Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máynhà nước phong kiến Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (573.32 KB, 10 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
1. Nguyên tắc tôn quân quyền
1.1 Cơ sở và nội dung của nguyên tắc
1.2 Biểu hiện của nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động

Trang
0
1
1
1
1
2

của bộ máy nhà nước phong kiến Việt Nam
1.3 Đánh giá
2. Nguyên tắc liên kết dòng họ
2.1 Cơ sở và nội dung của nguyên tắc
2.2 Biểu hiện của nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động

3
4
4
4

của bộ máy nhà nước phong kiến Việt Nam
2.3 Đánh giá
C. KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỤC LỤC

5
5
6
7

A. MỞ ĐẦU
Đất nước ta đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử với biết bao thăng trầm để đi từ một
mảnh đất bị phong kiến phương Bắc đô hộ tới một nhà nước Việt Nam độc lập như ngày
nay. Đó là một chặng đường dài với những cố gắng không ngừng nghỉ từ các triều đại
phong kiến tới chính quyền non trẻ sau cách mạng. Không có thứ gì có thể hoàn hảo nếu
không đi lên từ con số 0, mô hình tổ chức bộ máy nhà nước cũng vậy. Lịch sử nước ta đã
chứng kiến 10 triều đại phong kiến với 10 mô hình tổ chức bộ máy nhà nước. Tuy mỗi mô
hình có ít hay nhiều nét riêng nhưng tựu chung lại vẫn tuân theo những nguyên tắc cụ thể.
Ngày nay, để có thể xây dựng được nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chúng
1


ta cũng không thể không xem xét “Những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước phong kiến Việt Nam” để từ đó rút ra được những kinh nghiệm trong việc xây
dựng mô hình nhà nước trong thời kì đổi mới.

B. NỘI DUNG
Những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là những nguyên lí,
những tư tưởng chỉ đạo có tính then chốt (xuất phát điểm), thể hiện bản chất, nội dung, ý
nghĩa, mục tiêu và nhiệm vụ của nhà nước, tạo cơ sở cho việc tổ chức và triển khai các
hoạt động của bộ máy nhà nước.
Đối với nhà nước phong kiến Việt Nam, mô hình bộ máy nhà nước được tổ chức và
hoạt động dựa trên 2 nguyên tắc cơ bản nguyên tắc tôn quân quyền và nguyên tắc liên kết

dòng họ.
1. Nguyên tắc tôn quân quyền
1.1 Cơ sở và nội dung của nguyên tắc
Nguyên tắc Tôn quân quyền đề cao tính thượng tôn và tập trung toàn bộ quyền lực
nhà nước vào tay nhà Vua, các cơ quan nhà nước chỉ là bộ phận tư vấn, thừa hách, hỗ trợ
nhà vua.
Giữa rất nhiều nguyên tắc khác nhau, nguyên tắc tôn quân quyền luôn giữ được vai
trò quan trọng, là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
phong kiến Việt Nam bởi cơ sở lí luận và thực tiễn của nó. Về cơ sở lí luận , nguyên tắc
Tôn quân quyền được xây dựng dựa trên thuyết Tôn quân quyền của Nho giáo. Theo
đó: Khi con người hợp quần mà không phân định cao thấp thì sẽ sinh ra tranh giành, tranh
loạn. Muốn xã hội không tranh giành, không loạn lạc thì phải có vua. Trời đặt ra vua là vì
dân, vì đạo hợp quần của con người. Do vậy, quyền lực của vua phải vì cả thiên hạ, chứ
không phải của riêng dòng họ nào. Thần thánh hoá vương quyền, “trời là đấng thượng
đế có quyền tối cao, loài người do thượng đế sáng tạo ra và là con cháu của thượng đế. Để
cai quản con người, trời đặt cho cõi người một vị vua có quyền lực tối cao để thay trời
hành đạo, nói cách khác vua là người nhận được mệnh trời”. Vua là người tham tán quán
thông cả trời, đất và người. Phục tùng quyền lực nhà Vua cũng đồng nghĩa với việc làm
theo đạo của trời, đất. Về cơ sở thực tiễn, nguyên tắc Tôn quân quyền được vận dụng tối
đa ở bộ máy nhà nước quân chủ quan liêu chuyên chế do nội dung của nó đáp ứng được
yêu cầu từ tình hình thực tiễn của nước ta thế kỉ XV. Cụ thể, sau khi giành độc lập, một
trong những nhiệm vụ cấp bách nhất được đặt ra là xây dựng nhà nước tập quyền mạnh,
đủ sức đối phó với sự tái xâm lược của nhà Minh; đồng thời, Nho giáo trở thành công cụ
sắc bén giúp giai cấp cầm quyền tạo nên sự thống nhất về chính trị tư tưởng. Bên cạnh đó,
những hạn chế của bộ máy nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý-Trần cùng những thành tựu
trong cuộc cải cách của Minh Thành Tổ đã dẫn đến việc vận dụng triệt để nguyên tắc Tôn
quân quyền vào tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là tất yếu.
1.2 Biểu hiện của nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
phong kiến Việt Nam
2



