Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

đề tài lịch sử triết học cổ điển đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.35 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ


HỌC PHẦN

ĐỀ TÀI

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

:

TS. LÊ THỊ TUYẾT

SINH VIÊN THỰC HIỆN

: NGUYỄN NGỌC LONG
TRẦN THỊ HUYỀN TRANG
NGUYỄN NGỌC THANH MINH

TP.HCM, ngày 18 tháng 12 năm 2015


MỤC LỤC
I. Tiền đề kinh tế chính trị - xã hội, khoa học và một số đặc điểm cơ bản của
triết học cổ điển Đức
1. Tiền đề kinh tế chính trị - xã hội
2. Những đặc điểm cơ bản của triết học cổ điển Đức
II. Nội dung cơ bản của triết học cổ điển Đức thông qua các tác gia tiêu biểu
1. Immanuel Kant (1724 – 1804)
a) Vài nét về cuộc đời và triết học của Immanuel Kant


b) Những nội dung chính của “Triết học lí luận”
2. Johann Gottlieb Fichte (1762-1814)
a) Vài nét về Johann Gottlieb Fichte
b) Sơ lược về triết học của Johann Gottlieb Fichte
3. Friedrich Wilhelm Joseph Schelling (1775 – 1854)
a) Vài nét về Friedrich Wilhelm Joseph Schelling
b) Sơ lược về triết học của Friedrich Wilhelm Joseph Schelling
4. Georg Vinhem Phridich Hegel (1770 – 1831)
a) Vài nét về cuộc đời và triết học của Hegel
b) Những tác phẩm triết học lớn của Hegel
c) Phép biện chứng và những hạn chế trong phép biện chứng của Hegel
5. Ludwig Feuerbach (1804 – 1872)
a) Vài nét về cuộc đời và triết học của Ludwig Feuerbach
b) Chủ nghĩa duy vật nhân bản Ludwig Feuerbach
c) Những hạn chế trong triết học của Ludwig Feuerbach
III. Kết luận


MỞ ĐẦU
Khái niệm “Triết học cổ điển Đức” dùng để chỉ sự phát triển triết học của nước
Đức ở nửa cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, được mở đầu từ hệ thống triết học
của Kant (1724 – 1804) trải qua Phíchtơ (1762 – 1814), Schellinh (1775 – 1854) đến
triết học duy tâm của Hêghen (1770 – 1831) và triết học duy vật của Feuerbach (1804 –
1872). Triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư tưởng
Tây Âu và thế giới cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX. Đây là đỉnh cao của thời kì triết
học cổ điển phương Tây, đồng thời có ảnh hưởng to lớn tới triết học hiện đại. Triết học
cổ điển Đức ra đời và phát triển trong những điều kiện của chế độ chuyên chế nhà nước
Phổ và nó là sự bảo vệ về mặt tư tưởng cho chế độ đó. Thời kì cuối thế kỉ XVIII, cuộc
cách mạng Tư sản Pháp (1789) ảnh hưởng mạnh đến nước Phổ, và Hêghen là một người
tán dương cuộc cách mạng đó. Đồng thời xã hội Phổ lúc này với những điều kiện kinh tế

- xã hội đặc biệt đã làm nảy sinh hệ tư tưởng có tính chất tiểu tư sản, thỏa hiệp. Tất cả
cái đó tạo nên nét riêng của triết học cổ điển Đức. Do điều kiện kinh tế, chính trị và xã
hội hết sức đặc biệt của nước Đức cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, triết học cổ điển Đức
chứa đựng một nội dung cách mạng, nhưng hình thức của nó thì cực kì “rối rắm” và có
tính chất bảo thủ.

I. Tiền đề kinh tế chính trị - xã hội, khoa học và một số đặc điểm cơ bản của
triết học cổ điển Đức
1. Tiền đề kinh tế chính trị - xã hội
Đến cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản được thiết lập và phát triển
mạnh mẽ hầu hết ở các nước Tây Âu. Thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo
ra bước nhảy đột biến trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khẳng định tính ưu việt
hơn hẳn của chủ nghĩa tư bản so với tất cả các xã hội trước đó. Trong khi đó nước Đức
vẫn đang ì ạch trong chế độ phong kiến. Xu hướng phát triển theo khuynh hướng tư bản
chủ nghĩa đã bị chế độ phong kiến quan liêu chuyên chế cản trở. Nhà nước liên bang chỉ
tồn tại trên danh nghĩa, gồm 360 công quốc nhỏ bé làm cho đất nước Đức trở thành một
quốc gia yếu kém về mọi mặt như Ănghen đã gọi nó là “sự cùng khổ Đức” của lịch sử
nước Đức. Giai cấp Tư sản nằm mơ về cách mạng tư sản Pháp nhưng lại chưa dám hành
động. Cùng với tình hình kinh tế - xã hội ở trong nước sự phát triển của khoa học, đặc
biệt là sự phát triển của khoa học tự nhiên đã đặt ra nhiều vấn đề phải xem xét lại. Các
phát minh khoa học đã chứng tỏ rằng phương pháp tư duy siêu hình, tư biện không thể
phát hiện ra bản chất của sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên và thực tiễn trong xã hội
đang diễn ra ngày càng phong phú phức tạp. Thực tiễn và nhu cầu phát triển tư duy lý
luận đòi hỏi và đã tạo tiền đề, điều kiện cho sự xuất hiện của một nền triết học mới–Triết
học cổ điển Đức.
2. Những đặc điểm cơ bản của triết học cổ điển Đức
Triết học cổ điển Đức là thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp Tư sản Đức cuối
thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Như tình trạng nước Đức lúc bấy giờ trong tư tưởng và hệ
thống của các triết gia Đức có tính hai mặt. Do các nhà triết học phần lớn xuất thân từ
tầng lớp xã hội thượng lưu, gắn bó mật thiết phong trào quý tộc về lợi ích kinh tế, địa vị



chính trị, vì thế một mặt họ mong muốn thống nhất đất nước, phồn vinh, nhưng một mặt
họ sợ sức mạnh của quần chúng lao động mà thoả hiệp với các quý tộc phong kiến dẫn
đến tư tưởng bảo thủ, cải lương về mặt chính trị - xã hội, mâu thuẫn với tính cách mạng
và tính khoa học. Triết học cổ điển Đức đặc biệt đề cao vai trò, vị trí tích cực của con
người. Kế thừa và phát huy những tư tưởng thời kỳ Phục Hưng và Cận đại, các nhà triết
học cổ điển Đức đã khẳng định con người là chủ thể, là kết quả là sản phẩm của hoạt
động tự nó, cho nó, vì nó cho nên thực tiễn cao hơn lý luận, lịch sử chỉ là phương thức
tồn tại của con người, cá nhân có thể làm chủ được vận mệnh của mình và cao hơn là tư
tưởng con người trong bản chất xã hội. Như vậy triết học cổ điển Đức đã làm một bước
rẽ trong việc hình thành, phát triển của triết học. Nếu như trước đây triết học phương
Tây lấy những vấn đề nhận thức luận, bản thể luận…làm nền tảng, thì trong bối cảnh đầy
sự biến động cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX con người lại trở thành xuất phát điểm của
mọi vấn đề triết học. Tuy vậy trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và ảnh hưởng to
lớn của nó đến đời sống kinh tế - văn hoá – xã hội đã đưa đến quan niệm sùng bái và
tuyệt đối hoá vai trò của lý tính, của tư duy. Biến tư duy của con người thành một thực
thể độc lập đối với đời sống thực của nó, thực thể tinh thần tối cao làm căn nguyên để
giải thích cho tất cả mọi cái, mọi hiện tượng đang hiện tồn. Trong triết học cổ điển Đức
thực tiễn và khoa học đã đặt ra yêu cầu là cần phải có phương pháp tư duy để phản ánh
chân thực về tồn tại mà lại thể hiện được tinh thần cách mạng của thời đại. Các nhà triết
học cổ điển Đức đã tiếp thu những tư tưởng biện chứng trong di sản triết học truyền
thống để xây dựng nên phép biện chứng của mình. Lần đầu tiên phép biện chứng tồn tại
là một phương pháp nhận thức có tính đồng kết, được biểu hiện chặt chẽ qua hệ thống
các khái niệm phạm trù. Mặc dù là phép biện chứng duy tâm nhưng vẫn được các nhà
sáng lập ra chủ nghĩa Mác – Lênin đánh giá cao. Đó là một trong những cơ sở lý luận
được triết học Mác đề ra. Trên đây là những đăc điểm cơ bản của triết học cổ điển Đức.
Luận điểm của Mác coi những đặc điểm của triết học cổ điển Đức là “ lý luận của ngưòi
Đức về cách mạng tư sản Pháp” một mặt cho thấy đặc điểm riêng của triết học cổ điển
Đức so với triết học Pháp thế kỷ XVIII, dù giữa chúng có sự kế thừa to lớn ; mặt khác

