Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

một số vấn đề bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.56 KB, 17 trang )

Mục lục
I. Lời nói đầu:
II. Cơ sở lý luận:
1. Xác định nguồn nguy hiểm cao độ
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra.
2.1, Hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ
2.2, Có thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
2.3, Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật
của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra
2.4, Lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra.
3. Xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra.
III. Thực tiễn giải quyết tranh chấp về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ.
IV. Một số nhận xét, kiến nghị hoàn thiện và bổ sung các quy định pháp
luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
IV. Kết luận
Tài liệu tham khảo

1
1
1
3
3
4
5
5
7
10


14
15
16

1


Đề bài: 26
Một số vấn đề về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Bài làm
I. Lời nói đầu:
Hiện nay, với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, số lưọng
máy móc, thiết bị hiện đại mang tính tự động hóa cao được sử dụng ngày một
nhiều, cùng với đó kéo theo tai nạn gia tăng ảnh hưởng đến an toàn về tính
mạng, sức khỏe, tài sản…của mọi người. Những sự vật mà hoạt động của chúng
luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại được gọi là nguồn nguy hiểm cao độ. Trong
xã hội, khi quyền, lợi ích bị xâm phạm đều có khuynh hướng đòi hỏi một sự bồi
thường nhằm bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người bị thiệt hại. Trong các quy
định của BLDS về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Điều 623 về
bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chiếm một vị trí đặc biệt
quan trọng. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
là loại trách nhiệm phát sinh cho người sở hữu, chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao
độ khi hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho môi trường và
những người xung quanh.
II. Cơ sở lý luận:
1. Xác định nguồn nguy hiểm cao độ
Trong đời sống thực tế hiện nay bên cạnh những thiệt hại do hành vi của
con người gây ra, có nhiều thiệt hại do tài sản là các phương tiện giao thông,
máy móc, công trình xây dựng, súc vật gây ra. Theo mục III.1.a Nghị quyết số
03/2006/NQ-HĐTP nếu muốn xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do

nguồn nguy hiểm cao độ thì phải xác định nguồn gây ra thiệt hại có phải là
nguồn nguy hiểm cao độ hay không.

2


Theo Điều 623 khoản 1 Bộ luật dân sự: “Nguồn nguy hiểm cao độ bao
gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công
nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú
dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.”
Về cơ bản là phương tiên giao thông vận tải cơ giới, những phương tiện
vận tải hoạt động trên đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không
được trang bị và hoạt động bằng máy móc. Hệ thống tải điện là dây truyền dẫn
điện, máy phát, cầu dao,…và chúng đều đang hoạt động. Vũ khí bao gồm vũ khí
quân dụng, vũ khí thể thao, súng săn, vũ khí thô sơ...(Quy chế quản lý vũ khí, vật
liệu nổ và công cụ hỗ trợ ban hành kèm theo Nghị định 47/CP ngày 12/08/1996).
Chất cháy, chất nổ là chất lỏng, chất khí, chất rắn dễ xảy ra cháy nổ (Điều
3, Luật phòng cháy chữa cháy). Chất cháy có đặc tính tự bốc cháy khi tiếp xúc
với oxy trong không khí, nước hoặc dưới tác động của các yếu tố khác ở nhiệt độ
nhất định (ví dụ: diêm tiêu, phốt pho, thuốc đạn, xăng,...). Chất nổ là hỗn hợp
hoá chất đặc biệt mà khi có tác động lý, hoá học hoặc nhiệt năng đủ liều lượng sẽ
gây ra phản ứng hoá học làm phát nổ và phá huỷ môi trường xung quanh.
Chất độc là những chất có độc tính cao, rất nguy hiểm cho sức khoẻ, tính
mạng của con người, động vật cũng như đối với môi trường xung quanh (ví dụ:
ni-cô-tin, thạch tín, các loại muối thuỷ ngân...).
Chất phóng xạ là chất ở thể rắn, lỏng hoặc khí có hoạt động phóng xạ trên
70 kilo Becơren trên kilogam (70Kbo/Kg) (khoản 3, điều 3, Pháp lệnh an toàn và
kiểm soát bức xạ 1996).
Thú dữ là động vật bậc cao có lông mao, có tuyến vú, nuôi con bằng sữa,
lớn , rất dữ, có thể làm hại người. Ví dụ: hổ, báo, gấu, voi… Một số loại động

vật nguy hiểm khác như: cá sấu, trăn, rắn,…thì có thể áp dụng tương tự pháp luật
để giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Các nguồn nguy hiểm cao độ
khác do pháp luật quy định là hướng mở cho các nguồn nguy hiểm mới.
3