Có thể nói, cuộc cải cách bộ máy nhà nước của Lê Thánh Tông là một bước ngoặt
lớn trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam với việc áp dụng nguyên tắc Tôn quân
quyền một cách cao độ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Ba nguyên tắc
cải cách chủ yếu của Lê Thánh Tông đó là:
- Bỏ bớt một số chức quan, cơ quan và cấp chính quyền trung gian để đảm bảo sự tập
trung quyền lực của nhà vua.
- Các cơ quan giám sát, kiểm soát lẫn nhau để loại trừ sự lạm quyền và nâng cao trách
nhiệm.
- Nguyên tắc tản quyền, không tập trung quá quyền hành vào một cơ quan mà được tản ra
cho nhiều cơ quan để ngăn chặn sự tiếm quyền.
Cụ thể, ở trung ương, Lê Thánh Tông bãi bỏ chức Tể tướng và chức Đại hành
khiển. Ở các triều đại trước, Tể tướng là người được giao quyền trực tiếp điều khiển quan
lại nên có rất nhiều quyền hành đứng dưới một người nhưng đứng trên trăm người nên dễ
lạm quyền, tiếm quyền, xâm hại đến quyền hạn của nhà vua. (Ví dụ như Thái sư Trần Thủ
Độ của nhà Trần nắm rất nhiều quyền hành trong tay); Đại hành khiển là người đứng đầu
hàng ngũ quan văn. Cùng với đó là việc Nhà vua trực tiếp nắm giữ quyền hành pháp và
quân sự mà trước đây được giao cho Tể tướng và Thái úy. Như vậy, các cơ quan nhà nước
trung khu đã hoàn toàn bị loại bỏ, quyền lực tập trung cao độ trong tay nhà vua, vua tự
mình đứng ra điều khiển trăm quan, không thông qua cấp trung gian.
Bên cạnh đó, do các quan đại thần thường là những công thần và có uy tín lớn dễ
ảnh hưởng đến quyền lực của nhà vua nên ở triều Lê Thánh Tông, quan đại thần thường
không được kiêm nhiệm những trọng trách khác. Nhằm hạn chế sự tiếm quyền, lộng
quyền, đảm bảo đội ngũ quan lại trong sạch, bộ máy nhà nước thời kì này đã có cơ quan
có chức năng kiểm tra, giám sát như Lục khoa và Ngự sử đài. Có thể thấy, việc để các cơ
quan tự kiểm soát, kiềm chế lẫn nhau cũng là một cách để củng cố địa vị tối thượng của
nhà vua. Đồng thời, để hạn chế quyền lực của Lục bộ nhà vua đã áp dụng chế độ lãnh đạo
tập thể, đứng đầu mỗi bộ vẫn là Thượng thư và có 2 chức phó là Tả thị lang và hữu thị
lang. Chế độ lãnh đạo tập thể cũng được áp dụng ở cấp địa phương khi cả nước được chia

thành nhiều đạo nhỏ; không để quyền hành tập trung trong tay một người mà tản ra cho 3
cơ quan (Tam ti: Thừa ti, Đô ti và Hiến ti). Việc chia cả nước ra làm nhiều đạo nhỏ đã hạn
chế tiềm lực của những lực lượng phong kiến địa phương, ngăn ngừa sự cát cứ đồng thời
giúp chính quyền cấp đạo quản lí địa phương hiệu quả hơn, tăng cường quyền lực trung
ương.
Về chế độ tuyển dụng quan lại, Nhà vua chú trọng tuyển người hiền tài thong qua
thi cử, không chú trọng xuất thân địa vị. Điều này không những hạn chế sự kết bè, kéo
đảng của các dòng tộc nhiều đời làm quan ảnh hưởng đến địa vị của nhà vua mà còn nâng
cao chất lượng của đội ngũ quan lại. Bên cạnh đó, tước Vương không phong cho người
ngoài hoàng tộc nhằm hạn chế thế lực ngoại thích, tôn thần.

