắn

1

178


ACBS

880.000

67.000

250

Chắc chắn

1

58.960

Cty CK

108.758

451.000

120

Chắc chắn

2

49.050

Thăng Long


Như vậy, các CtyCK đã thực hiện 4 hợp đồng bảo lãnh phát hành với hình thức bảo lãnh cam kết
chắc chắn. Các hợp đồng bảo lãnh nói trên đã thực hiện theo đúng quy định hiện hành do giá trị
chứng khoán đã được bảo lãnh không vượt quá 50% vốn điều lệ của CtyCK. Tuy nhiên, số liệu
trên cũng cho thấy, trong thời gian gần đây, có rất ít CtyCK thực hiện việc bảo lãnh phát hành và
các công ty chưa chú trọng đầu tư tìm kiếm khách hàng, đào tạo nhân sự, xây dựng quy trình
chuẩn để triển khai nghiệp vụ này.
Hoạt động tư vấn
- Tư vấn đầu tư chứng khoán:
Mảng hoạt động này nhìn chung đã bắt đầu tiến triển với số hợp đồng tư vấn đầu tư chứng khoán
của các công ty đạt 55 hợp đồng (tại thời điểm 1/1/2007 chỉ có 6 hợp đồng tư vấn đầu tư). Điều
này cho thấy trong sự phát triển, các CtyCK đang dần chuyển sang hướng quan tâm, chú trọng
hơn đến hoạt động chăm sóc khách hàng. Tuy nhiên, so với khoảng 255.000 tài khoản giao dịch
chứng khoán tại các CtyCK hiện nay, số hợp đồng trên là không đáng kể và tiềm năng để các
CtyCK phát triển mảng hoạt động này là không nhỏ
- Tư vấn niêm yết:
Tổng số hợp đồng tư vấn niêm yết tại thời điểm hiện nay của các CtyCK là 100 hợp đồng, trong
đó có 9 hợp đồng được ký trong tháng 6/2007 (so với 67 hợp đồng tại thời điểm 1/1/2007). Như
vậy, hoạt động tư vấn niêm yết có những dấu hiệu khả quan hơn so với thời điểm đầu năm.
Những CtyCK đang thực hiện nhiều hợp đồng tư vấn niêm yết là CtyCK Sài Gòn (30 hợp đồng),
CtyCK Ngân hàng ACB (14 hợp đồng), CtyCK Ngân hàng Đông Nam Á.
- Tư vấn khác
Tổng số hợp đồng tư vấn khác tại ngày 30/6/2007 là 305 hợp đồng, trong đó có 77 hợp đồng
được ký, 42 hợp đồng được thanh lý trong tháng 6/2007. Các hợp đồng này chủ yếu là hợp đồng


tư vấn cổ phần hóa và bán đấu giá cổ phần. Các công ty có nhiều hợp đồng tại thời điểm này là
SSI (42 hợp đồng), ACBS (35 hợp đồng), IBS (32 hợp đồng).
Nhìn chung, hoạt động tư vấn đã có những phát triển đáng kể so với thời gian đầu năm, các
CtyCK đã chú trọng hơn đến nghiệp vụ tư vấn. Không chỉ những công ty đã hoạt động lâu năm
mà những công ty được cấp phép trong năm 2006 cũng đã triển khai hoạt động này khá tốt

Mặc dù số lượng CtyCK đi vào hoạt động từ năm 2007 tăng gấp 3-4 lần so với năm 2006, nhưng
kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm 2007 của nhiều CtyCK vẫn khá tốt, điển hình là các CtyCK
đã có thời gian hoạt động lâu như CtyCK Sài Gòn (SSI) - lợi nhuận sau thuế đạt 668,5 tỷ đồng,
CtyCK ACB (ACBS) - lợi nhuận sau thuế đạt 141 tỷ đồng, CtyCK Bảo Việt (BVSC) - lợi nhuận
sau thuế đạt 156,8 tỷ đồng... và một số CtyCK tuy mới triển khai hoạt động nhưng không chịu lép
vế trước các CtyCK đàn anh như: CtyCK Ngân hàng Sài Gòn Thương tín (SBS) - lợi nhuận sau
thuế đạt 125,2 tỷ đồng, CtyCK Đại Việt - lợi nhuận sau thuế đạt 39,4 tỷ đồng, CtyCK Quốc Tế
Việt Nam - lợi nhuận sau thuế đạt 23,7 tỷ đồng.