Do quy định chỉ liệt kê một số nguồn nguy hiểm cao độ nên không thể đầy
đủ và chi tiết nên để xác định nguồn nguy hiểm cao độ còn cần phải căn cứ vào
các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan hoặc quy định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền về lĩnh vực cụ thể đó. Ví dụ: Trong phương tiện giao
thông cơ giới đường bộ áp dụng Luật giao thông đường bộ. Theo điểm 13 Điều 3
Luật giao thông đường bộ thì phương tiện giao thông cơ giới đường bộ gồm xe
ôtô, máy kéo, xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy và các loại xe
tương tự, kể cả xe cơ giới dùng cho người tàn tật.
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra.
2.1, Hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ
Trách nhiệm bồi thường do hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ phải
có các yếu tố sau:
Thứ nhất, thiệt hại phải do bản thân nguồn nguy hiểm cao độ hoặc do hoạt
động nội tại của nguồn nguy hiểm gây ra. Là loại tài sản đặc biệt luôn tiềm ẩn
khả năng gây thiệt hại cho người xung quanh, nên người vận hành, quản lí phải
tuân thủ mọi quy định về an toàn.
Tuy nhiên, nhiều trường hợp hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ nằm
ngoài sự kiểm soát, ngăn chặn của con người. Do vậy, việc xác định này ý nghĩa
quan trọng khi xét trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Nếu do tác động của con
người, sẽ áp dụng nguyên tắc chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Ví dụ
như lái xe phóng nhanh, thả thú dữ tấn công người…những thiệt hại phát sinh từ
những hành vi của con người chứ không phải do tự thân nguồn nguy hiểm cao
độ gây thiệt hại. Với các trường hợp như: xe bị hỏng phanh, cây tự nhiên gẫy,

chập cháy hệ thống điện,…sẽ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn

4


nguy hiểm cao độ vì đó là những hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm mà con
người không thể hoặc khó có thể kiểm soát.
Thứ hai là nguồn nguy hiểm cao độ phải đang trong tình trạng vận hành,
hoạt động như: phương tiện giao thông vận tải cơ giới đang tham gia giao thông
trên đường; chập hệ thống điện trong nhà máy công nghiệp đang hoạt động…
Thứ ba là hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ có tính trái
pháp luật. Do vậy, các hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại mà
không trái pháp luật thì không phải bồi thường, ví dụ như dùng xe ủi phá dỡ các
công trình xây dựng trái phép,…
Bên cạnh đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra cũng loại trừ các trường hợp thiệt hại xảy ra do lỗi cố ý của người bị thiệt
hại hoặc do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết (Theo Điều 623 Bộ luật dân
sự). Nói tóm lại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra là trách nhiệm đối với sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy
hiểm cao độ chứ không phải thiệt hại do hành vi của con người.
2.2, Có thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Do tính chất nguy hiểm vốn có của nguồn nguy hiểm cao độ nên trong quá
trình vận hành có thể gây ra thiệt hại. Đó là những thiệt hại về tài sản, tính mạng,
sức khỏe của người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ, những người
xung quanh…Thiệt hại là tiền đề, là điều kiện bắt buộc phải có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng vì mục đích của trách nhiệm bồi thường là khôi
phục lại những tổn thất về tài sản, tinh thần như ban đầu.
Tuy nhiên không phải mọi chủ thể bị thiệt hại do nguồn nguy hiểm được
hưởng trách nhiệm bồi thường. Trách nhiệm này được đặt ra những người bị
thiệt hại không có quan hệ lao động hoặc sở hữu, chiếm hữu nguồn nguy hiểm

cao độ. Chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng tự chịu mọi thiệt hại xảy ra, còn

