Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

NHIỄM VI RÚT VIÊM GAN B Ở CÁC THÀNH VIÊN TRONG HỘ GIA ĐÌNH: NGHIÊN CỨU CỘNG ĐỒNG TẠI MỘT XÃ MIỀN NÚI PHÍA BẮC (XÃ BẢN QUA, HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.94 KB, 11 trang )

NHIỄM VI RÚT VIÊM GAN B Ở CÁC THÀNH VIÊN
TRONG HỘ GIA ĐÌNH: NGHIÊN CỨU CỘNG ĐỒNG
TẠI MỘT XÃ MIỀN NÚI PHÍA BẮC (XÃ BẢN QUA, HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH
LÀO CAI)
Nguyễn Thị Vân Anh*, Nguyễn Văn Bàng**
TÓM TẮT
Nhiễm virus viêm gan B (HBV) là vấn đề lớn của y tế cộng cộng, vì HBV là một trong
những nguyên nhân hàng đầu gây xơ gan và ung thư gan.
Mục tiêu. (1) Xác định tỷ lệ mang HBsAg ở các thành viên của các hộ gia đình tại một
cộng đồng miền núi phía Bắc, (2) tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tình trạng mang
HBsAg của quần thể này.
Đối tượng, phương pháp. Nghiên cứu cắt ngang tại cộng đồng trên 798 đối tượng là
thành viên của 253 hộ gia đình được chọn ngẫu nhiên từ 980 hộ với 3250 thành viên ở xã
Bản Qua (Bát Xát, Lào Cai). Xác định HBsAg bằng kỹ thuật ELISA. Đánh giá mối liên quan
về tình trạng mang HBsAg giữa các thành viên trong gia đình bằng test λ 2, đánh giá nguy cơ
mang HBsAg bằng phân tích đơn và đa biến logistic regression.
Kết quả. Có 12,4% (99/798) số đối tượng mang HBsAg, tập trung trong 70 hộ gia đình
gồm 281 thành viên. Nam giới có tỷ lệ HBsAg(+) là 15,6% (54/346), cao hơn rõ rệt so với tỷ
lệ 10% (45/452) ở nữ giới (p<0,02) (OR (95% CI.): 1,67 (1,09-2,55)) trong toàn quần thể
nghiên cứu và 40,8% (53/130) so với 30,5% (46/151) (p=0,071) (OR (95%CI.): 1,57 (0,962,57)) ở những người từ 70 hộ gia đình có người HBsAg(+). Nhóm người lớn (>18 tuổi) có
tỷ lệ HBsAg(+) là 14,5% (56/385), cao hơn so với 10,4% (43/413) ở những trẻ ≤18
(p=0,077) (OR (95% CI): 1,47 (0,96-2,24)) trong toàn quần thể nghiên cứu, và rõ rệt hơn,
giữa 42,6% (55/129) so với 28,9% (44/152) (p=0,016), (OR (95% CI): 1,67 (1,09-2,55)
trong những gia đình có người HBsAg(+). Bố luôn có tỷ lệ HBsAg(+) cao hơn các thành
viên khác trong gia đình, kể cả trong toàn quần thể: 23,1% so với 10,6-11% (p=0,004), (OR
(95% CI): 1,69 (0,73-3,92)), cũng như trong các gia đình có người HBsg(+): 61,5% so với
23,1-40,8% (p=0,001), (OR (95% CI): 2,91 (1,02-5,68)). Trong nhóm 281 đối tượng thuộc
70 hộ gia đình có người HBsAg(+), con của những gia đình nhỏ (≤4 người) và ít con (1-2
con) có tỷ lệ HBsAg(+) cao hơn con các gia đình đông hơn (p=0,017) và đông con hơn
(p=0,031); con đầu có tỷ lệ HBsAg(+) cao hơn các em (p=0,026). Chưa thấy có sự khác
biệt về tỷ lệ HBsAg(+) giữa các nhóm dân tộc khác nhau cũng như chưa thấy rõ mối liên


quan giữa tình trạng HBsAg(+) giữa mẹ và con.


Kết luận. Tỷ lệ HBsAg(+) ở quần thể nghiên cứu này nằm trong đặc điểm vùng dịch tễ
cao của nước ta. Cần nghiên cứu sâu thêm các yếu tố khác bên ngoài hộ gia đình để làm
sáng tỏ hơn vai trò lây truyền từ mẹ sang con cũng như vai trò tác động của gia đình đông
đúc, nhiều con đối với tỷ lệ nhiễm vi rút viêm gan B tại cộng đồng.
Từ khoá: Các dân tộc, cộng đồng miền núi phía Bắc, thành viên hộ gia đình, vi rút viêm
gan B.