TT

Công ty chứng
khoán

1

ACBS

2

BSC

3
4

Doanh thu

Lợi nhuận trước thuế

Tr.đồng


Tr.đồng

2005

2006

2005

2006

45.326

112.951

33.474

84.115

69.0
52

200.538

16.084

65.066

BVSC


25.814

92.236

11.197

63.015

SSI

39.938

339.941

26.972

303.300
Nguồn: Tổng hợp

Trong quá trình hoạt động, các CtyCK luôn đẩy mạnh việc phát triển mạng lưới, tính đến hết
ngày 30/6/2007, ngoài 56 trụ sở chính, mạng lưới hoạt động của các công ty gồm 25 chi nhánh,
14 phòng giao dịch, 24 đại lý nhận lệnh (so với mạng lưới gồm 12 chi nhánh, 9 phòng giao dịch
và 13 đại lý nhận lệnh tại thời điểm 31/12/2006). Cùng với việc mở rộng chi nhánh, hoàn thiện
bộ máy tổ chức, nhiều CtyCK đã thực hiện tăng vốn điều lệ nhằm nâng cao năng lực tài chính và
đáp ứng quy định vốn pháp định theo yêu cầu của Nghị định 14 hướng dẫn Luật Chứng khoán.
Trong 6 tháng đầu năm 2007, 4 CtyCK gồm Sao Việt (tăng từ 20 tỷ đồng lên 36 tỷ đồng), CtyCK
An Bình – ABS (tăng từ 50 tỷ đồng lên 330 tỷ đồng), CtyCK Hà Thành (tăng từ 18 tỷ đồng lên
60 tỷ đồng), CtyCK Kim Long (tăng từ 18 tỷ đồng lên 315 tỷ đồng
Có thể thấy rằng cho dù mới trải qua thời gian hoạt động chưa lâu nhưng các công ty chứng
khoán đa số đều đã phát triển vượt bậc cùng với sự phát triển nhanh chóng của TTCK.



3. Vai trò của các Công ty chứng khoán trong nền kinh tế
Đối với các tổ chức phát hành (Công ty phát hành chứng khoán)
Mục tiêu khi tham gia vào thị trường chứng khoán của các tổ chức phát hành là huy động vốn
thông qua việc phát hành các chứng khoán. Vì vậy, thông qua hoạt động đại lý phát hành, bảo
lãnh phát hành, các công ty chứng khoán có vai trò tạo ra cơ chế huy động vốn phục vụ các nhà
phát hành.
Một trong những nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán là nguyên tắc trung gian.
Nguyên tắc này yêu cầu những nhà đầu tư và những nhà phát hành không được mua bán trực tiếp
chứng khoán mà phải thông qua các trung gian mua bán. Các công ty chứng khoán sẽ thực hiện
vai trò trung gian cho cả người đầu tư và nhà phát hành. Và khi thực hiện công việc này, công ty
chứng khoán đã tạo ra cơ chế huy động vốn cho nền kinh tế thông qua thị trường chứng khoán.
Đối với các nhà đầu tư (Người nắm giữ chứng khoán)
Thông qua các hoạt động như môi giới, tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư, công ty chứng
khoán có vai trò làm giảm chi phí và thời gian giao dịch, do đó nâng cao hiệu quả các khoản đầu
tư. Đối với các hàng hoá thông thường, mua bán trung gian sẽ làm tăng chi phí cho người mua và
người bán. Tuy nhiên, đối với thị trường chứng khoán, sự biến đổi thường xuyên của giá cả
chứng khoán cũng như mức độ rủi ro cao sẽ làm cho những nhà đầu tư tốn kém chi phí, công sức
và thời gian tìm hiểu thông tin trước khi quyết định đầu tư. Nhưng thông qua các công ty chứng
khoán, với trình độ chuyên môn cao và uy tín nghề nghiệp sẽ giúp các nhà đầu tư thực hiện các
khoản đầu tư một cách có hiệu quả.
Đối với thị trường chứng khoán (Thị trường giao dịch các lọai chứng khoán)
Đối với thị trường chứng khoán, công ty chứng khoán thể hiện hai vai trò chính:
- Góp phần tạo lập giá cả, điều tiết thị trường:
Giá cả chứng khoán do thị trường quyết định. Tuy nhiên, để đưa ra mức giá cuối cùng, người
mua và người bán thông qua các công ty chứng khoán vì họ không được tham gia trực tiếp vào
quá trình mua bán. Các công ty chứng khoán là những thành viên của thị trường, do vậy, họ cũng
góp phần tạo lập giá cả thị trường thông qua đấu giá. Trên thị trường sơ cấp, các công ty chứng
khoán cùng với các nhà phát hành đưa ra mức giá đầu tiên. Chính vì vậy, giá cả của mỗi loại