5


thiệt hại do quá trình lao động sẽ được bồi thường theo cách khác như bảo hiểm
tai nạn lao động.
Việc xác định thiệt hại và thời hạn hưởng bồi thường thiệt hại áp dụng các
quy định chung về bồi thường thiệt ngoài hợp đồng tại Điều 608 đến 612 Bộ luật
dân sự và chi tiết tại mục II Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP.
2.3, Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật
của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra
Điều kiện này đòi hỏi hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ là nguyên
nhân tất yếu, nguyên nhân có ý nghĩa quyết định dẫn đến thiệt hại và thiệt hại
xảy ra là kết quả của hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ.
Theo quan điểm của triết học, nguyên nhân và kết quả luôn có mối liên hệ
nối tiếp nhau, nguyên nhân là cái đi trước, là cái sinh ra kết quả; nhưng một kết
quả có thể lại do nhiều nguyên nhân sinh ra hoặc ngươc lại. Nếu không xác định
được mối quan hệ nhân quả, là không xác định nguyên nhân gây ra thiệt hại sẽ
dễ dẫn đến các sai lầm khi áp dụng trách nhiệm dân sự. Xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại, điều quan trọng là xác định thiệt hại đó do nguyên nhân nào gây
ra, các nguyên nhân đó xuất phát từ đâu,…khi tìm được mối quan hệ mới có thể
xác định trách nhiệm bồi thường.
2.4, Lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra.
Trong thực tế, có những thiệt hại phát sinh không phải do lỗi trực tiếp từ
con người mà là do các tài sản. Trong những trường hợp đó, rất khó xác định
chính xác để áp dụng và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại dân sự. Theo
khoản 3 Điều 623 Bộ luật dân sự quy định “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu
giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả

khi không có lỗi”.

6


Nếu như các trường hợp bồi thường thiệt hại thông thường dựa trên sự suy
đoán lỗi thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
dựa trên suy đoán trách nhiệm đối với người có nghĩa vụ quản lý nguồn nguy
hiểm cao độ, do lỗi không áp dụng cho tài sản là vật vô tri mà chỉ được xem xét
khi gắn với chủ thể nhất định.
Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của con người trong việc trông giữ,
bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ thì không áp dụng trách nhiệm này
mà sẽ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung. Trường hợp có một
phần lỗi của người quản lý, trông giữ,…nguồn nguy hiểm cao độ thì hành vi đó
không phải nguyên nhân quyết định dẫn đến thiệt hại.
Chủ sở hữu, người đang chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải chịu
trách nhiệm bồi thường kể cả chứng minh được là không có lỗi. Hoạt động của
nguồn nguy hiểm cao độ là nguyên nhân trực tiếp, dẫn đến thiệt hại. Hoạt động
này không có lỗi của con người như xe đang chạy bất ngờ nổ lốp, mất phanh,…
Xác định trách nhiệm bồi thường dựa trên lỗi nhiều trường hợp không bảo đảm
được quyền lợi chính đáng cho nạn nhân, việc chứng minh quyền, lợi ích bị xâm
phạm nhiều khi rất phức tạp và có thể còn có những bất lợi cho người bị thiệt
hại. Thực tế cho thấy nhiều tai nạn mang tính khách quan, ngoài sự chi phối,
điều khiển của con người như thiệt hại thực tế đã xảy ra nhưng không do lỗi của
ai cả vì do máy móc, cây cối, nhà cửa, gia súc… gây ra. Vì vậy, người bị thiệt
hại được bảo đảm bồi thường ngay cả trong trường hợp người gây thiệt hại
không có lỗi.
Như vậy, trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra chỉ cần xác định đúng sự kiện gây thiệt hại là nguyên nhân trực tiếp
làm tổn thất tài sản thực tế, giữa chúng có mối quan hệ nhân - quả, thì chủ sở

hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải là người chịu trách nhiệm bồi thường. Ngoài

7


ra, trách nhiệm bồi thường có thể bị loại trừ nếu xác định được thiệt hại xảy ra
hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại.
3. Xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra.
Căn cứ vào khoản 2 Điều 623 Bộ luật dân sự 2005 và Nghị quyết số
03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của
Bộ luật dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được áp dụng với các chủ thể
sau : chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ; người được chủ sở hữu giao chiếm
hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ; người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật
nguồn nguy hiểm cao độ.
Việc xác định ai trong số các chủ thể trên phải chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải căn cứ vào từng trường
hợp cụ thể, dựa trên nguyên tắc chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm
hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ kể cả khi không có lỗi.
Thứ nhất, chủ sở hữu trực tiếp chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao
độ. Theo đó, chủ sở hữu đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ là
đang thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, quản lý nguồn nguy
hiểm cao độ. Trong khi thực hiện quyền sở hữu, chủ sở hữu khai thác công dụng,
hưởng hoa lợi, lợi tức từ nguồn nguy hiểm cao độ nhưng không được gây tổn hại
tới lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Vì vậy, nếu
nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho người khác trong trường hợp chủ sở
hữu đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ thì trách nhiệm
bồi thường thiệt hại thuộc về chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ. Nếu người bị