khẳng định giá trị tư tưởng vĩ đại của triết học cổ điển Đức.

II. Nội dung cơ bản của triết học cổ điển Đức thông qua các tác gia tiêu biểu
1.Immanuel Kant (1724 – 1804)
a) Vài nét về cuộc đời và triết học của Immanuel Kant
Imanuel Kant (1724- 1804) được mọi người biết đến là người sáng lập ra n ền
triết học cổ điển Đức; là một trong những nhà tiết học vĩ đại nh ất của lịch sử tư tưởng
phương Tây trước Mác. Triết học của ông là “nền tảng và điểm xuất phát của triết học
Đức hiện đại, những hạn chế trong triết học của ông không làm lu mờ công lao đó của
Kant”. Kant sinh năm 1724 ở Kênisbec. Năm 1745 ông tốt nghiệp đại học tổng hợp
Kênisbec và trở thành một gia sư. Năm 1755 ông là giáo sư và từ năm 1770 là giáo sư
của trường đại học Kênisbec. Là một trong những học giả uyên bác nhất đương thời, ông
giảng dạy về nhiều lĩnh vực: siêu hình học, logic học và toán học, cơ học, địa chất học…
Trong suốt cuộc đời 80 năm của mình, ông đã sản sinh ra hàng loạt các tác phẩm nổi
tiếng để đời như : Phê phán lý tính thuần túy (1781); Mở đầu khoa siêu hình học tương


lai (1783); Các nguyên tắc của siêu hình học về đạo đức (1785); Phê phán lý tính thực
tiễn (1788); Phê phán năng lực phán đoán (1790); Nhân học (1798)….. Sự phát triển về
tư tưởng triết học của Kant được phân làm 2 thời kỳ: thời kỳ tiền phê phán (trước 1770)
và thời kỳ phê phán (sau 1770).
Thời kỳ tiền phê phán:
• Thời kỳ đầu các tác phẩm chủ yếu của Kant viết về triết học tự nhiên, chẳng hạn
như tác phẩm Lịch sử tự nhiên đại cương và học thuyết về bầu trời viết năm 1755 ông
đưa ra giả thuyết giải thích nguồn gốc sự hình thành của vũ trụ. Các tác phẩm triết học
của thời kỳ tiền phê phán lúc đầu Kant chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa duy lý của Lépnít
và Vônphơ nhưng về sau trong các tác phẩm “Về những sai lầm tinh tế của bốn loại hình
tam đoạn luận” (Xuất bản 1762) và trong “Kinh nghiệm của việc dựa vào triết học khái
niệm các đại lượng phủ định” (Xuất bản 1763) thì Kant đi tìm hạn chế của chủ nghĩa duy
lý và logic. Với ảnh h ưởng của Hium, Kant ngày càng xa rời cách nhìn suy lý và logic.

Đó chính là xuất phát cho sự chuyển biến từ các tác phẩm thời kỳ tiền phê phán sang các
tác ph ẩm thời kỳ phê phán.
Triết học thời kỳ phê phán:
• Do chịu ảnh hưởng của các biến đổi ở Pháp và Tây âu trước cách mạng tư sản
1789 và đặc biệt là ảnh hưởng của Hium, thế giới quan của Kant đã biến đổi. Ông đặt
nhiệm vụ nghiên cứu toàn bộ các vấn đề triết học từ trước tới nay, trên tinh thần phê
phán như quan niệm về con người, về lý tính về khả năng nhận thức của con người, về
hành vi đạo đức, về trách nhiệm và hạnh phúc của con người. Theo Kant khoa học về
con người chưa được chú trọng nghiên cứu và phát triển đúng mức, chưa hướng vào việc
giải quyết những vấn đề của cuộc sống và hoạt động thực tiễn cho con người có cách
nhìn về bản thân và về thế giới từ đó vạch ra những nguyên tắc cơ bản cho hoạt động
sống của con người vì những lý tưởng nhân đạo, đạo đức, tự do, xứng với nhân vị cuả
con người. Hệ thống triết học của ông được thể hiện qua bộ 3 tác phẩm “phê phán” nổi
tiếng của ông. Trong Phê phán lý tính thuần túy, ông trình bày nhận thức luận. Ngoài ra
nhận thức luận còn được trình bày một các phổ cập hơn trong cuốn Tiểu luận về mọi siêu
hình học tương lai có quyền được tự coi là khoa học(1783) . Luân lý học của ông được
trình bày trong cuốn Phê phán lý tính thực tiễn (1788). Cuốn Phê phán năng lực phán
đoán (1790) dành chủ yếu cho những vấn đề mỹ học và cả vấn đề về tính có mục đích
trong thế giới hữu cơ.
Theo Kant các triết gia từ xưa tới nay hình như quên mất vấn đề quan trọng là
con người. Vì vậy Kant đặt nhiệm vụ hàng đầu cho mình là phải xác định bản chất của
con người, toàn bộ các vấn đề của triết học phải được hướng vào việc giải quyết những
vấn đề của cuộc sống và hoạt động thực tiễn của con người. Triết học phải đem lại cho
con người một cơ sở và nền tảng thế giới quan m ới, vạch ra những nguyên tắc cơ bản
của cuộc sống của con người vì những lý tưởng nhân đạo. Để làm được điều đó thì triết
học phải lý giải các vấn đề : Tôi có thể biết được cái gì?, Tôi cần phải làm gì?, Tôi có
thể hy vọng cái gì?, Con người là gì? Bước ngoặt trong sự phát triển triết học của Kant
là cuộc gặp gỡ của ông với thuyết duy nghiệm của Hume. Ông nói: “tôi công khai thú
nhận, gợi ý của David Hume chính là điều lần đầu tiên đã đánh thức tôi ra khỏi giấc ngủ
giáo điều nhiều năm về trước và đã vạch ra một hướng đi mới cho các tra cứu của tôi