chứng khoán giao dịch đều có sự tham gia định giá của các công ty chứng khoán.
Các công ty chứng khoán còn thể hiện vai trò lớn hơn khi tham gia điều tiết thị trường. Để bảo vệ
những khoản đầu tư của khách hàng và bảo vệ lợi ích của chính mình, nhiều công ty chứng khoán
đã dành một tỷ lệ nhất định các giao dịch để thực hiện vai trò bình ổn thị trường.
- Góp phần làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính:
Thị trường chứng khoán có vai trò là môi trường làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài
chính. Nhưng các công ty chứng khoán mới là người thực hiện tốt các vai trò đó vì công ty chứng
khoán tạo ra cơ chế giao dịch trên thị trường. Trên thị trường cấp 1, do thực hiện các hoạt động
như bảo lãnh phát hành, chứng khoán hoá, các công ty chứng khoán không những huy động một
lượng vốn lớn đưa vào sản xuất kinh doanh cho nhà phát hành mà còn làm tăng tính thanh khoản
của các tài sản tài chính được đầu tư vì các chứng khoán qua đợt phát hành sẽ được mua bán giao


dịch trên thị trường cấp 2. Điều này làm giảm rủi ro, tạo tâm lý yên tâm cho người đầu tư. Trên
thị trường cấp 2, do thực hiện các giao dịch mua và bán các công ty chứng khoán giúp người đầu
tư chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại. Những hoạt động đó có thể làm tăng tính
thanh khoản của những tài sản tài chính.
Đối với các cơ quan quản lý thị trường
Công ty chứng khoán có vai trò cung cấp thông tin về thị trường chứng khoán cho các cơ quan
quản lý thị trường. Các công ty chứng khoán thực hiện được vai trò này bởi vì họ vừa là người
bảo lãnh phát hành cho các chứng khoán mới, vừa là trung gian mua bán chứng khoán và thực
hiện các giao dịch trên thị trường. Một trong những yêu cầu của thị trường chứng khoán là thông
tin cần phải được công khai hoá dưới sự giám sát của các cơ quan quản lý thị trường. Việc cung
cấp thông tin vừa là quy định của hệ thống luật pháp, vừa là nguyên tắc nghề nghiệp của các công
ty chứng khoán vì công ty chứng khoán cần phải minh bạch và công khai trong hoạt động. Các
thông tin công ty chứng khoán có thể cung cấp bao gồm thông tin về các giao dịch mua, bán trên
thị trường, thông tin về các cổ phiếu, trái phiếu và tổ chức phát hành, thông tin về các nhà đầu tư … Nhờ các thông tin này, các cơ quan quản lý thị trường có thể kiểm soát và chống các hiện t ượng thao túng, lũng đoạn, bóp méo thị trường.
Tóm lại, công ty chứng khoán là một tổ chức chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán, có vai
trò cần thiết và quan trọng đối với các nhà đầu tư, các nhà phát hành, đối với các cơ quan quản
lý thị trường và đối với thị trường chứng khoán nói chung. Những vai trò này được thể hiện