thiệt hại là chính chủ sở hữu thì trách nhiệm bồi thường không phát sinh, nếu là
8


phương tiện giao thông thì sẽ áp dụng các quy định về bảo hiểm bắt buộc trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
Thứ hai, chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ chuyển giao nguồn nguy
hiểm cao độ cho người khác chiếm hữu, sử dụng theo ý chí của chủ sở hữu. Theo
Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, người được chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao chiếm
hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật phải bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Do vậy, phải xác định rõ
trong trường hợp cụ thể đó người được giao nguồn nguy hiểm cao độ có phải là
người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ hay không.
Trường hợp, chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ chuyển giao nguồn nguy
hiểm cao độ có mối quan hệ lao động, được xác lập qua tuyển dụng hoặc hợp
đồng lao động. Mặc dù người lao động là người đang thực tế chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ nhưng hoàn toàn dưới sự quản lý, điều hành của chủ sở
hữu nguồn nguy hiểm cao độ và vì lợi ích của chủ sở hữu nên phải coi đây giống
như trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đang trực tiếp chiếm hữu,
sử dụng, theo đó, chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm khi tài sản của mình gây thiệt
hại cho người khác.
Trường hợp, chủ sở hữu có thể chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ cho chủ thể khác thông qua giao dịch dân sự, hợp đồng:
mượn, thuê, cầm cố, gửi giữ… Nếu bai bên đã xác định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại trong hợp đồng thì căn cứ vào sự thỏa thuận đó. Trong trường hợp các
bên không có thỏa thuận thì áp dụng pháp luật, theo đó bên mượn, thuê, nhận
cầm cố, nhận gửi giữ,…là những người chiếm hữu, sử dụng tài sản có căn cứ
pháp luật, vì vậy trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại khi đang
thuộc quyền chiếm hữu, quản lý của họ, họ bị coi là có lỗi trong nghĩa vụ quản

lý, sử dụng và phải chịu trách nhiệm bồi thường. Tài sản trong trường hợp này
9


đã nằm ngoài sự quản lý, kiểm soát của chủ sở hữu nên họ sẽ không phải bồi
thường, tuy nhiên nếu người chiếm hữu, sử dụng không có lỗi mà thiệt hại do
chính tài sản gây ra mà người sử dụng không thể biết như tường đổ, nhà sập,…
thì chủ sở hữu phải bồi thường.
Trường hợp chủ sở hữu chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ có lỗi như biết người mượn không có bằng lái xe mà vẫn cho
mượn thì chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại. Ngoài ra, tại mục III.2.b Nghị
quyết số 03/2006/NQ-HĐTP, chủ sở hữu và người được giao chiếm hữu, sử
dụng có thể thực hiện thỏa thuận không trái pháp luật để việc thực hiện trách
nhiệm bồi thường được nhanh chóng, kịp thời như thỏa thuận cùng nhau liên đới
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, ưu tiên người có điều kiện kinh tế bồi
thường trước,…
Thứ ba, trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái
pháp luật, theo mục III.2.d Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP, có hai khả năng
như sau:
Chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao không có
lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật
thì người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Chủ sở hữu, người chiếm
hữu nguồn nguy hiểm cao độ không phải trách nhiệm bồi thường vì đã tuân thủ
các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao
độ theo đúng các quy định của pháp luật, việc gây thiệt hại nằm ngoài ý chí, khả
năng kiểm soát của họ.
Trường hợp chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy
hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử
dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường cùng người chiếm hữu, sử dụng