trong lĩnh vực tư duy triết học”. Kant từ chối theo con đường của Hume không chỉ vì nó
có thể dẫn ông tới chủ nghĩa hoài nghi mà còn vì ông cảm thấy rằng mặc dù Hume đã đi
đúng đường nhưng không hoàn thành nhiệm vụ giải thích làm thế nào đạt được tri thức.
Vì vậy, Kant đã tìm cách xây dựng trên điều mà ông nghĩ là có giá trị cả trong chủ nghĩa
duy lý lẫn trong chủ nghĩa duy nghiệm, và bác bỏ điều gì không thể bảo vệ trong hệ
thống này. Ông bắt đầu một đường lối mới mà ông gọi là “triết học phê phán”. Triết học
phê phán của Kant chủ yếu phân tích khả năng của lý trí con người, được ông hiểu là “
một sự truy tìm phê phán khả năng của lý trí liên quan tới mọi nhận thức mà nó có thể cố
gắng đạt tới một cách độc lập với mọi kinh nghiệm”. Đường lối của triết học phê phán
của ông đặt ra là “năng lực hiểu biết và lý trí có thể biết những gì và bao nhiêu mà
không cần kinh nghiệm?”. Chính vì vậy mà triết học lý luận của Kant chủ yếu đề cập tới
nhận thức luận và logic học với mục đích xây dựng một nền tảng thế giới quan mới cho
con người nhằm giải đáp cho câu hỏi “ con người có thể biết được cái gì?”.
b)Những nội dung chính của “Triết học lí luận”
Triết học lý luận là một trong ba bộ phận cơ bản của triết học Kant, nó giải quyết
một trong ba vấn đề lớn được đặt ra trong hệ thống triết học của ông. Bộ phận này được
ông trình bày một cách chi tiết và toàn diện trong tác phẩm “ Phê phán lý tính thuần
tuý” được ông viết vào năm 1781. Tác phẩm này đã vạch ra giới hạn cho lý trí con người
trong hoạt động nhận thức và nó chính là lời giải đáp cho một trong ba câu hỏi lớn mà
Kant đã đặt ra trong hệ thống triết học của mình: “Với tư cách là con người, tôi có thể
biết gì?” Câu hỏi này được trả lời trong “Triết học lý luận”. Ở đây, ông xác định những
điều kiện và giới hạn nhận thức của con người, vạch ra rằng con người có tri thức về cái
gì? Giới hạn của chúng ra sao, do đó địa vị con người được xác định trong hoạt động
nhận thức như thế nào? Trong hệ thống triết học của mình, Kant còn đặt ra hai câu hỏi
lớn khác nằm trong hai bộ phận còn lại: “với tư cách là con người, tôi cần ph ải làm
gì?”, được trả lời trong “ triết học thực tiễn”; “với tư cách là con người, tôi có thể hy
vọng gì?”, được trả lời trong “triết học thẫm mỹ” và “ Mục đích luận”. Kant được coi là
người đầu tiên trong lịch sử loài người đã đứng ra nghiên cứu về khả năng cũng như giới

hạn của tri thức con người. Ông phân biệt thế nào là tri thức và thế nào là suy tưởng.
Ông cũng là người phân biệt hai loại tri thức của con người: tri thức thường nghiệm (tri
thức kinh nghiệm cảm tính) và tri thức thực nghiệm (tri thức khoa học). Kant cho rằng
mỗi tri thức bao giờ cũng là một thể thống nhất của quan niệm và cảm giác; trong đó
quan niệm là khuôn hình hay hình thức của tri thức, còn cảm giác là vật liệu hay chất thể
của tri thức. Thiếu cảm giác, những quan niệm của ta chỉ là những khuôn hình trống
rỗng, không ph ải là tri thức; thiếu quan niệm thì những cảm giác của ta sẽ ch ỉ là những
cảm giác mù, tức cảm giác mà không biết là cảm giác gì. Khi giải quyết vấn đề khả năng
tri thức của con người, Kant đã bắt đầu từ chổ phân biệt thế nào là tri thức khoa học và
thế nào là tri thức kinh nghiệm cảm tính. Kant viết: “tất cả mọi tri thức của ta bắt đầu từ
kinh nghiệm...nhưng nói như thế không có nghĩa là tri thức của ta hoàn toàn do kinh
nghiệm đâu, vì trong tri thức của ta còn có phần trí năng không lệ thuộc vào kinh
nghiệm”. Như vậy, giữa hai loại tri thức trên có một sự khác biệt lớn; một bên hoàn toàn
thụ động nhưng bên kia lại rất năng động và luôn tìm kiếm những phương pháp mới. Khi
nói về tri thức kinh nghiệm cảm tính, ông cho rằng, kinh nghiệm cho ta biết sự vật thế


này hay thế khác, nhưng không thể cho ta biết sự vật có thể là thế khác chăng. Do đó, tri
thức kinh nghiệm cảm tính luôn có tính chất vụn vặt, lẽ tẻ và bó hẹp vào từng sự kiện mà
ta đã kinh nghiệm. Trái lại, tri thức khoa học vượt tới mức phổ quát và tất yếu, bao trùm
lên tất cả mọi trường hợp có thể xảy ra giống như vậy, đó chính là trí năng của con
người, Kant gọi loại tri thức này là tri thức tiên thiên. Kant viết: “ tính chất tất yếu và
tính ch ất phổ quát thực sự là những dấu hiệu chắc chắn của một tri thức tiên thiên và
hai tính chất này không khi nào lìa nhau”. Từ quan niệm về tri thức nêu trên, Kant đã
phê phán nghiêm khắc những quan niệm của các triết gia duy cảm và duy lý. Như vậy, có
thể thấy ở học thuyết của Kant, tri thức được cấu tạo bởi hai yếu tố không thể thiếu:
quan niệm và cảm giác, không có yếu tố nào được coi là cần thiết hoặc quan trọng hơn
yếu tố kia. Trên cơ sở đó ông đã dùng phương pháp phê bình để chứng minh sự khác biệt
hoàn toàn giữa hai loại tri thức trên . Từ đó, ông đi đến khẳng định chỉ có tri thức khoa
học mới có thể vạch ra được quy luật của thế giới hiện tượng. Kant xác định đối tượng

của “ triết học lý luận” không phải là bản thân thế giới tự nhiên như nó tồn tại, mà là
hoạt động nhận thức của con người, là nghiên cứu những điều kiện và năng lực chủ thể
của nhận thức. Phù hợp với đối tượng thì nhiệm vụ của triết học lý luận là vạch ra xem
khoa học sản sinh ra tri thức như thế nào và từ đó xác định bản chất của con người trong
lĩnh vực sinh hoạt tri thức. Để giải quyết các vấn đề đó, Kant đã chỉ ra đối tượng nhận
thức của con người là thế giới, nhưng bản thân thế giới này được Kant chia làm hai, thế
giới hiện tượng và thế giới “ vật tự nó”; trong đó thế giới hiện tượng là sản phẩm của sự
tác động của thế giới “ vật tự nó” vào chủ thể, còn thế giới “vật tự nó” là thế giới của
những gì tồn tại do bản thân nó hay nó là nguyên nhân tồn tại của nó, nói cách khác đây
là thế giới tồn tại khách quan đối với con người. Thế giới hiện tượng mang tính hữu hạn
vì những sự vật của nó tồn t ại trong không gian và thời gian, hơn nữa chúng có không
gian và thời gian, do đó nó là cái tạm thời. Còn thế giới “vật tự nó” là cái vô hạn, vĩnh
viễn vì nó tồn tại ngoài không gian và thời gian, nó không có không gian và thời gian.
Nếu thế giới hiện tượng tồn tại tuân theo quy luật, tất yếu thì thế giới “ vật tự nó” tồn tại
không tuân theo quy luật, tất yếu hay nói cách khác nó không bị chi phối bởi quy luật tất
yếu. Nếu thế giới hiện tượng mang tính nhân quả thì thế giới “vật tự nó” tồn tại ngoài
liên hệ nhân quả. Từ đó Kant nhận xét, thế giới hiện tượng là thường nghiệm, là thế giới
của những cái tương đối, còn thế giới “vật tự nó” là siêu nghiệm, nó là thế giới của
những cái tuyệt đối. Khi bàn về quá trình nhận thức của con người, Kant cho rằng con
người ta nhận thức và từ đó có tri thức bởi một năng lực tiên thiên mà ông gọi là lý tính
lý luận (hay lý tính tiên thiên, lý tính thuần tuý). Ông coi lý tính là một năng lực tinh thần
có sẵn ở con người từ đầu ngay khi mới sinh ra và có như nhau ở tất thảy mọi người.
Ông gọi tính chất ấy là tiên thiên. Lý tính lý luận trong hoạt động nh ận thức của con
người có ba cấp độ: cảm năng, trí năng và lý năng. Mặc dù đối tượng nhận thức là thế
giới nói chung nhưng ba cấp độ này có chức năng khác nhau và tương ứng với chúng có
ba học thuyết nghiên cứu về những khả năng nhận thức của con người. Như vậy “triết
học lý luận” của Kant không phải nghiên cứu giới tự nhiên mà là nghiên cứu hoạt động
nhận thức của con người với mục đích là xác lập các quy luật, giới hạn của lý tính con
người. Kant là một trong những nhà triết học vĩ đại nhất của triết học cổ điển Đức. Hệ
thống của ông có ảnh hưởng đối với sự ra đời của triết học Mác, tạo nguồn cảm hứng