ABSTRACT
HBsAg RATE AND RISK FACTOR FOR HBsAg CARRIAGE IN HOUSEHOLD MEMBERS:
A COMMUNITY-BASED STUDY AT BAN QUA VILLAGE (BAT XAT, LAO CAI)
Nguyen Van Bang, Nguyen Thi Van Anh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 14 - Supplement of No 4 - 2010: 36 - 42
Hepatitis B virus (HBV) infection is one of main preoccupations of public health
in Vietnam due to its high prevalence and its devastating outcome.
Objectives. To assess HBsAg(+) rate and risk factor for being HBsAg carriers among
household members of a healthy population living in a mountainous multi-ethnic community
in the northern border.
Population and methods. A community-based cross-sectional study was carried out on
798 members of 253 households randomly selected among 3.250 inhabitants
from 980 households of a mountainous multi-ethnic commune. HBsAg was determined by
ELISA technique. Data related to demographic features were collected using structured
questionnaire. The data were analyzed using λ2 test and univariate and multivariate logistic
regression.
Results. HBsAg rate was 12.4% (99/798), aggregated in 70 households with 281
subjects. Males were significantly more affected than females either in whole study
population: 15.6% (54/346%) versus 10% (45/452), respectively, p<0.02), (OR (95% CI.):
1,67 (1.09-2.55)), or in aggregation with at least one HBsAg(+) person in the

household: 40.8% (53/130) versus 30.5% (46/151) (p=0.071), (OR (95%CI.): 1.57 (0.962.57)). Adults (>18 years old) were significantly more HBsAg(+) than children (≤18 years
old),
either
in
the
whole
study
population: 14.5%(56/385) versus 10.4% (43/413) (p=0.077) (OR (95% CI): 1.47 (0.962.24)) or in households with at least one HBsAg(+) person: 42.6% (55/129) versus 28.9%
(44/152) (p=0.016), (OR (95% CI): 1.67 (1.09-2.55). HBsAg(+) rate was consistently


higher in fathers than in other household members, either in the whole study
population: 23.1% versus 10.6-11% (p=0.004), (OR (95% CI): 1.69 (0.73-3.92)), or in
households with at least one HBsAg(+) person: 61.5% versus 23.1-40.8% (p=0.001), (OR
(95% CI): 2.91 (1.02-5.68)). Among 281 members of 70 households with at least
one HBsAg(+) person, children of households with small size (≤4 persons) or with small
offspring size (1-2) were more affected than households with bigger size (p=0.017) or with
larger size of offspring (p=0.031); and the first offspring was more affected than the
youngers (p=0.026). There was no significant relationship either between HBsAg status of
parents and that of their children or between different ethnic groups in this study.
Conclusion. Prevalence of hepatitis B virus chronic carriers in this study population is
compatible with those reported in previous studies in the country. Further indept studies with
variables inside and outside household looking at the role of parent-to-children transmission
as well as the role of promiscuity on hepatitis B virus transmission were warranted.
Key words: Ethnic, northern mountainous community, household member, hepatitis B
virus.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm virus viêm gan B (HBV) đang là vấn đề lớn của y tế công cộng. Khoảng 2/3
dân số thế giới có tiền sử nhiễm HBV, trong đó gần 400 triệu người trở thành người mang
HBV mạn tính. Hàng năm có hơn một triệu người trên thế giới tử vong vì các bệnh liên