trái pháp luật.
10


III. Thực tiễn giải quyết tranh chấp về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ.
Theo quy định của Bộ luật dân sự, mọi công dân đều có quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, tính mạng, sức khỏe, quyền sở hữu hợp pháp của công
dân được pháp luật thừa nhận. Theo đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng được quy định từ Điều 604 đến Điều 630 của BLDS là căn cứ để người
bị thiệt hại khôi phục lại quyền và lợi ích đã bị xâm hại. Tuy nhiên, trong quá
trình áp dụng quy định pháp luật giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra gặp phải khó khăn, bất cập nhất định, dưới đây
là một số vụ án xảy ra trên thực tiễn, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp, phương
hướng hoàn thiện hơn khi áp dụng pháp luật.
Vụ việc thứ nhất: Tại quận 5, TP.HCM, khoảng 20 giờ 30 tối 31-8, Duy
cùng hai bạn học đi xe đạp về đến ngã tư Trần Hưng Đạo-Nguyễn Biểu thì trời
mưa lớn. Đường ngập, lại bị cái “lô cốt” to đùng án ngữ giữa đường nên Duy rủ
bạn đi lên vỉa hè. Vừa đưa xe lên vỉa hè, bất ngờ một luồng điện từ trụ đèn
đường phóng thẳng vào người làm Duy ngã xuống. Thấy em gặp nguy hiểm, hai
bạn học vội nhảy đến kéo em ra cũng bị điện giật, phải kêu cứu.
Những người dân gần đó lập tức chạy đến, kịp đẩy hai bạn học của Duy ra
rồi gọi điện thoại báo cơ quan chức năng. Công an phường 2 (quận 5) và lực
lượng cấp cứu nhanh chóng có mặt nhưng không ai dám đến gần em Duy. Mãi
30 phút sau, nhân viên của Công ty Điện lực Chợ Lớn, Công ty Chiếu sáng công
cộng TP.HCM mới xuống hiện trường cắt điện. Em Duy đã chết tại chỗ, còn hai
bạn học của em bị chấn thương, sau khi cấp cứu đã tỉnh lại.
Ngay trong đêm, các cơ quan chức năng gồm Công an quận 5, Công ty
Chiếu sáng công cộng TP.HCM và Công ty Điện lực TP.HCM đã khảo sát hiện
11



trường. Tại ngã tư nơi xảy ra sự cố có trụ điện chiếu sáng công cộng số 86 thuộc
xí nghiệp Chiếu sáng 2 (Công ty Chiếu sáng công cộng TP.HCM), một cột đèn
tín hiệu giao thông và một trụ điện thuộc Công ty Điện lực Chợ Lớn. Thực
nghiệm hiện trường cho thấy luồng điện 240 V phát ra từ cột đèn chiếu sáng
công cộng số 86 do hở mạch điện.
Trước cái chết thương tâm của em Duy, gia đình cho biết sẽ gửi đơn đến
cơ quan công an đề nghị khởi tố vụ án.
Trong vụ việc trên, đầu tiên xác định cột đèn chiếu sáng công cộng là hệ
thống tải điện, theo khoản 1 Điều 623: “Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm
phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện,…các nguồn nguy hiểm
cao độ khác do pháp luật quy định.”, do vậy đây là một nguồn nguy hiểm cao
độ. Hệ thống tải điện – đèn chiếu sáng trong quá trình vận hành luôn tiềm ẩn mối
nguy hiểm có thể gây thiệt hại, mà trong vụ việc trên đã xảy ra thiệt hại về tính
mạng của em Duy và tổn hại về sức khỏe, tinh thần của hai bạn học. Do đó, phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ.”
Theo khoản 2 Điều 623 BLDS: “Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ
phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã
giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường,
trừ trường hợp có thoả thuận khác.”. Như vậy, công ty Chiếu sáng công cộng
TP.HCM là bên được được nhà nước giao trực tiếp quản lý nguồn nguy hiểm cao
độ phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Theo giải thích của công ty trên do các mối nối dây điện được quấn bằng
băng keo cách điện nhưng vì trụ đèn bị ngâm nước quá lâu nên băng keo không
còn tác dụng cách điện nên cho rằng đây là yếu tố khách quan không lường trước
được. Cách giải thích này là không hợp lí, theo khoản 1 Điều 623: “Chủ sở hữu
nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận
chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp
12