mạnh mẽ cho nhiều khuynh hướng triết học Phương tây hiện đại. Kant thực sự đã tạo ra
một bước ngoặt trong lịch sử triết học, đúng như ông muốn rằng cần phải làm một “cuộc
cách mạng Côpecníc” cho triết học. Khi xác định nhiệm vụ của “Triết học lý luận” là
vạch ra xem khoa h ọc sản sinh ra tri thức như thế nào, Kant đã chỉ ra đối tượng nhận
thức của con người là thế giới và bản thân thế giới này được Kant chia thành hai, thế
giới “vật tự nó” mang tính siêu nghiệm và thế giới hiện tượng có tính thường nghiệm. Từ
đó, Kant đi vào nghiên cứu quá trình nhận thức của con người và ông cho rằng trong
hoạt động nhận thức, con người có được tri thức bởi một năng lực tiên thiên là lý tính lý
luận với các cấp độ: cảm năng, trí năng và lý năng; và ông đi sâu phân tích cơ cấu bên
trong của mỗi cấp độ để vạch ra công cụ và kết quả của quá trình nhận thức. Đó là cái
nhìn xuyên suốt của Kant trong tiến trình triển khai “triết học lý luận” của mình; bao
gồm trong đó sự xuất hiện lập trường duy tâm, nhị nguyên luận, bất khả tri cũng như
những cống hiến tích cực và hạn chế lịch sử của ông. Mặc dù có những hạn chế nhất
định, song chừng ấy cũng đủ để thấy rằng, Kant là một nhà triết học vĩ đại của nền triết
học cổ điển Đức nói riêng và lịch sử triết học nhân loại nói chung. Ông có nhiều đóng
góp lớn lao cho sự phát triển lịch sử tư tưởng nhân loại, trong đó “triết học lý luận” là
một trong những hạt nhân cơ bản đã thể hiện rõ những cống hiến ấy.
2. Johann Gottlieb Fichte (1762-1814)
a) Vài nét về Johann Gottlieb Fichte
Fichte (19/5/1762–27/1/1814) là một triết gia người Đức. Ông là một trong những
nhân vật sáng lập của phong trào triết học được biết dưới tên chủ nghĩa duy tâm Đức,
vốn phát triển trừ những bài viết về triết lý và đạo đức của Immanuel Kant. Fichte
thường được xem là một nhân vật người mà triết học của ông đã bắc cây cầu giữa các tư
tưởng của Kant với nhà duy tâm Đức Georg Wilhelm Friedrich Hegel. Gần đây, nhiều
nhà triết học và học giả bắt đầu đánh giá như một nhà triết học quan trọng tự thân do
những tầm nhìn độc đáo của ông vào bản chất của sự tự nhận thức hay tự ý thức. Giống
Descartes và Kant đi trước, ông được thúc đẩy bởi vấn đề tính chủ quan và nhận thức.
Fichte cũng viết các tác phẩm về triết học chính trị và được coi là một trong những

người hình thành nên chủ nghĩa dân tộc Đức.
b) Sơ lược về triết học của Johann Gottlieb Fichte
Fichte phê phán nhị nguyên luận của Kant, và ông đã phát triển nó sang khuynh
hướng duy tâm chủ quan. Xuất phát điểm của Fichte chính là khái niệm cái tôi của con
người, cái tôi của ông là lý tính và cũng là ý chí, là nhận thức và cũng là hành động. Từ
cái tôi Fichte hình thành 3 nguyên lý dẫn luận sau đây: Thứ nhất cái tôi thiết định “cái
tôi”. Cái tôi là cái tôi thuần tuý cái tôi tuy ệt đối, cái tôi tự sản sinh “ là một hệ thống kín
mít và hoàn chỉnh, nó hoàn toàn giống nhau ở tất cả mọi người”. Đó chính là hình ảnh
con người lý tưởng. “Cái tôi” là cái tôi kinh nghiệm cái tôi hữu hạn, cái tương đối được
sinh ra từ cái tôi. Thứ hai cái tôi thiết định cái – không – tôi. Ở đây cái – không - tôi đó
chính là thế giới, và thế giới này do cái tôi mãi mãi sinh ra và làm phong phú thêm. Thứ
ba cái tôi thiết định “cái tôi” và cái–không–tôi. Fichte giải quyết mối quan hệ giữa chủ
thể và khách thể trên lập trường chủ nghĩa duy tâm. Do đó ông không giải quyết được
mối quan hệ giữa con người với con người và con người với tự nhiên. Những quan điểm


của Fichte về xã hội có những điểm tiến bộ, phản ánh được nguyện vọng của một bộ
phận dân cư đông đảo trong xã hội lúc bấy giờ. Theo ông xã hội là một thức cộng đồng
có tính mục đích để đảm bảo tự do và hoàn thiện con người. Về cuối đời Fichte chuyển
dần sang lập trường duy tâm khách quan và ông coi cái tuyệt đối chỉ là tồn tại thuần tuý,
hay ý thức thuần tuý vượt ra khỏi phạm vi ý thức cá nhân.
3. Friedrich Wilhelm Joseph Schelling (1775 – 1854)
a) Vài nét về Friedrich Wilhelm Joseph Schelling
Schelling là nhà triết học duy tâm khách quan, là một trong những người sáng lập
ra trường phái văn nghệ lãng mạn ở Châu Âu và Đức. Sự thống nhất tuyệt đối giữa tồn
tại và tư duy, giữa vật chất và tinh th ần, giữa khách thể và chủ thể chính là xuất phát
điểm cũng như nền tảng triết học của ông, do đó triết học của ông được gọi là triết học
đồng nhất. “Sự đồng nhất tuyệt đối” được Schelling gọi là cái tuyệt đối. Cái tuyệt đối
không phải là cái ở giữa vật chất và tinh thần mà chỉ là trạng thái đặc biệt, trạng thái vô
ý thức của tinh thần thế giới. Schelling giải thích sự vận động của giới tự nhiên, và sự