quan đến nhiễm HBV mà chủ yếu là do mang HBV mạn tính (suy gan, xơ gan, ung thư
gan). Việt Nam nằm trong khu vực có tỷ lệ nhiễm HBsAg mạn tính cao (từ 8 đến 25%)
nên nhiễm HBV và các bệnh gan liên quan là gánh nặng y tế nên đang rất được quan tâm
trong chiến lược y tế quốc gia. Nghiên cứu dịch tễ học nhiễm HBV trên những đối tượng
cùng một gia đình có giá trị lớn trong việc đánh giá sự lây truyền HBV, giúp đề ra chiến
lược phòng bệnh, nhưng đến nay có rất ít nghiên cứu về tình hình nhiễm HBV của tất cả
các thành viên của cùng hộ gia đình tại Việt Nam và ngay cả trên thế giới (6,9,1); đại đa số
các nghiên cứu đều chỉ mới tiến hành trên các đối tượng không cùng một gia đình (3,4,5,10).
Chúng tôi nghiên cứu đề tài này trên tất cả các đối tượng trong từng hộ gia đình tại một
cộng đồng miền núi phía Bắc (xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai), nhằm (1)
xác định tỷ lệ nhiễm vi rút viêm gan B trong các thành viên của từng hộ gia đình, (2) tìm
hiểu một số yếu tố liên quan đến tình trạng mang vi rút viêm gan B của quần thể đối
tượng nghiên cứu trên.


ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁPNGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu là 798 thành viên của 253 hộ gia đình được chọn ngẫu nhiên từ
980 hộ với 3250 thành viên thuộc xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, trong đó 346
là nam (43,4%) và 452 nữ (56,6%). Chỉ chọn vào nghiên cứu này những hộ có tất cả các
thành viên đều chấp nhận tham gia nghiên cứu. Huyết tương chiết tách từ 3-5ml máu
được giữ trong bình lạnh bảo quản vac-xin, vận chuyển về cất giữ ở -40 0C, xác định
HBsAg bằng kỹ thuật ELISA và chuẩn độ ALT (GPT) bằng phương pháp đo động học
enzyme tại phòng xét nghiệm trung tâm Đại học Y Hà Nội. Đặc điểm dân số học (tuổi,
giới, ngôi bậc trong gia đình, thứ bậc anh em, số người, số con trong gia đình) được thu
thập bằng bộ câu hỏi điều tra hộ gia đình. Các số liệu được xử lý bằng các thuật toán
thống kê y-sinh học (λ2 và logistic regression) với sự trợ giúp của phần mềm SPSS 12.0.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong tổng số 798 đối tượng từ 253 hộ gia đình, có 99 đối tượng HBsAg(+) (12,4%).
Phân bố tình trạng mang HBsAg theo giới của quần thể nghiên cứu được trình bày trong
hình 1. Sự khác biệt về tỷ lệ HBsAg(+) giữa nam (15,6%) và nữ (10%) rất có ý nghĩa thống

kê (p<0,02).

Hình 1. Phân bố tình trạng mang HBsAg theo giới của quần thể nghiên cứu
Mối liên quan giữa HBsAg(+) với một số đặc điểm dân số học (tuổi, giới, ngôi thứ trong
gia đình và dân tộc) của quần thể nghiên cứu được trình bày trong bảng 1.


Bảng 1. Mối liên quan giữa HBsAg(+) trong quần thể với một số đặc điểm dân số học.
Yếu tố
Giới
Tuổi
Ngôi thứ

Dân tộc

N

HBsAg(+) (%)

p

OR (95% CI)

Nam

346

54 (15,6)

0,016


1,00

Nữ

452

45 (10,0)

≤18 tuổi

413

43 (10,4)

>18 tuổi

385

56 (14,5)

Mẹ

184

20 (10,9)

Bố

108


25 (23,1)

Con

424

45 (10,6)

Người khác*

82

9 (11,0)

Dao

140

23 (16,4)

Dáy

298

29 (9,7)

Kinh

98


16 (16,3)

H’mong

204

17 (13,2)

Tày

58

4 (6,9)

OR© (95% CI)

1,67 (1,09-2,55)
0,077

1,00
1,47 (0,96-2,24)

0,004

1,00
1,69 (0,73-3,92) 2,47 (1,30-4,71)

0,127


©

Phân tích đa biến logistic regression kỹ thuật bước lùi (conditional backward-stepwise) với
các tham số: giới, nhóm tuổi, thứ bậc trong gia đình, dân tộc.
*