thông qua các nghiệp vụ hoạt động của công ty chứng khoán.
4. Thách thức đối với Các công ty chứng khoán Việt Nam hiện nay
Sự ra đời của hàng loạt các CTCK đã góp phần đáp ứng được nhu cầu dịch vụ cho số lượng đông
đảo nhà đầu tư đang ngày một gia tăng đồng thời tạo ra áp lực cạnh tranh buộc các CTCK phải tự
hoàn thiện mình nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng và đảm bảo lợi ích cho khách hàng.
Mặc dù vậy do hiện nay tỷ lệ người dân Việt Nam tham gia đầu tư chứng khoán vẫn còn rất nhỏ
nên việc số lượng các CTCK gia tăng nhanh trong một khoảng thời gian khá ngắn đã dẫn đến một
số công ty gặp nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh. Với khả năng tài chính và kinh
nghiệm còn hạn chế vì mục tiêu lợi nhuận của mình một số CTCK đã sử dụng những biện pháp
cạnh tranh không lành mạnh gây ra những ảnh hưởng xấu đến sự phát triển chung của thị trường
tạo tâm lý lo ngại cho các nhà đầu tư. Trên thực tế hiện nay với số lượng trên 60 CTCK được cấp
phép và đi vào hoạt động nhưng phải chia nhau một thị trường quá nhỏ chỉ với trên dưới 250.000
khách hàng (là các nhà đầu tư tổ chức và cá nhân trong khi đó các CTCK lớn và hoạt động lâu
năm như SSI, VCBS, ACBS, BCVS, SBS... đã thâu tóm khoảng 65% lượng giao dịch, những
CTCK mới và quy mô vốn nhỏ phải chật vật chia nhau % thị phần còn lại (chưa kể số CTCK mới
đang nộp hồ sơ chờ cấp phép tại UBCKNN). Nhiều CTCK đã phải bỏ ra hàng chục tỷ đồng để
mua sắm trang thiết bị thuê mặt bằng... nhưng thực tế hoạt động trong thời gian gần đây số lượng
khách hàng đến đầu tư không đáng kểkhiến nhiều CTCK bị thâm hụt vốn sở hữu.
Để hút khách trên thị trường nhiều công ty đã mở rộng dịch vụ repo và hạ phí... Tuy nhiên nóng
bỏng hơn cả là cuộc đua hạ phí. Theo quy định phí giao dịch thu từ các nhà đầu tư là 0 - 5% trên


giá trị giao dịch. Nhưng hiện nay đã bị một số CTCK hạ đến mức thấp nhất thậm chí có CTCK
không thu phí trong 3 tháng đầu hoạt động. Đặc biệt nhiều CTCK mới thành lập đã sử dụng chiêu
khuyến mại bằng cách tặng tiền cho khách hàng mở tài khoản giao dịch tại công ty và trừ dần vào
phí giao dịch. Trên thực tế trong thời gian gần đây thông tin về việc giảmmiễn phí giao dịch của
các CTCK liên tục được công bố trên thị trường. Trong đó tất cả các CTCK lớn nhỏ lần lượt vào
cuộc dù đây là nguồn thu đáng kể nhất là với những thành viên mới hoạt động. Cuộc cạnh tranh
phí giao dịch được giới chuyên môn nhận định là đang ở hồi căng thẳng. Đỉnh điểm của cuộc đua
giảm phí giao dịch giữa các CTCK tập trung từ đầu tháng 9 này nhân dịp kỷ niệm ngày Cách

mạng tháng 8 và Quốc khánh 2/9. Mức giảm phổ biến từ 1/2 phí giao dịch hiện hành; một số
miễn phí 100%. Với CTCK đây là một hình thức khuyến mãi kéo nhà đầu tư đến sàn giao dịch...
Nhưng với nhiều công ty nhỏ mới tham gia thị trường kinh doanh đang lỗ thì việc giảm phí sẽ là
một gánh nặng lớn.
Ngoài việc khó khăn về chiếm lĩnh thị phần, sự thiếu hụt nguồn nhân lực cũng đặt các CTCK vào
những tình thế khó khăn. Tính đến thời điểm 30/6/2007
số nhân viên được UBCKNN cấp
Chứng chỉ hành nghề chứng khoán đạt khoảng 650 người. Tuy nhiên do có nhiều CTCK được
cấp phép trong những tháng cuối năm 2006 và có khoảng trên 80 Hồ sơ đề nghị thành lập CTCK
đã được gửi UBCKNN nên số người hành nghề chứng khoán đã được cấp Chứng chỉ hành nghề
chứng khoán tại các công ty lại càng thiếu hụt. Mặt khác o Quy chế hành nghề chứng khoán chưa
chính thức ban hành nên tại một số công ty một số người hành nghề đã có Hồ sơ hợp lệ đề nghị
cấp Chứng chỉ hành nghề nhưng chưa được cấp. Bên cạnh đó một số công ty có số người hành
nghề tương đối ít so với yêu cầu tối thiểu theo quy định giữa các CTCK có xu hướng dịch chuyển
thu hút lôi kéo nhân viên hành nghề
5. Các giải pháp và kiến nghị
Về vấn đề cạnh tranh, nhiều chuyên gia cho rằng, mặc dù hiện tại hoạt động kinh doanh của các
CTCK khá khó khăn theo bối cảnh chung của thị trường, hướng cạnh tranh chính và lâu dài nhất
là các công ty không nên quá chú trọng tới việc cạnh tranh bằng phí giao dịch, thay vào đó nên
đầu tư công nghệ và tăng tiện ích.
Về phía cơ quan quản lý thị trường, hiện nay Bộ Tài chính đã giao nhiệm vụ cho UBCKNN sớm
hoàn thiện đề án về chính sách phí, lệ phí đối với các đối tượng tham gia thị trường, trong đó có
phí giao dịch. Tuy nhiên, thị trường có nhiều cuộc cạnh tranh về phí và có quan điểm cho rằng
không nên khống chế trần mà chỉ khống chế sàn.
Về vấn đề nhân lực, trên cơ sở theo dõi hoạt động của các CTCK, cơ quan quản lý thị trường nên
ban hành Quy chế người hành nghề chứng khoán, tạo điều kiện để các CTCK có số người hành
nghề đảm bảo theo quy định pháp luật hiện hành.