chuyển hoá của ý thức từ chủ thể lại trở thành khách thể thông qua cái tuyệt đối và sự
vận động nội tại của cái tuyệt đối đó.
b) Sơ lược về triết học của Friedrich Wilhelm Joseph Schelling
Schelling từ lập trường duy tâm khách quan, đã chứng minh rằng cái tuyệt đối là
đấng sáng tạo tối cao. Tuy nhiên thì trong quá trình lý giải về sự vận động phát triển của
giới tự nhiên ông cũng đã đề cập đến những quan niệm biện chứng, và chúng được xem
như đóng góp của ông vào việc định hình phép biện chứng. Đó là những tư tưởng về mối
liên hệ phổ biến, về sự thống nhất và sự phát triển. Bên cạnh đó thì những tư tưởng triết
học nghệ thuật của Schelling cũng đóng góp rất nhiều cho sự ra đời của trường phái văn
nghệ lãng mạn ở Đức cũng như cho triết học nghệ thuật sau này. Trong ba cái nghệ
thuật, triết học và khoa học thì nghệ thuật chính là hình thức thể hiện cao nhất của cái
tuyệt đối. Nghệ thuật của ông là công cụ để giải thích cho tự nhiên chứ không phải là cái
phản ánh tự nhiên. Từ năm 1816 thế giới quan của Schelling ngày càng ngả sang lập
trường tôn giáo với quan niệm coi tự nhiên là sản phẩm của sáng tạo của Chúa, cái tuyệt
đối trở thành Chúa người ta gọi ông ở giai đoạn này là “ một kẻ lãng mạn đáng buồn,
sống mà cũng như chết”. Tuy nhiên những tư tưởng triết học của ông được ph ổ biến và
có ảnh hưởng rộng rãi ở Đức và nhiều nước Châu Âu.
4. Georg Vinhem Phridich Hegel (1770 – 1831)
a) Vài nét về cuộc đời và triết học của Hegel
Georg Vinhem Phridich Hegel là nhà biện chứng lỗi lạc, bậc tiền bối của triết học
Mác xít. Theo nhận xét của Ph. Ăngghen, ông “không chỉ là một nhà thiên tài sáng tạo,
mà còn là một nhà bác học có tri thức bách khoa, nên những phát biểu của ông tạo thành
thời đại”. G.V.Ph. Hegel sinh năm 1770 trong một gia đình quan chức cao cấp ở Stútgat
thuộc Đức, sau đó theo học khoa triết học và thần học ở đại học tổng hợp Tubingen. Thời
trẻ, ông chủ yếu quan tâm nghiên cứu các vấn đề lịch sử, pháp quyền và tôn giáo. Những
năm 1800 – 1803, Hegel làm quen và kết bạn với Schelling. Từ đây, ông bắt đầu chủ yếu
say mê các vấn đề triết học. Ông mất năm 1831 vì bệnh tả. Các tác phẩm lớn của Hegel:


- Hiện tượng học tinh thần (1807) - Khoa học lôgíc (1812 – 1814) - Bách khoa toàn thư

các khoa triết học (1817) - Triết học pháp quyền (1821). Ông còn là nhà triết học duy
tâm khách quan, đại biểu xuất sắc của triết học cổ điển Đức, người xây dựng nên phép
biện chứng duy tâm. Triết học của Hegel là đỉnh cao của chủ nghĩa duy tâm Đức cuối thế
kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX. Là một nhà biện chứng duy tâm khách quan nên triết học của
Hegel chứa đựng đầy mâu thuẫn. Nếu phương pháp biện chứng của ông là hạt nhân hợp
lý, chứa đựng tư tưởng thiên tài về sự phát triển thì hệ thống triết học duy tâm của ông
lại phủ nhận tính chất khách quan của những nguyên nhân bên trong, vốn có của sự phát
triển tự nhiên và xã hội.
b) Những tác phẩm triết học lớn của Hegel
Hiện tượng học tinh thần: Là tác phẩm triết học lớn của Hegel, đánh dấu sự chín
muồi trong thế giới quan triết học của ông.
Những nguyên tắc xây dựng hệ thống: Tinh thần tuyệt đối là điểm xuất phát và
nền tảng trong quan niệm về hiện thực. Hegel coi nền tảng thế giới quan triết học của
mình là tinh thần tuy ệt đối được hiểu như đấng tối cao sáng tạo ra giới tự nhiên và con
người. Con người là sản phẩm và cũng là giai đoạn phát triển cao nhất của tinh thần
tuyệt đối. Hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của con người chính là công cụ để tinh
thần tuyệt đối nhận thức chính bản thân mình.
Nguyên lý phát triển: Sự thống nhất giữa tư duy và tồn tại, tư tưởng và hiện thực
là sự phát triển về chất. Như vậy, Hegel đã không coi sự phát triển chỉ là sự tăng giảm
đơn thuần về lượng hay sự dịch chuyển vị trí của trong không gian mà đó là một quá
trình phủ định biện chứng, trong đó liên tiếp diễn ra cái mới thay thế cho cái cũ, nhưng
đồng thời kế thừa những yếu tố của cái cũ mà vẫn có khả năng thúc đẩy phát triển. Xuất
phát từ quan niệm coi sự phát triển như một quá trình vận động liên tục theo quy luật
phủ định của phủ định, Hegel coi một trong những nguyên tắc xây dựng hệ thống triết
học của mình nhằm thể hiện quá trình phát triển c ủa tinh thần tuyệt đối là tam đoạn
thức: chính đề - phản đề - hợp đề, trong đó giữa các yếu tố đều có mối liên hệ hữu cơ,
chuyển hóa lẫn nhau. Ý thức con người là sản phẩm của lịch sử.
Trong “Hiện tượng học tinh thần”, Hegel đã tiếp cận được quan niệm coi nhân
cách, ý thức con người là sản phẩm của lịch sử. Lịch sử nhân loại mặc dù được thực hiện
thông qua hoạt động của các cá nhân cụ thể, nhưng đồng thời lại là nền tảng và thực thể

của ý thức các cá nhân đó. Xuất phát từ quan niệm trên, Hegel coi nhiệm vụ cơ bản của
hiện tượng học tinh thần là tái diễn lại toàn bộ tiến trình lịch sử mà nhân loại đã trải
qua. Tư tưởng chủ đạo của Hegel ở đây là: thứ nhất, tư duy và ý thức con người chỉ phát
triển trong mối quan hệ và giải quyết mâu thuẫn: con người - tự nhiên. Thứ hai, ý thức
con người là sản phẩm của tiến trình lịch sử nhân loại được coi là hiện thân của tinh
thần tuyệt đối. Trên đây là một số nguyên lý bước đầu xây dựng hệ th ống của Hegel
được trình bày trong “Hiện tượng học tinh thần”.
Khoa học logic: Khoa học Lôgíc là bộ phận quan trọng nhất của hệ thống Hegel,
vì nó nghiên cứu tinh thần tuyệt đối ở giai đoạn sơ khai nhất, nhưng là điểm xuất phát và
nền tảng của toàn bộ hệ thống. Đối tượng: Cũng như các nhà lôgíc truyền thống, Hegel
coi lôgíc là “khoa học về tư duy, về những phạm trù và quy luật của tư duy”. Tư duy với
tư cách là đối tượng của khoa học lôgíc được Hegel hiểu là tư tưởng thuần túy, là tinh