3


Tuy nhiên, dù quyền lực của nhà vua có lớn tới đâu cũng không thể hoàn chỉnh nếu
thiếu thần quyền. Quyền lực nhà vua là tối cao do vua là người được Trời giao phó cho
mệnh lớn. Chính vì vậy nên các vị vua giai đoạn này thường chủ trì các buổi lế tế - điều
mà hầu như không xảy ra ở các triều đại trước.
1.3 Đánh giá
Bộ máy nhà nước Lê Sơ được tổ chức và hoạt động chủ yếu dựa trên nguyên tắc
Tôn quân quyền đã bộc lộ rất nhiều ưu điểm, đây được xem là mô hình nhà nước kinh
điển của chế độ phong kiến Việt Nam. Xuất phát từ việc quyền lực nhà nước tập trung cao
độ vào tay nhà vua, nhà nước tập quyền hình thành và đạt tới mức hoàn bị, vừa thể
hiện tính chuyên chế của nhà vua, vừa thể hiện hiệu lực và hiệu quả cai trị của nhà
nước từ đó góp phần to lớn thúc đẩy sự phát triển của dân tộc và quốc gia. Bộ máy nhà
nước không những đủ sức thống nhất đất nước, chống giặc ngoại xâm mà còn đủ mạnh để
quản lí xã hội đã có sự phân hóa giai cấp sâu sắc. Cùng với đó, khi nguyên tắc liên kết
dòng họ không còn được vận dụng triệt để đã tạo nên những thay đổi sâu sắc trong đội
ngũ quan lại, không những quan lại được tuyển chọn từ người hiền tài mà còn chưa bị
thoái hóa do không được quá nhiều đặc quyền, đặc lợi. Vua không phụ thuộc quá nhiều

vào quần thần, tự mình đứng ở ngôi vi độc tôn, có quyền lực tuyệt đối nên đã tạo nên một
bộ máy nhà nước có những cơ chế kiểm soát, kiềm chế lẫn nhau giữa các cơ quan, bộ máy
nhà nước có tính hệ thống và hợp lí hơn nhiều so với giai đoạn trước.
Tuy nhiên, sự vận dụng nguyên tắc tôn quân quyền trong tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước cũng không tránh khỏi một số hạn chế. Đầu tiên, quyền lực tối cao và vô
hạn nằm trong tay nhà vua, các cơ quan nhà nước chỉ mang tính hỗ trợ, quyết định cuối
cùng là của nhà vua, đó là quyết định dựa vào trí tuệ của một người nên luôn mang tính
chủ quan, duy ý chí. Chính vì vậy, việc áp dụng nguyên tắc tôn quân quyền đồng nghĩa
với việc không ít quyết định của nhà vua là sai lầm, độc đoán ảnh hưởng lớn tới sự tồn
vinh của dân tộc ( ví dụ như các chính sách của các vị vua cuối triều Nguyễn như Bế
quan tỏa cảng hay từ chối cải cách, …). Bên cạnh đó, dựa theo tư tưởng của Đạo Nho
phương thức, cách thức trừng phạt và cai trị mang tích nhân đạo,biện pháp trừng phạt với
tính chất nhẹ nhàng, mềm mỏng như lấy việc tu thân, giáo hóa dân bằng lễ, nhạc là chủ
yếu,hình pháp chỉ là bổ trợ, điều này cho thấy hình thức trừng phạt ít nghiêm khắc ,ít
mang tính trừng phạt mà chỉ mang tính răn dạy.
2. Nguyên tắc liên kết dòng họ
2.1 Cơ sở và nội dung của nguyên tắc
Sự vận dụng nguyên tắc liên kết dòng họ chủ yếu dựa trên quan hệ huyết thống và
quan hệ hôn nhân nội tộc. Hoàng thân, quốc thích được coi là chỗ dựa vững chắc cho
vương triều. Nguyên tắc được vận dụng chủ yếu trong việc tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý-Trần.

4


Nguyên tắc liên kết dòng họ được xây dựng dựa trên tâm lí dòng tộc cũng như tập
tục hôn nhân của người Việt thời kì này không cấm quan hệ hôn nhân nội tộc. Bên cạnh
đó, nhà Trần từ vai trò ngoại thích của nhà Lý mà giành ngôi nên luôn chủ trương chỉ kết
hôn với người trong họ để tránh “họa ngoại thích”.
2.2 Biểu hiện của nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước phong