CÁC QUỸ ĐẦU TƯ
1. Khái niệm về Quỹ đầu tư



Để thúc đẩy một nền kinh tế tăng trưởng nhanh thì việc huy động được nhiều vốn đầu tư và tăng
hiệu quả sử dụng vốn là những nhân tố không thể thiếu. Tập trung mọi nguồn vốn nhàn rỗi là một
biện pháp quan trọng để tạo ra các nguồn lực tài chính dành cho việc đầu tư trong nước, và xuất
phát từ điều này, nhiều loại hình tài chính trung gian đã ra đời để làm cầu nối cho bên cần vốn và
bên có vốn nhàn rỗi. Một trong những định chế tài chính trung gian có ảnh hưởng khá lớn tới các
hoạt động đầu tư và đang phát triển mạnh mẽ hiện nay là loại hình “Quỹ đầu tư”.
Quỹ đầu tư là một định chế tài chính trung gian phi ngân hàng thu hút tiền nhàn rỗi từ
các nguồn khác nhau để đầu tư vào các cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ, hay các loại tài sản
khác. Tất cả các khoản đầu tư này đều được quản lý chuyên nghiệp, chặt chẽ bởi công ty
quản lý quỹ, ngân hàng giám sát và cơ quan thẩm quyền khác.
Quỹ đầu tư là một định chế tài chính trung gian, tập hợp các nhà đầu tư riêng lẻ cùng đóng góp
vốn vào quỹ chung. Quỹ này sẽ được các nhà quản lý đầu tư chuyên nghiệp đại diện cho các nhà
đầu tư sử dụng để đầu tư vào chứng khoán theo chính sách đầu tư của quỹ.
2. Qúa trình ra đời, tồn tại và phát triển của các Quỹ đầu tư ở Việt Nam
Tại Việt Nam, trước năm 1997 có 7 quỹ đầu tư nước ngoài được thành lập với tổng số vốn huy
động được khoảng 400 triệu USD, nhưng chưa đầu tư vào chứng khoán. Sau năm 2002 có 10 quỹ
đầu tư nước ngoài được thành lập ở Việt Nam với tổng số vốn đầu tư lên đến khoảng 900 triệu
USD. Tính đến cuối 3/2006 có 8 công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư nước ngoài đặt văn phòng đại
diện tại Việt Nam, khoảng 15 tổ chức đầu tư nước ngoài đầu tư tại Việt Nam và chưa đặt Văn
phòng đại diện (Nguồn : Tạp chí chứng khoán số tháng 5/2006).
Từ đó đến nay có nhiều công ty quản lý quỹ trong nước được thành lập (công ty quản lý quỹ
Prudential Việt Nam, công ty quản lý quỹ Manulife Việt Nam, công ty quản lý quỹ Bảo Việt,
công ty liên doanh quản lý quỹ Vietcombank, công ty liên doanh quản lý quỹ BIDV- Vietnam
Parners...) ....
Một số quỹ đầu tư trong nước:
- Quỹ đầu tư cân bằng Prudential (PRUBF1) thành lập vào 19/7/2006 là quỹ công chúng và
chính thức chào bán ra công chúng ngày 24/7/2006 để đạt vốn huy động 500 tỷ đồng thông
qua công ty chứng khoán ACB, công ty chứng khoán Ngân hàng ngoại thương Việt Nam và