thần tuyệt đối. Hegel phân biệt hai dạng tư duy: Thứ nhất, tư duy tự nó, chính là tinh
thần tuyệt đối tạo thành bản chất của toàn bộ hiện thực. Thứ hai, tư duy cho nó, tức tư
duy con người, đây là tư duy tự nó ở giai đoạn phát triển cao nhất, là giai đoạn tư duy có
ý thức. Luận điểm xuyên suốt toàn bộ lôgíc học cũng như hệ thống của Hegel là “cái gì
hợp lý thì hiện thực và cái gì hiện thực thì hợp lý”. Luận điểm cơ bản trên đây không chỉ
thể hiện lập trường của Hegel muốn bảo vệ và duy trì nhà nước quý tộc Phổ cuối thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX, cũng như mọi trật tự xã hội là bất công do nó sinh ra, mà còn: Thứ
nhất, nó là sự khái quát nguyên lý xuất phát điểm và nền tảng của toàn bộ hệ thống triết
học, khẳng định tinh thần và vật chất, chủ thể và khách thể trên cơ sở duy tâm. Thứ hai,
nó khẳng định sự thống nhất tư duy - tồn tại, tư tưởng và hiện thực là cả một quá trình
phát triển biện chứng. Nhiệm vụ: Nhiệm vụ của khoa học lôgíc là đào thải những hình
thức của tư tưởng không thể hiện đúng bản chất đích thực của tư duy sống động, đồng
thời vũ trang cho con người một phương pháp tư duy biện chứng nhằm khám phá ra
chân lý, đi tới tự do.
Tóm lại, quan niệm trên đây của Hegel về đối tượng và nhiệm vụ của lôgíc học có
một ý nghĩa to lớn: ông đã hiểu được lôgíc là khoa học nghiên cứu tư duy như một quá

trình của trí tuệ và tư tưởng nhân loại; ông nhận thấy tư duy con người không chỉ bó hẹp
trong ý thức cá nhân thể hiện dưới dạng ngôn ngữ, mà cả trong quá trình hoạt động,
trong công cụ lao động và sản phẩm lao động của con người.
Tính khách quan: Là nguyên lý thứ nhất của điểm khởi đầu. Nó buộc các nhà
nghiên cứu không được coi xuất phát điểm một cách tùy tiện theo ý muốn chủ quan của
mình, mà phải tuân theo tính khách quan tùy thuộc vào từng đối tượng nghiên cứu một
cách cụ thể.
Đơn giản và trừu tượng nhất: Mọi quá trình vận động khách quan đều theo xu
hướng từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện tới chỗ ngày càng hoàn thiện hơn,
cho nên điểm khởi đầu phải là cái sơ khai nhất, chưa hoàn thiện nhất, trừu tượng nhất.
Lần đầu tiên Hêghen coi nguyên lý đi từ trừu tượng đến cụ thể là một trong những
nguyên lý cơ bản trong vận động các khái niệm lôgíc học.
Khẳng định điểm khởi đầu phải là điểm xuất phát có khả năng phát triển thành
toàn bộ hệ thống, tức là phải chứa đựng mâu thuẫn cơ bản của toàn bộ hệ thống – đó là
mâu thuẫn giữa tinh thần và vật chất.
Thế giới vật lý học: Hegel trình bày các quan niệm của ông về các vật thể của vũ
trụ, về ánh sáng, về nhiệt, về các quá trình hóa học,…
Dưới con mắt của các nhà duy tâm, ông đã xem tất cả những mối liên hệ giữa các
sự vật, hiện tượng và các quá trình ở trong thế giới chỉ là sự biểu hiện nối tiếp nhau của
bản nguyên tinh thần đã sản sinh ra chúng.
Thế giới các cơ thể sinh học: địa chất học, thực vật học, động vật học,… Theo
Hegel, việc chuyển từ vô sinh lên hữu sinh là kết thúc của quá trình tự nhiên, tự nhiên chỉ
là tồn tại thấp, là sự biểu hiện và tự nhận thức ở cấp độ thấp của ý niệm tuyệt đối. Giới
tự nhiên, đối tượng của triết học tự nhiên về bản chất chỉ là một thế giới ngưng đọng
không phát triển, sở dĩ chúng như thế này hay như thế khác là do sự vận động và phát
triển của ý niệm tuyệt đối quy định.


Sự phát triển của giới tự nhiên không phải là sự phát triển của thế giới vật chất
mà là biểu hiện “sự biến đổi khái niệm” mà thôi.

Nhìn chung, triết học tự nhiên của Hegel, bên cạnh nhiều tư tưởng tích cực bởi ý
đồ của nó muốn đem lại cho con người một cách nhìn biện chứng về tự nhiên, nhưng
theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, là khâu thiết yếu nhất trong hệ thống của ông.
Triết học pháp quyền và triết học lịch sử
Trong triết học pháp quyền là triết học lịch sử, Hegel thể hiện những quan niệm
cơ bản của mình về các vấn đề phát triển xã hội, trong đó đặc biệt quan tâm nghiên cứu
bản chất và nguồn gốc của nhà nước. Theo ông, gia đình và xã hội công dân chịu sự chỉ
đạo của Nhà nước.
Theo Hegel: Nhà nước “sự ngao du” của Chúa trời trong xã hội loài người, là sự
thể hiện tinh thần tuyệt đối.
Ông coi mọi sự bất công, tệ nạn xã hội như những hiện tượng tất yếu của sự phát
triển xã hội xuất phát từ bản tính con người “Luận điểm khẳng định mọi người về bản
tính vốn bình đẳng là không đúng …, cần phải nói ngược lại rằng con người về bản tính
vốn bất bình đẳng.
Xã hội thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, xung đột giữa các tầng lớp, đẳng cấp xã
hội khác nhau, cũng như mỗi cá nhân trong xã hội. Chính những mâu thuẫn xã hội ấy mà
Nhà nước xuất hiện.
Khác với nhiều nhà tư tưởng từ trước tới giờ lý giải nguồn gốc Nhà nước từ khế
ước xã hội, Hegel khẳng định, Nhà nước hiện đại và chính phủ hiện đại chỉ xuất hiện khi
tồn tại sự khác nhau giữa các đẳng cấp khi sự chênh lệch giàu và nghèo trở nên quá lớn,
và khi mà xuất hiện những mối quan hệ trong đó đông đảo quần chúng không thỏa mãn
những nhu cầu của mình như họ đã từng quen.
Nhà nước ra đời làm dung hòa các mâu thuẫn giữa những người giàu và nghèo,
giữa các đẳng cấp xã hội khác nhau nhằm định hướng sự phát triển xã hội.
Nhà nước, theo Hegel, không chỉ là cơ quan hành pháp, mà là tổng thể các quy chế, kỷ
cương, chuẩn mực về mọi lĩnh vực đạo đức, pháp quyền, chính trị, văn hóa, … của xã
hội, mà nhờ đó mỗi quốc gia mới có thể phát triển bình thường. Vì thế, Nhà nước tồn tại
trên bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử.
Hegel đưa ra những nguyên tắc nghiên cứu lịch sử:
Khách quan: Nhìn nhận lịch sử một cách công minh, trung thực với lịch sử, không

được lảng tránh lịch sử. Người nào nhìn nhận thế giới một cách hợp lý thì thế giới cũng
nhìn nhận người đó một cách hợp lý.
Kết hợp với tính khách quan và tính Đảng trong nghiên cứu lịch sử “lịch sử thì chỉ
xảy ra có một lần nhưng nhận thức nó thì là cả một quá trình”.
Nội dung của triết học lịch sử:
Lịch sử là con đường đi tới tự do, tự do là sự giải phóng con người khỏi những
ràng buộc tự nhiên và xã hội.
Tự do là tiêu chí cơ bản để đánh giá sự ưu việt của thời đại này vời thời đại khác.
Từ đấy, ông chia lịch sử thế giới như sau:
Thời kỳ tiền sử
Phương Đông cô
Hy Lạp, La Mã cổ Nước Đức, Thiên