Người khác bao gồm: ông hoặc bà (nội hoặc ngoại), cô, dì, chú, bác hoặc anh em họ ở
cùng nhà
Xem xét chung trong quần thể nghiên cứu, nữ có tỷ lệ HBsAg(+) thấp hơn rất rõ rệt so
với nam (p<0,02). Qua phân tích logistic regression đơn và đa biến, nữ ít nguy cơ bị nhiễm
HBsAg mạn tính hơn nam gần 2 lần. Trẻ em (≤18 tuổi) có tỷ lệ HBsAg(+) thấp hơn người
lớn và có xu hướng ít nguy cơ mang HBsAg mạn tính 1,5 lần so với người lớn. Tuy nhiên, sự
khác biệt chưa thật rõ rệt (p=0,077).
Sự khác nhau giữa tỷ lệ HBsAg(+) ở bố (23,1%) so với mẹ (10,9%), các con (10,6%) và
những thành viên khác bao gồm: ông, bà nội ngoại, cô, dì, chú, anh em họ (11,0%) rất có ý
nghĩa thống kê (p=0,004). Bố có nguy cơ HBsAg(+) 2,47 lần so với mẹ và các đối tượng
khác khi phân tích đa biến hiệu chỉnh với các yếu tố khác. Chưa thấy có sự khác biệt về tỷ lệ
mang HBsAg giữa các nhóm dân tộc khác nhau trong toàn bộ quần thể nghiên cứu này.


Tất cả 99 đối tượng HBsAg(+) tập trung vào 281 thành viên của 70 hộ gia đình. Mối liên
quan giữa tình trạng mang HBsAg với một số đặc điểm dân số học trong nhóm 281 thành
viên của 70 gia đình có người mang HBsAg được trình bày trong bảng 2.
Bảng 2. Mối liên quan giữa tình trạng mang HBsAg với một số đặc điểm dân số học ở 281
thành viên 70 hộ gia đình có người mang HBsAg.
Đặc điểm dân số
Giới
Tuổi
Ngôi thứ


Dân tộc

N

HBsAg(+) (%)

p

OR (95% CI)

Nữ

151

46 (30,5)

0,071

1,00

Nam

130

53 (40,8)

≤18 tuổi

152


44 (28,9)

>18 tuổi

129

55 (42,6)

Mẹ

49

20 (40,8)

Bố

39

24 (61,5)

Con

154

46 (29,9)

Người
khác

39


9 (23,1)

Dao

60

23 (38,3)

Dáy

77

27 (37,7)

Kinh

34

16 (47,1)

H’mong

98

27 (27,6)

Tày

12


4 (33,3)

OR© (95% CI)

1,57 (0,96-2,57)
0,017

1,00
1,82 (1,11-2,99)

1,69 (0,95-2,93)

2,91 (1,02-5,68)

2,32 (0,98-5,49)

0,001

0,278

©

Phân tích đa biến logistic regression kỹ thuật bước lùi (conditional backward-stepwise) với
các tham số: giới, nhóm tuổi, thứ bậc trong gia đình, dân tộc. * Người khác bao gồm: ông
hoặc bà (nội hoặc ngoại), cô, dì, chú, bác hoặc anh em họ ở cùng nhà
Trong nhóm 281 thành viên của 70 gia đình có người mang HBsAg, tỷ lệ HBsAg(+) ở
nam cao hơn nữ, tuy chưa thực sự có ý nghĩa thống kê (p=0,07) và nam giới có xu hướng dễ
bị HBsAg(+) hơn nữ giới 1,57 lần. Nhóm đối tượng là người lớn (>18 tuổi) có tỷ lệ
HBsAg(+) cao hơn hẳn nhóm trẻ em (p<0,02); người lớn có nguy cơ bị HBsAg(+) gấp 1,82

lần trẻ em. Bố có tỷ lệ mang HBsAg cao hơn rất rõ rệt so với các thành viên khác trong gia
đình (p<0,001); bố có nguy cơ bị HBsAg(+) cao hơn mẹ và những thành viên khác trong gia
đình gấp gần 3 lần. Chưa thấy có sự khác biệt có ý nghĩa về tỷ lệ HBsAg(+) giữa các nhóm
đối tượng dân tộc khác nhau chung sống trên cùng địa bàn này (p>0,05).


Bảng 3 trình bày kết quả phân tích mối liên quan giữa tình trạng mang HBsAg của 154
con với 39 người bố, 49 người mẹ, số người cùng số con trong gia đình và thứ tự các con
trong 70 gia đình có người mang HBsAg.
Bảng 3 Mối liên quan giữa một số đặc điểm dân số với tình trạng mang HBsAg ở 154 con
trong 70 gia đình có người HBsAg(+).
Yếu tố

p

OR (95% CI)

>0,05

1,00

Đối tượng

HBsAg

N

(+) n (%)

Bố


(-)

45

14 (31,1)

(+)

46

8 (17,4)

(-)

80

20 (25,0)

(+)