kiến Việt Nam
Trong suốt thời kì phong kiến ở nước ta, tùy từng thời kì với những hoàn cảnh lịch
sử nhất định mà nguyên tắc liên kết dòng họ được vận dụng ở những mức độ khác nhau.
Tuy nhiên, dù được vận dụng một cách triệt để hay ở mức độ nhất định thì nguyên tắc vẫn
được biểu hiện rõ nhất thông qua chế độ hôn nhân nội tộc và cơ chế tuyển chọn quan lại.
Quan hệ hôn nhân nội tộc là khá phổ biến vào thời nhà Trần. Nhà Trần khuyến
khích hôn nhân nội tộc để củng cố sự vững chắc của vương triều, đảm bảo tính “ thuần
nhất “ của dòng họ, bảo vệ ngôi vua được bền vững, ngăn ngừa để lọt ngôi vua vào tay
dòng họ khác. Ví dụ như: Năm 1237, Trần Thái Tông lấy Thuận Thiên - vợ của anh trai là
Trần Liễu; năm 1258, Thánh Tông lấy Thiên Cảm là con của Trần Liễu (quan hệ con chú
con bác); Thiên Thụy công chúa là cháu ngoại của Trần Liễu lấy Hưng Vũ Vương Quốc
Nghiễn là cháu nội của Trần Liễu; Năm 1375 Duệ Tông gả con là Trang Huy công chúa
cho Nguyên Dẫn, con Cung Chính vương, Cung Chính vương và Duệ Tông đều là con
Minh Tông, tức con chú con bác lấy nhau; … Có thể nói, dưới triều Trần, những cuộc hôn
nhân nội tộc khá phổ biến nhưng không có nghĩa chỉ thời nhà Trần mới có những cuộc
hôn nhân như vậy. Ví dụ như Lê Chân Tông lấy Phương Từ là em của mẹ; năm 1663, Lê
Huyền Tông – cháu ngoại Ngọc Trinh lấy Ngọc Áng là cháu của Trịnh Tráng-anh Ngọc
Trinh, … Tuy nhiên, không như đời Trần công khai thừa nhận, hôn nhân nội tộc không
được đặc biệt coi trọng ở các triều đại khác.
Về chế độ quan lại, phương thức tuyển chọn quan lại chủ yếu dưới thời Lý – Trần
là phương thức nhiệm tử. Theo đó, quan lại sẽ tự tiến cử những người được cho là hiền tài
ra làm quan hoặc các chức quan có thể được “cha truyền con nối” từ đời này sang đời
khác. Điều này còn được thể chế trong pháp luật dưới thời Trần Thái Tông: “Người có
quan tước, con cháu được thừa ấn mới được vào làm quan; người giàu khỏe mạnh mà
không có quan tước thì xung quân, đời đời làm lính”. Bên cạnh đó, thời Lý, các quan lại
đều xuất thân từ tầng lớp quý tộc. Dưới triều đại nhà Trần, hoàng tộc càng trở thành chỗ
dựa vững chắc cho vương triều, tất cả các chức vụ quan trọng trong triều đình đều giao
cho vương hầu quý tộc nhà Trần nắm giữ, điều này được thể hiện thông qua một số chính
sách như: những vương hầu tôn thất nhà Trần đều được trọng đãi, trọng dụng, được phong
cấp thực ấp, thực hộ, được lập điền trang, phủ đệ và được giao nắm những trọng trách chủ

chốt trong triều, trấn trị các vùng quan trọng, chỉ huy các lực lượng quân đội.
2.3 Đánh giá