công ty chứng khoán Sài gòn.
- Quỹ đầu tư chứng khoán BVF1 của Tập đoàn tài chính- bảo hiểm Bảo Việt là quỹ thành
viên được ra mắt ngày 21/7/2006 với 500 tỷ đồng với sự góp vốn của 6 tổ chức bảo hiểm.
- Quỹ Vietcombank 2 do công ty liên doanh quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Vietcombank
(VCBF) sáng lập với 60 triệu USD ở dạng quỹ đóng
- VFM thành lập quỹ VF1 và đã đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán ở TTGDCK TP.HCM.
Lĩnh vực đầu tư của các quỹ đầu tư trong nước ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là:
- Cổ phiếu, trái phiếu niêm yết tại TTGDCK TP. Hồ Chí Minh;
- Các cổ phiếu chưa niêm yết;
- Và cũng có thể sẽ cung cấp sản phẩm liên kết giữa bảo hiểm và đầu tư;
- Đầu tư vào các doanh nghiệp chưa niêm yết thuộc lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, dầu khí.


Tuy vậy, số lượng các quỹ đầu tư chưa nhiều là một trở ngại cho việc mở rộng hình thức đầu tư
cho công chúng. Tuy nhiên, một thị trường sáng sủa cho ngành đầu tư chứng khoán qua các quỹ
đầu tư ở Việt Nam đang ngày càng lộ rõ.
Kết luận:
QĐT và CtyQLQ đầu tư là tất yếu khách quan và là sản phẩm trực tiếp của quá trình phát triển
của phân công lao động xã hội đối với thị trường tài chính. Hoạt động của QĐT, CtyQLQ đầu tư
không chỉ trong phạm vi quốc gia, mà còn phát triển trên phạm vi quốc tế - một trong những nhân
tố của quá trình hội nhập và toàn cầu hóa thị trường tài chính hiện đại. Vì vậy, sự ra đời và phát
triển của các QĐT, CtyQLQ ở Việt Nam là sản phẩm tất yếu của cải cách từ mô hình kế hoạch
hóa tập trung sang mô hình nền kinh tế thị trường. Căn cứ vào phương thức hoạt động, các QĐT
có thể được thành lập theo mô hình “đóng” hoặc “mở”, dưới dạng “hợp đồng” hay “công ty”.
Tuy nhiên, do những đặc điểm và các nhân tố của việc thiết lập quỹ được hình thành từng bước,
cho nên, ở giai đoạn đầu phải thành lập các QĐT dưới dạng “hợp đồng” và tổ chức - quản lý theo
mô hình “đóng”. Đồng thời, việc thành lập CtyQLQ có thể bắt đầu từ mô hình công ty tư vấn đầu
tư chứng khoán.
3. Vai trò của các Quỹ đầu tư trong nền kinh tế Việt Nam
Nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và bền vững, nhất thiết phải có nhiều vốn đầu tư. Nhưng

làm thế nào để các tổ chức hay cá nhân đang nắm giữ những nguồn vốn nhàn rỗi và các doanh
nghiệp đang có ý tưởng kinh doanh khả thi có thể gặp và hợp tác với nhau, cùng tìm cơ hội kinh
doanh có lợi nhất. Các định chế tài chính trung gian ra đời chính là đáp ứng nhu cầu cần những
chiếc "cầu nối" giữa người có vốn và người cần vốn.
Là một trong các định chế trung gian tài chính phi ngân hàng, Quỹ đầu tư có nhiều điểm nổi bật
so với các trung gian tài chính khác với vai trò:
Huy động vốn cho phát triển kinh tế
Như ở trên đã nói, để phát triển bền vững rất cần những nguồn vốn trung và dài hạn. Quỹ đầu tư
tạo ra hàng loạt các kênh huy động vốn phù hợp với nhu cầu của cả người đầu tư lẫn người nhận
đầu tư. Các nguồn vốn nhàn rỗi riêng lẻ trong công chúng do vậy sẽ được tập trung lại thành một
nguồn vốn khổng lồ, thông qua Quỹ đầu tư sẽ được đầu tư vào các dự án dài hạn, đảm bảo được
nguồn vốn phát triển vững chắc cho cả khu vực tư nhân lẫn khu vực nhà nước.
Không những thế, các Quỹ đầu tư còn khuyến khích được dòng chảy vốn nước ngoài. Đối với
luồng vốn gián tiếp, việc đầu tư vào Quỹ sẽ loại bỏ các hạn chế của họ về giao dịch mua bán
chứng khoán trực tiếp, về kiến thức và thông tin về chứng khoán cũng như giảm thiểu các chi phí
đầu tư. Đối với luồng vốn đầu tư trực tiếp, Quỹ đầu tư góp phần thúc đẩy các dự án bằng cách
tham gia góp vốn vào các liên doanh hay mua lại một phần vốn của bên đối tác, tạo thuận lợi cho
nhà đầu tư nước ngoài trong việc thu hồi vốn cũng như tăng được sức mạnh trong nước ở các liên
doanh.
Bảo vệ lợi ích cho các nhà đầu tư