Khong ai tự do

đại

đại

Chế độ quân chủ:
một người được tự
do

Dân chủ quý tộc:
Một số người được
tự do

Chúa giáo, trung
cổ và cận đại

Quân chủ nhân
chính: tất cả được
tự do

Như vậy, Hegel hiểu tự do theo góc độ duy tâm, coi đó là sự nhận thức và thực
hiện những quy luật tất yếu của tự nhiên với tư cách là hiện thân của tinh thần tuyệt đối.
Nhìn chung , triết học pháp quyền và triết học lịch sử của Hêghen, bên cạch nhiều hạn
chế bởi lập trường duy tâm và tính giai cấp hẹp hòi, chứa đựng nhiều tư tưởng sâu sắc về
sự phát triển xã hội cũng như tiến trình lịch sử nhân loại, làm nền tảng cho quan niệm
duy vật về lịch sử sau này của Mác coi sự phát triển xã hội như một tiến trình lịch sử - tự
nhiên.
Có thể thấy, triết học của Hêghen ảnh hưởng ln71 tới tiến trình lịch sử tư tưởng
nhân loại, Nó đông đảo các môn phái như phái Hêghen già, phái Hêghen trẻ,… Nhưng
chỉ có các nhà kinh điển Mác – Lênin kế tục được phương pháp biện chứng – di sản quý
báu nhất của triết học Hêghen.
c) Phép biện chứng và những hạn chế trong phép biện chứng của Hegel
Phép biện chứng của Hegel
Phép biện chứng của Hêghen coi toàn bộ thế giới, lịch sử và tinh thần là một quá
trình duy nhất đang vận động, biến hóa, phát triển và thay đổi không ngừng. Những mâu
thuẫn nội tại đều là nguồn gốc của tự thân vận động. Hêghen được coi là người đầu tiên
trình bày có tính hệ thống các nguyên lý, qui luật và phạm trù của phép biện chứng. Một
trong những luận điểm nổi tiếng của Hêghen khi ông khẳng định: “mọi cái tồn tại đều có
tính hợp lý”. Cái hợp lý theo ông là cái đều phụ thuộc vào các qui luật nội tại vốn có của
nó.
Nguyên lí xuất phát và xuyên suốt toàn bộ triết học Hêghen là sự đồng nhất giữa
tư duy và tồn tại. Toàn bộ thực tại khách quan (tự nhiên và lịch sử thế giới) là biểu hiện
của “lí tính thế giới” hay “tinh thần thế giới” mà Hêghen gọi là “ý niệm tuyệt đối”. “Ý
niệm tuyệt đối” có trước tự nhiên và loài người, trải qua một quá trình phát triển lịch sử tự nhận thức về bản thân, qua ba giai đoạn:
1) Giai đoạn phát triển trong “nguyên chất” thuần khiết của nó khi chưa có thế
giới: nội dung của “ý niệm tuyệt đối” tể hiện trong hệ thống các phạm trù lôgic có liên

quan với nhau và chuyển hóa lẫn nhau (lôgic học).
2) Dưới dạng tồn tại khác, khi chuyển thành giới tự nhiên (triết học tự nhiên).
3) “Ý niệm tuyệt đối” phủ định giới tự nhiên, trở về với bản thân, nó tiếp tục biến
hóa, nhận thức nội dung của mình dưới các hình thức ý thức và đạt tới nhận thức cao nhất
qua tôn giáo, nghệ thuật, triết học (triết học tinh thần).
Học thuyết về “Ý niệm tuyệt đối”, “Tinh thần thế giới” là tư tưởng cơ bản có tính
xuyên suốt trong hệ thống triết học của ông. “Ý niệm tuyệt đối”, “Tinh thần thế giới”
theo ông là cái có trước, cái quyết định đối với hiện thực. Nhưng khi giải thích sự “tha


hóa” của nó trong tự nhiên, xã hội và tư duy thì đó lại là những tư duy khoa học trong
phép biện chứng của Hêghen. Đây cũng là tiền đề lý luận, được Mác kế thừa và phát triển
khi xây dựng phép biện chứng duy vật.
Hêghen đã áp dụng phép biện chứng vào lôgic và vào việc nghiên cứu những khái
niệm và những sự phán đoán. Nhưng ông là người duy tâm, và hệ thông giáo điều phản
động của ông và tính hẹp hòi về giai cấp. Cho nên, theo Hêghen bản chất của sự tồn tại
nằm trong sự tự thân phát triển của một “ý niệm tuyệt đối” có tính chất thần bí.
Những hạn chế trong phép biện chứng của Hegel
Phép biện chứng của Hegel chưa có những hình thức khoa học hợp lý. Đó là hình
thức kinh viện và thần bí của phép biện chứng đó đã làm lộn ngược tất cả mọi vật (theo
cách ví von của Mác khi phép biện chứng của Hegel như một cái cây gốc ở trên trời ngọn
ở dưới đất, nên cần phải dựng ngược nó lại). Phép biện chứng của Hegel quay về quá
khứ, chứ không hướng vào hiện tại hay tương lại, trong hệ thống triết học Hegel thì sự
phát triển sau khi đạt đến một trình độ nhất định nào đó thì ngưng lại, v.v…
Trong các quan điểm xã hội, Hegel đứng trên lập trường chủ nghĩa Sôvanh đề cao
dân tộc Đức, miệt thị các dân tộc khác, coi nước Đức là “hiện thân của tinh thần vũ trụ
mới” muốn duy trì nhà nước Phổ phản động, xem nó như là đỉnh cao của sự phát triển
nhà nước và pháp luật. Hơn nữa, nội dung khoa học trong phép biện chứng của Hegel là
mâu thuẫn với triết học duy tâm của ông.
Nói chung, Hegel đã có những đóng góp to lớn trong địa hạt lí luận về nhận thức,

trong cuộc đấu tranh chống “thuyết không thể biết” (bất khả tri luận). Hệ thống duy tâm,
bảo thủ, khép kín và giả tạo của triết học Hegel mâu thuẫn sâu sắc với phương pháp biện
chứng có tính chất cách mạng của triết học này. Quan điểm chính trị phản động của
Hegel, đặc biệt trong thời kì hoạt động cuối đời của ông, phản ánh tình trạng mâu thuẫn
của giai cấp tự sản Đức, khuynh hướng thỏa hiệp của nó với các thế lực phong kiến.
Hegel ủng hộ chế độ quân chủ lập hiến, bênh vực nhà nước quân chủ phản động Phổ, cho
đó là đỉnh cao của sự phát triển xã hội. Triết học Hegel là một trong những nguồn gốc lí
luận trực tiếp của chủ nghĩa Mác. Các tác phẩm chủ yếu: “Hiện tượng học tinh thần”
(1807), “Khoa học lôgic” (1812-16), “Bách khoa thư về khoa học triết học” (1817,1830),
“Những nguyên lí triết học của pháp luật” (1821), những bài giảng về triết học lịch sử, về
mĩ học, về triết học tôn giáo, về lịch sử triết học được xuất bản sau khi Hegel mất.
5. Ludwig Feuerbach (1804 – 1872)
a) Vài nét về cuộc đời và triết học của Ludwig Feuerbach
Ludwig Feuerbach (1804 – 1872) – đại biểu cuối cùng của triết học cổ đại Đức, sự
kết thúc đầy vinh quang của nó, nhà cải cách kiên cường của nền triết học Đức – nhà duy
vật và khai sáng. Triết học Feuerbach là sản phẩm tất yếu của những điều kiện mới, hình
thành vào cuối những năm 30 – đầu những năm 40. Đó là thời kỳ nhen nhóm tình thế
cách mạng ở nhiều nơi trên nước Đức. Chủ nghĩa duy vật của Feuerbach là chủ nghĩa
nhân bản.
L.Feuerbach sinh trưởng trong một gia đình trí thức có tên tuổi. Năm 1823 với
mục đích nghiên cứu tôn giáo. Feuerbach vào học tại khoa thần học của trường đại học
Heidelberg, nhưng sau một năm lại rời khoa thần học và chuyển đến Berlin, nơi Hegel