luật.”, việc trời mưa không phải sự kiện bất khả kháng ngoài sự kiểm soát của
con người. Công ty Chiếu sáng công cộng đã không đảm bảo các biện pháp an
toàn như có thiết bị ngăn, chống nước thấm nước, tiếp đất,…không duy tu, kiểm
tra, bảo trì thiết bị.
Mà theo quy định tại khoản 3 Điều 623 và Nghị quyết số 03/2006/NQHĐTP: “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi…”. Do vậy,
Công ty Chiếu sáng công cộng TP.HCM phải bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ cho gia đình em Duy và hai người bạn em do bị điện giật.
Vụ việc thứ hai: Vào lúc 15 giờ 30 ngày 21/9, tại điểm rửa xe số 388
Trưng Nữ Vương (phường Hòa Thuận Đông, Hải Châu, Đà Nẵng) đã xảy ra một
vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng khiến một phụ nữ đi đường bị thương nặng.
Một số người dân chứng kiến vụ tai nạn cho biết, khoảng thời gian trên
sau khi rửa xong xe ôtô CIVIC biển số 43S-5280, người rửa xe là Đặng Duy
Cảnh (20 tuổi, trú tại thị xã An Khê, Gia Lai) lùi xe ra ngoài đường để trả cho
khách thì bất ngờ vọt qua bên kia đường đụng vào một phụ nữ đang đi xe máy
biển số 43T1-9480.
Vì lùi với tốc độ nhanh nên đuôi xe đẩy luôn xe máy và người phụ nữ qua
bên kia đường, đụng gãy cột điện mới chịu dừng lại. Người phụ nữ (chưa rõ
danh tính) bị thương nặng phải đi cấp cứu tại bệnh viện, chiếc xe máy nằm dưới
gầm xe ôtô và bị hư hỏng nặng, riêng phần đuôi ôtô bị hư hại nặng.
Theo tường trình của “tài xế” bất đắc dĩ này với cơ quan chức năng thì: Do
chưa có bằng lái xe, lại mới biết lái sơ sơ nên chưa làm chủ được tốc độ, nên khi
lui xe ra đường thay vì đạp chân ga từ từ cho xe lùi ra thì lại đạp mạnh khiến xe
lao nhanh ra đường. Trong lúc luống cuống, thay vì phải đạp chân thắng thì lại
cứ đạp chân ga vì thế xe càng lùi nhanh hơn và đụng vào người đi đường.
13



Hiện vụ việc đang được lực lượng cảnh sát giao thông Công an quận Hải
Châu tiếp tục điều tra.
Theo Điều 623 khoản 1 Bộ luật dân sự : “Nguồn nguy hiểm cao độ bao
gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện,…và các nguồn
nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.” Và trong Luật Giao thông đường
bộ tại điểm 13 Điều 3 có quy định: “ Phương tiện giao thông vận tải cơ giới
đường bộ bao gồm: xe ô tô, máy kéo, xe mô tô hai bánh, ba bánh, xe gắn máy,
…”. Do vậy có thể xác định chiếc ô tô trong vụ việc trên là một nguồn nguy
hiểm cao độ.
Theo quy định tại khoản 2, Điều 623 - BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra: “…nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác
chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có
thoả thuận khác.”
Trong trường hợp trên người rửa xe là anh Cảnh đã được chủ sở hữu của
chiếc xe máy giao quyền chiếm hữu, sử dụng qua một giao dịch dân sự. Theo
quy định tại khoản 2 Điều 623 Bộ luật dân sự và Nghị quyết số 03 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao mục III.2, anh Cảnh phải chịu trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ. Ngoài ra, còn phải bồi thường
việc sửa chữa chiếc xe cho chủ sở hữu. Tuy nhiên, nếu xác định được chủ sở hữu
xe biết anh Cảnh không có bằng lái xe mà vẫn giao quyền chiếm hữu, sử dụng
thì chủ sở hữu phải bồi thường.
Mức bồi thường sẽ được các bên tự thỏa thuận, nếu không thành bên thiệt
hại có thể khởi kiện ra tòa. Mức bồi thường căn cứ vào xem thiệt hại bao gồm
những khoản nào và thiệt hại đã xảy ra là bao nhiêu, mức độ lỗi của các bên;
đảm bảo bồi thường kịp thời và toàn bộ. Nếu thiệt hại nghiêm trọng có thể phải
chịu trách nhiệm hình sự về an toàn, trật tự công cộng.