35

12 (34,3)

2(-)

25

8 (32,0)


1(-)/1(+)

34

4 (11,8)

0,27 (0,05-1,47)

2(+)

9

4 (44,4)

5,22 (0,32-85,34)

1-4 người

39

17 (43,6)

5-6 người

83

24 (28,9)

0,72 (0,33-1,89)


>6 người

32

4 (12,5)

0,42 (0,02-0,96

1-2 con

64

26 (40,6)

3-4 con

63

15 (23,8)

0,71 (0,17-3,03)

>4 con

27

4 (14,8)

0,10 (0,01-0,98)


Con đầu

60

25 (41,7)

Con thứ 2

51

10 (19,6)

0,52 (0,15-0,91)

Con thứ ≥3

43

10 (23,3)

0,73 (0,25-1,29)

Mẹ
Bố và mẹ

Số người
trong gia đình

Số con trong

giađình

Thứ tự con

©

HBsAg con
OR© (95%
CI)

0,47 (0,17-1,25)
>0,05

1,00
1,56 (0,09-3,71)

0,055

0,017

0,031

0,026

1,00

1,00

1,00


1,00

Phân tích đa biến logistic regression kỹ thuật bước lùi (conditional backward-stepwise) với
các tham số: nhóm tuổi, tình trạng HBsAg của bố mẹ, số người và số con trong mỗi gia đình
và thứ tự các con, có hiệu chỉnh với giới và dân tộc.


Mặc dù khi mẹ HBsAg(+) và nhất là khi cả bố và mẹ HBsAg(+), tỷ lệ con HBsAg(+) cao
hơn, nhưng chưa ở mức đáng tin cậy. Những gia đình nhỏ (có 4 người trở xuống) lại có tỷ lệ
các con HBsAg(+) cao hơn các gia đình lớn hơn một cách có ý nghĩa thống kê. Tương ứng,
những gia đình có 1-2 con và các con đầu có tỷ lệ HBsAg(+) cao hơn rõ rệt so với con các
gia đình đông con hơn và các con sinh sau hơn. Tuy nhiên, khi hiệu chỉnh với nhóm tuổi và
dân tộc, sự khác biệt không còn đủ ý nghĩa thống kê.
BÀN LUẬN
Đây là một trong số không nhiều các nghiên cứu về tình hình nhiễm HBV tại cộng đồng
được tiến hành cho tất cả các thành viên trong cùng hộ gia đình tại Việt Nam(6-8). Đây cũng là
một trong hai đề tài nghiên cứu tình hình nhiễm HBV tại cộng đồng dân tộc miền núi
cho đến nay(8). Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mang HBV ở những đối tượng thuộc các
dân tộc khác nhau sống tại vùng miền núi phía Bắc này là 12,4%. Tỷ lệ này tương đương với
12% trong nghiên cứu trước đây của Cao Văn Viên và cộng sự (2003) ở 2.400 công nhân
nhà máy xi măng Hoàng Thạch(2). Kết quả này của chúng tôi cũng gần với tỷ lệ 11% trong
nghiên cứu gần đây của chúng tôi (2008) trên toàn thể các thành viên hộ gia đình một
cộng đồng các dân tộc vùng núi phía Bắc (xã Bản Cầm, Bảo Thắng, Lào Cai) (8). Tuy nhiên,
tỷ lệ này cao hơn so với tỷ lệ 6,6% trong nghiên cứu năm 2008 của chúng tôi trên tất cả các
thành viên hộ gia đình tại một xã miền trung du Bắc Bộ (xã Tiên Phong, Ba Vì, Hà Tây cũ)
(6)
, và cao hơn tỷ lệ 8,9% trong một nghiên cứu đồng thời với nghiên cứu này của chúng tôi
trên 1047 đối tượng tại một xã nông thôn đồng bằng miền Trung (Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu,
Nghệ An) (tài liệu chưa xuất bản). Trong nghiên cứu này, chúng tôi cũng thấy tỷ lệ nam giới
mang HBV cao hơn nữ giới rõ rệt như đã được công bố trong nhiều nhiên cứu tại Việt Nam

và trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại xã Tiên Phong, Ba Vì (6), tại xã Bản Cầm (Bảo
Thắng, Lào Cai)(8) và xã Quỳnh Đôi.
Trong 2 nghiên cứu trước đây tại Tiên Phong (Ba Vì, Hà Tây cũ) và Bản Cầm (Bảo
Thắng, Lao Cai) chúng tôi đều nhận thấy lứa tuổi từ 6-18 tuổi có tỷ lệ mang HBV cao
nhất, gấp đôi lứa tuổi trẻ hơn và người lớn (6,8). Trong nghiên cứu này, chúng tôi thấy
nhóm trẻ em (từ 18 tuổi trở xuống) có tỷ lệ mang HBsAg thấp hơn rất rõ so với nhóm
người lớn, cả trong quần thể nghiên cứu và trong nhóm 281 đối tượng là thành viên của
70 gia đình có người mang HBsAg. Tuy nhiên, khi phân tích đa biến có hiệu chỉnh với
các yếu tố liên quan khác, mối liên hệ giữa tỷ lệ HBsAg(+) cao với giới nam không
còn đủ ý nghĩa thống kê, nói cách khác, không mang tính độc lập. Điều này có thể do
mẫu nghiên cứu của chúng tôi còn khiêm tốn nên các thông số chưa đủ độ mạnh.
Cần được đánh giá thêm về lĩnh vực này trong các nghiên cứu rộng hơn và sâu hơn.


Trong nghiên cứu này, mặc dù tỷ lệ HBsAg(+) ở bố cao hơn các thành viên khác trong
gia đình rất có ý nghĩa trong toàn quần thể (p<0,004) và trong nhóm đối tượng thuộc 70
gia đình có người mang HBsAg (p<0,001) với tính độc lập cao (giữ nguyên sự khác biệt và
tính nguy cơ cao có ý nghĩa khi phân tích đa biến có hiệu chỉnh), nhưng chưa thấy rõ mối
liên quan giữa nhiễm HBV của bố mẹ với con cái họ, cũng giống như kết quả nghiên cứu
của chúng tôi tại Tiên Phong (Ba Vì, 2008)(6) và tại xã Quỳnh Đôi. Ngược lại, trong nghiên
cứu tại cộng đồng dân tộc miền núi phía Bắc năm 2008 (Bản Cầm, Bảo Thắng, Lao Cai) với
số đối tượng nghiên cứu tương đối lớn (1146 người), mối liên quan giữa HBsAg(+) của mẹ
và nhất là cả của cả bố lẫn mẹ đối với tình trạng mang HBsAg của con rất chặt chẽ; con các
mẹ HBsAg(+) có nguy cơ mang HBsAg cao gấp 15 lần so với con các mẹ HBsAg(-), và nếu
cả bố và mẹ đều mang HBsAg, các con họ có nguy cơ mang HBsAg cao gấp đến 45 lần so
với trẻ có cả bố và mẹ HBsAg(-)(8). Chúng tôi chưa biết nguyên nhân tại sao có sự khác biệt
như vậy trong các nghiên cứu cùng loại, có cỡ mẫu khá lớn và ngay cả khi cùng một khu
vực địa lý khá gần nhau(8). Điều này gợi ý chúng tôi đi sâu hơn trong những nghiên cứu cùng
loại tiếp theo.
Sự nghịch lý về tỷ lệ HBsAg(+) cao trong các hộ gia đình có ít người so với những

hộ đông hơn (p=0,017), và một cách tương ứng, ở những gia đình có ít con (1-2 con) so với
những gia đình đông con hơn (p=0,031), và ở những người con đầu trong gia đình so với
các con sinh sau hơn (p=0,026) cần được đánh giá kỹ lưỡng hơn. Tuy nhiên, hiện tượng này
có thể gợi ý rằng lây truyền ngang qua tiếp xúc trong các thành viên trong cùng hộ gia đình
là ít phổ biến và không có tính quyết định trong phương thức lây truyền vi rút viêm gan B.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu cắt ngang tại cộng đồng trên 798 thành viên của 253 hộ gia đình của 5
dân tộc khác nhau được chọn ngẫu nhiên từ 980 hộ với 3250 thành viên thuộc xã Bản Cầm,
huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai cho thấy: Tỷ lệ HBsAg(+) là 12,4%, ở nam cao hơn rõ rệt so
với ở nữ. Trẻ ≤18 tuổi có tỷ lệ HBsAg(+) thấp hơn rõ rệt so với lứa tuổi cao hơn.Trong số
291 đối tượng thuộc 70 hộ gia đình có người HBsAg(+), con các gia đình nhỏ (≤4 người),
và gia đình có ít con (1-2 con) có tỷ lệ HBsAg(+) cao hơn con các gia đình lớn hơn và đông
con hơn; trẻ em là con đầu có tỷ lệ HBsAg(+) cao hơn các em sinh sau. Không thấy có mối
liên quan giữa tình trạng HBsAg của bố hoặc mẹ với tình trạng mang HBsAg của các con
họ. Cũng không thấy có sự khác biệt có ý nghĩa về tỷ lệ HBsAg(+) giữa các nhóm đối
tượng dân tộc khác nhau. Tỷ lệ HBsAg(+) ở quần thể nghiên cứu này nằm trong đặc điểm
vùng dịch tễ cao của nước ta. Cần nghiên cứu sâu thêm các yếu tố khác bên ngoài hộ
gia đình để làm sáng tỏ hơn vai trò lây truyền từ mẹ sang con cũng như vai trò tác động
của gia đình đông đúc, nhiều con đối với tỷ lệ nhiễm vi rút viêm gan B tại cộng đồng nhằm