Đa dạng hoá danh mục đầu tư - phân tán rủi ro: Việc phân tán rủi ro đối với một khoản tiền
khiêm tốn sẽ vấp phải vấn đề trị giá của các chứng khoán trong danh mục đầu tư, nhất là các
chứng khoán đựoc niêm yết trên sở giao dịch thường được giao dịch theo lô chẵn. Các khoản vốn
nhỏ ấy tuy vậy lại có thể phân tán rủi ro một cách dễ dàng khi chúng được tập trung lại trong một
Quỹ đầu tư. Khi đó tất cả các nhà đầu tư dù lớn hay nhỏ đều được tham gia chung vào mọi dự án
đầu tư của Quỹ, cùng chia sẻ rủi ro và lợi nhuận.
Tăng tính chuyên nghiệp trong quản lý và đầu tư: Quỹ đầu tư với các nhà tư vấn đầu tư chuyên
nghiệp, nhân viên có trình độ và kiến thức chuyên sâu, với nguồn thông tin đa dạng sẽ đem lại

hiệu quả cao hơn rất nhiều so với các nhà đầu tư riêng lẻ.
Giảm thiểu chi phí do lợi ích về quy mô: Các chi phí về thông tin, chi phí hành chính, trở ngại lớn
đối với các nhà đầu tư riêng lẻ sẽ giảm thiểu khi được xử lý tập trung. Quỹ với tư cách là nhà đầu
tư lớn luôn nhận được các ưu đãi về chi phí giao dịch cũng như dễ tiếp cận với các dự án hơn.
Tăng tính thanh khoản cho tài sản đầu tư: Việc chuyển đổi tài sản thành tiền mặt với chi phí thấp
nhất trong thời gian ngắn nhất luôn là tiêu chí hàng đầu đối với mỗi nhà đầu tư. Chứng chỉ Quỹ
đầu tư chính là một loại chứng khoán, do vậy, người đầu tư hoàn toàn có thể mua bán nó trên thị
trường chứng khoán hoặc bán lại cho bản thân Quỹ (nếu là Quỹ đầu tư dạng mở).
Thuận tiện cho người đầu tư: Người đầu tư có thể mua hoặc bán chứng chỉ Quỹ đầu tư trực tiếp
hoặc thông qua môi giới, trung gian. Việc mua bán có thể thông qua thư tín, điện thoại hay hệ
thống mạng máy tính. Các nhà đầu tư có thể thoả thuận với Quỹ để tái đầu tư tự động (automatic
reinvestment) hoặc phân chia lợi nhuận theo từng thời kỳ. Nhà đầu tư còn được Quỹ cung cấp các
dịch vụ như thông tin và tư vấn.
Đối với các doanh nghiệp
Nhận được nguồn vốn với chi phí huy động thấp: Việc tiếp cận các nguồn vốn tiết kiệm nhỏ từ
các cá nhân qua hệ thống ngân hàng luôn phải đối phó với những thủ tục rườm rà (đảm bảo
khoản vay với các chứng từ tài chính và tài sản ...). Thông qua Quỹ đầu tư, việc huy động vốn chỉ
đơn thuần là phát hành chứng khoán với chi phí giảm đáng kể.
Nhận được các thông tin tư vấn quản lý, marketing và tài chính: Quỹ đầu tư cung cấp các thông
tin tài chính, tư vấn về kế hoạch tài chính, marketing và các mối quan hệ với các tổ chức tài chính
và các doanh nghiệp khác. Lợi ích này của Quỹ đầu tư được đặc biệt đánh giá cao với các doanh
nghiệp mới, doanh nghiệp vừa và nhỏ, và nhất là trong các nền kinh tế chuyển đổi.
Tiếp cận nguồn tài chính dài hạn: Lợi ích này thu được do sự kết hợp các công cụ huy động vốn
của Quỹ. Đó là các loại chứng khoán do Quỹ phát hành, cùng với hoạt động của thị trường chứng
khoán cho phép trao đổi, mua bán các loại chứng khoán đó. Sự kết hợp này khuyến khích các nhà
đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư có khả năng đầu tư dài hạn, cung cấp nguồn tài chính vô cùng
cần thiết cho sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp.
PHẦN III. KẾT LUẬN CHUNG
Hiện nay, áp lực về vốn trung - dài hạn đối với các ngân hàng thương mại khá cao. Trong một
nền kinh tế phát triển, thì hệ thống ngân hàng không phải là nơi cung ứng nguồn vốn trung - dài