đang giảng triết học. Chẳng mấy chốc Feuerbach trở thành người học trò nghiêm túc của
Hegle. Tại trường đại học Erlangen, Feuerbach trình bày logic học và siêu hình học, đồng
thời nhen nhóm tư tưởng nhân bản mà về sau trở thành nội dung chủ yếu của chủ nghĩa
duy vật đặc trung – chủ nghĩa duy vật nhân bản. Ống mất năm 1872, tức sau khi công xã
Paris (1871) thất bại.


b) Chủ nghĩa duy vật nhân bản Ludwig Feuerbach:
Feuerbach là nhà duy vật nổi tiếng của triết học cổ điển Đức, bậc tiền bối của trết
học Mác . Ban đầu Fuerbach chịu ảnh hưởng lớn của triết học Hegel, ông tham gia phái
Hegel trẻ( trong đó có Mác), ông tin rằng tôn giáo , các khái niệm của tinh thần thế giới
trị thế giới hiện thực.Nhưng sau đó ,do ảnh hưởng của các nhà triết học duy vật Pháp TK
XVIII và sự phát triển của thực tiễn xã hội và khoa học đầu TK XIX Feuerbach đã từ bỏ
triết học Hegel (trong đó có Mác). Feuerbach có công lớn trong việc phê phán chủ nghĩa
duy tâm của Hegel cũng như chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo nói chung , khôi phục vị trí
xứng đáng của triết học duy vật .
Feuerbach là nhà triết học vì ông khẳng định vật chất là tính thứ nhất; ý thức tư
duy là tính thứ hai. Song là nhà duy vật nhân bản, ông koi con người là sản phẩm cao
nhất của giới tự nhiên , vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại là vấn ề bản chất của con
người, vì thế, đây là đối tượng duy nhất, phổ biến,cao nhât của triết học.Chủ nghĩa duy
vật nhân bản của Feuerbach là đóng góp to lớn vào cuộc đấu tranh chống lại việc giải
thích duy tâm , nhị nguyên luận, thậm chí cả chủ nghĩa tầm thường về vấn đề con người.
Song nguyên lý nhân bản học của Feuerbach không triệt để vì ông hiểu con người chỉ là
những cá nhân trừu tượng, là thực thể thuần túy tự nhiên –sinh vật. Ông không thấy được
mặt xã hội của con người trong hoạt động biến đổi hiện thực.
Triết học Feuerbach mang tính nhân bản. Nó chống lại chủ nghĩa nhị nguyên luận
về sự tách rời giữa tinh thần và thể xác. Ông koi tinh thần , ý thức cũng là một thuộc tính
đặc biệt của vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người. Mặt tích cực trong triết học nhân
bản của Feuerbach là sự đấu tranh chống lại những quan điểm tôn giáo chính thống của
đạo thiên chúa, đặc biệt quan niệm về thượng đế. Triết học của ông ảnh hưởng trực tiếp
đến quá trình chuyển tiếp từ thế giới quan duy tâm trong triết học của Mác sang triết học
quang duy vật của Mác .Chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach đã để lại cho di sản văn
hóa nhân loại vô cùng quý giá. Là một người có tư tưởng cách tân triết học, Feuerbach
cho rằng triết học là một khoa học về thực tại trong chân lí và tính tổng thể của nó. Tính
tổng thể của thực tại không là gì khác ngoài giới tự nhiên, và điều này chỉ biết được nhờ
sự cảm nhận thông qua sự tác động của các hiện tượng khác từ bên ngoài. Điều này
không có nghĩa là triết học phải hy sinh cho những khoa học chuyên biệt cụ thể như toán,

lý , hóa, sinh, tâm lý…Bên cạnh đó Feuerbach còn đưa ra nhiều nét độc đáo trong chủ
nghĩa vô thần ,trong tư tưởng triết học của mình Feuerbach viết về tôn giáo , và khi viết
về mảng này thì ông nghiên cứu phán xét tôn giáo là cơ sở, điều kiện tất yế để khám phá


bản tình con người và ngược lại. Nghiên cứu một cách căn bản lịch sử hình thành và phát
triển của tôn giáo đã cho Feuerbach cơ sở lý luận vững vàng và khẳng định rằng: Chủ
nghĩa phiếm thần và tôn giáo đa thần phản ánh sự lệ thuộc của con người vào giới tự
nhiên cũng như nhân cách hóa hiện tượng tự nhiên từ đó phát sinh biểu tượng thần núi
thần sông…như trong miêu tả thần thoại Hy Lạp

c) Những hạn chế trong triết học của Feuerbach:
Triết học của Feuerbach đã bộc lộ những hạn chế khi ông đòi hỏi triết học mớitriết học nhân bản phải gắn liền với tự nhiên ,đồng thời cũng phải đứng trên lập trường
của chủ nghĩa tự nhiên để xem xét mọi hiện tượng thuộc về con người và xã hội. Con
người trong quan niệm của ông là con người trừu tượng , xã hội mang những thuộc tính
sinh học bẩm sinh. Triết học nhân bản của ông chứa đựng những yếu tố duy tâm. Ví dụ
như quan điểm thay thế thứ tôn giáo tôn sùng một vị thượng đế siêu nhiên , vì vậy cần
xây dựng một thứ tôn giáo mới phù hợp với tình yêu con người. Tromg cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa duy tâm của Heghen, Feuerbach đã vứt bỏ luôn phép biện chứng của
Hegel. Mặc dù có những hãn chế triết học ông vẫn có ý nghĩa to lớn trong lịch sử triết
học và trở thành một trong những nguồn gốc lý luận của triết học Mác.

III. Kết luận:
Triết học cổ điển Đức mang lại cách nhìn mới về thực tiễn xã hội và tiến trình lịch
sử nhân loại, nó đề cao vai trò hoạt động tích cực của con người.. Khắc phục triết học
truyền thống Phương Tây. Nó coi con người là chủ thể hoạt động như là vấn đề nền tảng ,
xuất phát điểm của một vấn đề triết học.
Một trong những thành tựu to lớn của triết học cổ điển Đức là nó khẳng định rằng
ý thức và tư duy chỉ có thể phát triển trong chuẩn mực con người nhận thức và cải tạo thế
giới.

Con người là chủ thể , đồng thời là kết quả của toàn bộ nền văn minh do chính mình tạo
ra , nghiên cứu tiến trình lịch sử nhân loại cũng như toàn bộ mối quan hệ con người-tự
nhiên như một quá trình phát triển biện chứng
Tuy từ lập trường duy tâm, các nhà triết học cổ điển Đức đã xây dựng nên các hệ
thống triết học độc đáo, đề xuất được tư duy biện chứng , logic biện chứng , học thuyết
về các quá trình phát triển ,mà tìm tòi lớn nhất trong lịch sử tìm tòi của họ là phép biện
chứng
Có thể nói triết học cổ điển Đức đã phát triển một cách vượt bậc về mọi mặt trong
lịch sử triết học Phương Tây. Đây cũng là thời kì phát triển mạnh mẽ của triết học
Phương Tây và nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến triết học hiện đại.




×