tìm được những những yếu tố cho phép can thiệp làm giảm nguy cơ lây nhiễm mầm bệnh
nguy hiểm này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Bùi Xuân Trường, Nguyễn Văn Bàng (2009). Tỷ lệ nhiễm virus viêm gan B, C và
đồng nhiễm virus viêm gan B/C và đồng nhiễm virus viêm gan B/C và các kiểu gen virus
viêm gan B thuộc khu vực biên giới Việt Trung (huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai). Tạp chí
nghiên cứu Y học, 64(5): 52-59.


2.

Cao Văn Viên, Trần Duy Hưng (2003). Khảo sát tình trạng nhiễm trùng viêm gan
virus B tại công ty xi măng Hoàng Thạch (Hải Dương) năm 2002. Tạp chí y học Dự
phòng, tập XIII, Phụ bản số 1(59) : 147-50

3.

Hipgrave DB, Van NT, Huong VM et al. (2003). Hepatitis B infection in
rural Vietnam and the implications for a national program of infant immunization. Am J
Tro Med Hyg 69:288 - 294.

4.

Tran Thien Tuan Huy et al. (2003). “Prevalance of hepatitis virus types B through
E genotypic distribution of HCV in Ho Chi Minh City, Vietnam”, Hepatology Research,
26: 275-280.

5.

Nguyễn Trường Sơn, Bùi Xuân Trường, Nguyễn Khánh Trạch, Trần Minh
Phương, Nguyễn Công Long, Nguyễn Văn Bàng (2006). Nghiên cứu tỷ lệ các kiểu
gen của virus viêm gan B ở một số người lành mang virus và người mắc bệnh gan mạn
tính tại miền Bắc Việt Nam. Y học lâm sàng. Bệnh viện Bạch Mai, số 2 (đặc san), tr 139142.

6.

Nguyễn Văn Bàng (2008). Tình hình nhiễm virus và các kiểu gien virus viêm gan B
ở trẻ em và bố mẹ tại xã Tiền Phong (Ba Vì, Hà Tây). Tạp chí Y học thực hành, 629 :

406-411.

7.

Nguyễn Văn Bàng, Lương Công Sỹ (2008). Một số đặc điểm dịch tễ học nhiễm
virus viêm gan B (HBV) ở trẻ em các dân tộc xã Bản Cầm, Bảo Thắng, Lào Cai. Y học
thành phố HCM, 12(4) : 44-48.

8.

Nguyễn Văn Bàng, Nguyễn Thị Vân Anh, Lương Công Sỹ (2009). Một
số đặc điễm dịch tễ học nhiễm virus viêm gan B (HBV) ở trẻ em và người lớn các dân
tộc thuộc xã Bản Cầm, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lao Cai. Tạp chí Nhi khoa, 2(2) : 62-69.

9.

Nguyễn Văn Bàng, Nguyễn Thị Vân Anh (2010). Đặc điểm lâm sàng, sinh học
nhiễm virus viêm gan B ở trẻ em và người lớn các dân tộc tại xã Bản Cầm, Bảo Thắng,
Lao Cai. Tạp chí Nhi khoa, 3(1) : 48-55.


10.

Ni YH, Chang MH, Huang LM et al. (2001). Hepatitis B virus infection in children
and adolescents in a hyperendemic area: 15 years after mass hepatitis B vaccination. Ann
Intern Med, 135: 796-800.




×