hạn chủ yếu cho nền kinh tế, nơi cung ứng vốn cho nền kinh tế chính là các tổ chức tín dụng phi
ngân hàng. Ở nước ta, việc huy động vốn trung - dài hạn chủ yếu cho nền kinh tế là các ngân
hàng thương mại. Tuy nhiên, các ngân hàng thương mại cung ứng không đủ vốn trung - dài hạn
cho nền kinh tế, mà phải sử dụng một phần vốn ngắn hạn để cho vay trung - dài hạn; lượng vốn
này chiếm khoản 50% tổng lượng vốn trung - dài hạn cung ứng cho nền kinh tế. Điều này đã làm
gia tăng tính rủi ro cho các ngân hàng thương mại trong hoạt động ngân hàng, đồng thời làm mờ
nhạt chức năng chính của các ngân hàng hiện nay là chức năng thanh toán. Bên cạnh đó, hiện
trạng này đã đưa đến một thực tế không mong muốn là các ngân hàng đã gây ra một hiệu ứng
cạnh tranh đối với các tổ chức tài chính phi ngân hàng trong việc cung ứng vốn trung - dài hạn
cho nền kinh tế, mà đáng lẽ chức năng thanh toán là chức năng mà hệ thống ngân hàng ngày một
phải dồn sức hiện đại hóa về cơ sở vật chất, kỹ thuật để nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.
Sự cạnh tranh này đưa đến một kết cục là sự phát triển rất "ì ạch" của các tổ chức tín dụng phi
ngân hàng khi mà nguồn lực của các tổ chức này còn quá nhỏ bé.
Tóm lại, một nghịch lý chính trong thị trường tài chính của Việt Nam hiện nay là sự phát triển
không tương xứng của hệ thống tín dụng phi ngân hàng trong nền kinh tế. Trong khi đó, nếu cứ
sử dụng hệ thống ngân hàng để cung ứng vốn trung - dài hạn cho nền kinh tế thì trước mắt nhu
cầu về vốn có thể được đáp ứng, nhưng về lâu dài mức độ an toàn trong phát triển của nền kinh tế
sẽ bị đe dọa nếu như một ngân hàng nào đó trong hệ thống ngân hàng bị "trục trặc". Khi đó, áp
lực về vốn đối với nền kinh tế càng nặng nề hơn. Chính vì vậy, việc phát triển đồng bộ các định
chế tài chính trong thị trường tài chính cần phải được đảm bảo. Theo đó, các công cụ tài chính và
các định chế tài chính phải đa dạng, phong phú. Đặc biệt là các định chế tài chính phi ngân hàng
cần phải luôn luôn được củng cố và phát triển, mà kèm theo sự phát triển của hệ thống tín dụng
phi ngân hàng là sự phát triển của thị trường chứng khoán. Chính vì vậy, những giải pháp phát
triển hệ thống tín dụng phi ngân hàng là những giải pháp liên quan đến việc đẩy nhanh cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước, gắn kết với việc phát hành và niêm yết chứng khoán trên thị trường;
phát triển các nhà đầu tư có tổ chức (đặc biệt là các quỹ đầu tư, quỹ tương hỗ, quỹ hưu trí, các
công ty chứng khoán, các công ty thuê mua,…); mở rộng sự tham gia của các nhà đầu tư nước
ngoài vào thị trường chứng khoán; tăng cường kỷ luật thực thi các nguyên tắc quản lý về sự minh

bạch, kiểm toán, kế toán; thể chế hóa rõ ràng chức năng, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà
nước ở tầm vĩ mô như: Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Ủy ban Chứng khoán và sự phối hợp
giữa các cơ quan này trong quá trình phát triển thị trường tài chính ở nước ta hiện nay.


×