Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Quá trình hình thành nhà nước-pháp luật thời kỳ cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.23 KB, 13 trang )

1 , Quá trình hình thành nhà nước-pháp luật thời kỳ cổ đại
A, Quá trình hình thành Nhà nước
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc nhà nước.
Theo thuyết Thần học, cho rằng nhà nươc là do thượng đế sinh ra để quản lý xã hội, quyền lực nhà nước là
vĩnh cửu và vô tận nên việc phục tùng quyền lực ấy là cần thiết và tất yếu.
Theo thuyết khế ước xã hội, nhà nước là một sản phẩm của một bản hợp đồng(khế ước) giữa những con
người sống trong trạng thái tự nhiên không có nhà nước. Khi đó, nhà nước phải phục tùng xã hội, phục vụ
mọi thành viên của xã hội. Khi nhà nước không thực hiện được chức năng của nó, các thành viên trong xã
hội sẽ huỷ bỏ khế ước cũ lập ra một khế ước mới, một nhà nước tiến bộ hơn sẽ ra đời.
Ngoài ra còn có thuyết gia trưởng, thuyết tâm lý, thuyết bạo lực...
Theo học thuyết của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhà nước ra đời trên cơ sở của sự tan rã chế độ công xã nguyên
thuỷ. Có hai nguyên nhân dẫn đến sự tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ, đó là sự xuất hiện chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất (nguyên nhân kinh tế) và sự mâu thuẫn giữa hai giai cấp đối kháng trong xã hôị, mâu
thuẫn này ngày càng trở nên gay gắt đến mức không thể điều hoà được nữa (nguyên nhân xã hội).
Chế độ công xã nguyên thuỷ, thị tộc, bộ lạc, bào tộc là cách thức tổ chức đầu tiên của loài người trong buổi
bình minh. Trong chế độ công xã nguyên thuỷ, mọi người đều bình đẳng như nhau trong lao động và hưởng
thụ, trong quyền lợi và nghĩa vụ. Khi lực lượng sản xuất phát triển dẫn đến năng suất lao động ngày càng
tăng lên, đặc biệt khi có công cụ lao động bằng kim loại xuất hiện cùng với những kinh nghiệm đã tích luỹ
được đã tạo nên bước phát triển nhảy vọt trong trồng trọt và nghề thủ công. Dẫn đến sự phân công lao động
lần thứ nhất, trồng trọt tách khỏi chăn nuôi. Sau đó, các nghề thủ công cũng phát triển mạnh tạo ra sự phân
công lao động lầ thứ hai : thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp. Sau hai lần phân công lao động, xã hội đã
có sự phân tầng. Sự chuyên môn hoá của các ngành sản xuất đã làm cho nhu cầu trao đổi hàng hoá giữa các
bộ phận dân cư ngày một tăng cao. Điều này dẫn đến sự phân công lao động lần thứ ba, giao lưu hàng hoá
tăng nhanh và thương nghiệp xuất hiện. Sau lần phân công lao động thứ ba này, xã hội đã bị phân hoá một
cách sâu sắc. Do sự phân công lao động nên các ngành kinh tế phát triển mạnh, làm cho sản phẩm lao động
ngày càng nhiều lên dẫn đến dư thừa. Lúc này trong xã hội đã xuất hiện một số người có quyền lực công
nhiên đi chiếm đoạt phần sản phẩm dư thừa đó và biến nó thành của riêng. Chế độ tư hữu về tài sản dần dần
xuất hiện. Những người này dần dần trở thành những người chuyên đi bóc lột còn bộ phận đông dân cư trở
thành những người bị bóc lột cả về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Chế độ tư hữu ngày càng được
củng cố và phát triển tất yếu dẫn đến việc hình thành các tập đoàn người trong xã hội có địa vị kinh tế khác
hẳnh nhau đó là tập đoàn những người giàu có (chủ nô), tập đoàn nông dân-thợ thủ công với chút ít tài sản