5


Trải qua gần 400 năm, nguyên tắc liên kết dòng họ đã tạo nên không ít những ưu
điểm cho mô hình tổ chức bộ máy nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý-Trần. Dựa trên mối
liên kết chặt chẽ giữa vua và hoàng tộc cũng như giữa vua và nhân dân lao động, khối đại
đoàn kết dân tộc được hình thành là tiền đề tạo nên một sức mạnh to lớn đưa đất nước
thoát khỏi những thời điểm đen tối, nguy nan nhất như trong 3 cuộc chiến chống quân
xâm lược Nguyên Mông, … Bên cạnh đó, thời kì này trí tuệ tập thể được phát huy ở mức
cao nhất vào các công việc của quốc gia thể hiện ở các hội nghị như Hội nghị Bình Than,
Hội nghị Diên Hồng, …Có thể nói, việc áp dụng nguyên tắc liên kết dòng họ vào việc xây
dựng mô hình bộ máy nhà nước đã sáng tạo nên một mô hình bộ máy nhà nước rất
riêng, độc đáo và mới lạ, không hoàn toàn lệ thuộc vào mô hình nhà nước quân chủ
Nho giáo ở Trung Quốc. Tuy nhiên, nguyên tắc liên kết dòng họ trên thực tế cũng bộc lộ
một số điểm hạn chế. Việc tuyển chọn quan lại theo phương thức nhiệm tử khiến cho một
bộ phận lớn quan lại không thực sự có trách nhiệm và năng lực gánh vác công việc ,
hoàng thân quốc thích nắm giữ quá nhiều quyền hành dẫn đến dần bị tha hóa hoặc tiếm
quyền, lộng quyền. Cùng với đó là nguy cơ phân quyền cát cứ và bất ổn triều chính
luôn tiềm ẩn do thế lực của hoàng thân, quốc thích không bị kiểm soát như cục diện chính
trị ở nước ta cuối thời Lý, đầu nhà Trần. Cụ thể, dưới triều vua Lý Huệ Tông, Đàm Dĩ
Mông (họ hàng của thái hậu) thâu tóm triều chính dẫn đến từ năm 1211, lãnh thổ Đại Việt
hình thành 3 thế lực phân cát lớn là thể lực của họ Đoàn, họ Trần và họ Nguyễn. Ngoài ra,
sự kết thúc của nhà Trần cũng xuất phát từ sự lộng quyền của Hồ Quý Ly (Trần Nghệ
Tông là con rể của Hồ Quý Ly).

D.KẾT LUẬN
Trải qua hơn 800 năm lịch sử với 10 triều đại phong kiến, nguyên tắc Tôn quân

quyền và nguyên tắc liên kết dòng họ đã trở thành 2 nguyên tắc cơ bản, quan trọng trong
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Bên cạnh đó, ở từng triều đại cụ thể còn có
những quan điểm khác được vận dụng như quan điểm chính danh, quan điểm Thiên mệnh
hay tư tưởng pháp trị của phái Pháp gia. Hiện nay, với những điều kiện khách quan mới,
con người và xã hội mới đã và đang đặt ra cho công cuộc xây dựng bộ máy nhà nước
những yêu cầu mới nhưng những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
phong kiến vẫn có ý nghĩa với công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
ở nước ta.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Vũ Thị Yến, Tư tưởng “Tôn quân quyền” của Đạo Nho trong quá trình tổ chức

bộ máy nhà nước phong kiến Việt Nam thời Lê sơ và thời Nguyễn, Luận văn thạc sĩ
Luật học, Hà Nội, 2003

6


2.

Nguyễn Thị Thùy Duyên, Nghiên cứu sinh, Giảng viên Khoa Triết học, Đại học

Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Tìm hiểu
cơ sở thực tiễn và nhu cầu xã hội hình thành tư tưởng chính trị thời Trần, Tạp chí Triết
học, 2011.
Nguồn:

/>

vientriet=articles_deltails&id=1458&cat=57&pcat=
3.
ThS. Lê Việt Tuấn, Giảng viên Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, Chuyên đề: Tư
tưởng “Tôn quân quyền” của Đạo Nho.
Nguồn: />%20su%20NN&PLVN/Chuyen_de/CHUYEN%20DE%204%20-%20Ton%20quan
%20quyen.pdf
4.
Cách thức tổ chức bộ máy nhà nước thời Lý – Trần
Nguồn: />5.
Lương Ninh, Lịch sử Việt Nam giản yếu, Chương V – Đại Việt trong các thế kỷ
X-XIV (Thời Lý – Trần), Tr.125-139, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000
Nguồn:
/>option=com_content&task=view&id=700&Itemid=99999999

PHỤ LỤC
Nhà Trần

Nhà Lý

7


VUA

TỂ TƯỚNG

Các quan
đại thần
(tam công,
tam cô, tam

tư, thái úy,
thiếu úy,
binh
chương sự)

Các bộ
(Thượng
thư, Thị
lang)

Các cơ
quan quản
lí chuyên
môn khác
(viện, đài,
sử, ti,
giám , cục)

Mô hình bộ máy nhà nước thời Lý và thời Trần
(địa vị của vua chưa thực sự được đề cao)

Mô hình bộ máy nhà nước thời Lê Sơ sau cải cách của vua Lê Thánh Tông
(áp dụng triệt để nguyên tắc tôn quân quyền)

8


Sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc là nguyên nhân chính dẫn đến thắng lợi
của 3 lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông.


Hiện tượng quan lại tha hóa cuối nhà Lý
9


Hôn nhân nội tộc là hiện tượng khá phổ biến dưới triều đại nhà Lý và nhà Trần

Quan lại dưới triều Lê sơ và triều Nguyễn chủ yếu tuyển chọn qua các kì thi

10



×