14



IV. Một số nhận xét, kiến nghị hoàn thiện và bổ sung các quy định pháp luật
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Trách nhiệm nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra là trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng phát sinh khi có sự kiện gây thiệt hại
trái pháp luật của tài sản. Chế định này có ý nghĩa quan trọng giúp bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của chủ thể có quyền lợi bị xâm hại. Thứ hai, nó có tác dụng
nhằm phòng ngừa đối với những người có hành vi gây thiệt hại, nâng cao ý thức
trách nhiệm của chủ sở hữu, người quản lý tài sản. Chủ sở hữu, người quản lý tài
sản có nghĩa vụ trông coi, quản lý, không để tài sản của mình gây thiệt hại cho
người khác, nếu không sẽ phải gánh chịu hậu quả bất lợi.
Thứ nhất, về nguồn nguy hiểm cao độ trong các văn bản quy phạm pháp
luật hiện hành, chưa có khái niệm chung về nguồn nguy hiểm cao độ mà chỉ xác
định những đối tượng nào được coi là nguồn nguy hiểm cao độ, cụ thể được liệt
kê trong Khoản 1 Điều 623 nhưng cũng không rõ ràng. Ví dụ: phương tiện vận
tải cơ giới có đều là nguồn nguy hiểm cao độ không, xe máy có dung tích xi lanh
<50cm3 thì người điều khiển không bắt buộc phải có giấy phép lái xe, một số xe
vừa chạy bằng động cơ vừa có thể đạp,…; về thú dữ cần có một tiêu chí rõ ràng
về phân biệt một động vật khi nào là súc vật khi nào là nguồn nguy hiểm cao độ;
về vũ khí: các loại vũ khí đơn giản như dao, gậy,…được dùng như đồ dùng sinh
hoạt hàng ngày, cần có quy định hướng dẫn cụ thể để phân biệt. Quy định các
nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định nhiều lúc gây khó khăn cho
tòa án trong xác định, ví dụ các loại thuốc tân dược có phải là nguồn nguy hiểm
không. Do đó, cần một định nghĩa khái quát như những vật trong tự nhiên hay
hoạt động của máy móc phương tiện khoa học kĩ thuật…mà hoạt động sản xuất,
vận chuyển, quản lí…có tiềm năng gây ra thiệt hại cho những người xung quanh
mà con nguời không thể kiểm soát được tuyệt đối.

15



Thứ hai về xác định chủ thể chịu trách nhiệm, cần có quy định hướng dẫn
cụ thể hơn khi chủ sở hữu đã chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người
khác chiếm hữu, sử dụng trong quan hệ lao động, giao dịch dân sự, trường hợp
nguồn nguy hiểm cao độ được chuyển qua hợp đồng mua bán nhưng chưa hoàn
tất thủ tục qui định của pháp luật. Trách nhiệm bồi thường khi đó là cơ quan Nhà
nước chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ của cá nhân, tố chức khác.
Ngoài ra, quy định về mức bồi thường thiệt hại cũng chưa hợp lý, ví dụ
trường hợp tính mạng bị xâm phạm, theo đó người gây thiệt hại ngoài việc phải
bồi thường thiệt hại về vật chất còn phải bồi thường một khoản tiền tối đa không
quá sáu mươi 60 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định để bù đắp tổn thất
về tinh thần cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của nạn nhân. Quy
định trên là chưa hợp lý, quá thấp so với thực tế, nên để cho các bên đương sự tự
thỏa thuận mức bồi thường, pháp luật chỉ nên quy định mức sàn làm cơ sở cho
Tòa án. Như vậy, người bị thiệt hại có thể được đền bù thỏa đáng những quyền
và lợi ích mà mình bị xâm hại.
IV. Kết luận
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có ý
nghĩa quan trọng trong lý luận lẫn thực tiễn xét xử hướng tới khắc phục nhanh
chóng các tổn thất, nâng cao ý thức chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ, duy trì
và phát triển trật tự xã hội một cách bền vững. Nghiên cứu, tìm hiểu nhằm hoàn
thiện và bổ sung các quy định pháp luật liên quan đến trách nhiệm dân sự trong
bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra để điều chỉnh một cách
đầy đủ, chặt chẽ và hợp lý những quan hệ phát sinh nếu có là rất cần thiết.

16


Tài liệu tham khảo
1, Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập 2, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2009.

2, Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập 2, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội, 2009.
3, Bộ luật dân sự năm 2005.
4, Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ
HĐTP ngày 8/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự
năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
5, />6, />
17



×