(bình dân) và tập đoàn thứ ba là tù binh chiến tranh và nô lệ (nô lệ).
Mâu thuẫn giữa giai cấp bóc lột và bị bóc lột ngày càng trở nên gay gắt, làm cho chế độ công xã nguyên
thuỷ trước đây với thị tộc, bộ lạc không thể kiểm soát, quản lý xã hội được nữa, mà cần một tổ chuác mới ra
đời, đó chính là nhà nước.Nhà nước ra đời, đó là sự thay đổi hẳn về lượng. Đó là một bộ máy bạo lức, gồm
có quân đội, cảnh sát, nhà tù...để đàn áp những người lao động.
B. Quá trình hình thành pháp luật
Pháp luật ra đời cùng với sự xuất hiện của nhà nước, đó là một điều tất yếu khách quan. Xét về phương diện
chủ quan, pháp luật do nhà nước đề ra và đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh của mình, trở thành một công
cụ có hiệu quả nhất để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội, nó quản lý xã hội theo mục đích của
nhà nước cũng tức là mục đích của giai cấp thống trị.
Trước khi pháp luật xuất hiện, tổ chức thị tộc, bộ lạc quản lý xã hội bằng những phong tục tập quán với bản
chất của nó là nguyên tắc bình đẳng giữa các thành viên trong xã hội. Khi nhà nước xuất hiện cùng với việc
các quan hệ trong xã hội phát triển vượt bậc cả về bề rộng và chiều sâu, các phong tục tập quán này không
còn có thể điều chỉnh được nữa mà cần một loại quy phạm xã hội mới đó chính là pháp luật.
Pháp luật được hình thành bằng nhiều cách với những hình thức khác nhau.
• Con đường thứ nhất là “luật pháp hoá”, “nhà nước hoá”. Nhà nước thừa nhận và nâng lên những tập quán
có lợi cho mình. Đó là “ tập quán pháp”. Có tập quán được nhà nước chính thức thừa nhận và đưa vào nội
dung bột luật, nhưng cũng cõ những tập quán được nhà nước mặc niên thừa nhận. Như vậy có tập quán pháp
thành văn và tập quán pháp không thành văn. Điển hình là ở các nước phương Đông như ấn Độ, Trung
Quốc, Việt Nam...
• Con đường thứ hai là do nhà nước ban hành mới. Do nhu cầu điều chỉnh những quan hệ ngày càng phức
tạp, phong phú, sâu và rộng mà tập quán pháp không thể điều chỉnh được hết. Pháp luật được tồn tại dưới


dạng thành văn và bất thành văn. Pháp luật thành văn ra đời ngay từ khi xuất hiện chữ viết.VD như luật 12
bảng của La Mã cổ đại, bột luật Hammurabi của Lưỡng Hà cổ đại....
2, Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, hình thức chính thể nhà nước Trung Quốc , Hy lạp La mã cổ đại.
A,Trung quốc cổ đại
Bộ máy nhà nươc Trung Quốc được xác lập và hoàn thiện từng bước. Thời Hạ-Thương : bộ máy nhà nước
còn đơn giản, mang đậm tàn dư của thị tộc. Thời Tây Chu, bộ máy nhà nước được hoàn thiện về quy mô và

cơ cấu tổ chức, tàn dư công xã thị tộc phai nhạt dần. Sang thời Xuân Thu-Chiến Quốc, tổ chức bộ máy nhà
nước của các nước đã kế thừa và phát triển tổ chức của nhà Tây Chu..
Tổ chức bộ máy nhà nước :
- Đứng đầu nhà nước là Vua (còn gọi là Đế, Vương, Thiên Tử) : có quyền hành rất lớn về mọi mặt, có quyền
lực vô tận, quyết định các công việc trọng đại của đất nước. Ý chí và lời nói của Vua đều gọi là pháp luật,
Vua còn tự thần thánh hoá bản thân.
- Bộ máy quan lại ở TƯ :
• Hạ-Thương : mới chỉ có một số chức vụ quản lý các công việc như quản lý chăn nuôi, quản lý xe,..dưới
Vua có chức quan Vu có quyền hành lớn nhất, giúp vua quản lý công việc triều đình,
• Tây Chu : bộ máy quan lại triều đình đi vào quy củ. vua thiết lập Tam Công gồm ba chức quan lớn theo
thứ tự cao thấp : Thái sư, Thái phó, Thái bảo. Về sau, bỏ Tam công và lập ra 6 chức quan cao cấp (lục
khanh) là Thái Tể, Tư Đồ, Tòng Bá, Tư Mã, Tư Khấu, Tư Không. Song song có thái sử liêu gồm: Tả sử,
Hữu sử
• Chiến Quốc : xuất hiện chức quan cao cấp nhất trong bộ máy quan lại, tuỳ nước có các tên gọi khác nhau
như Lệnh doãn, Tướng quốc, Thừa tướng..Sau này nhà Tần gọi Thừa tướng là Tể tướng.
- Bộ máy quan lại địa phương:
• Cấp hành chính : thời Hạ-Thương, viên quan đứng đầu thường là tù trưởng bộ lạc trứoc đó hay con cháu
của của họ. Thời Tây Chu, do chính sách phân phong nên thêm một cấp địa phương là các nước chư hầu.
Thời Xuân Thu-Chiến Quốc, do chiến tranh liên miên nên các nước chư hầu trở thành quốc gia độc lập với
nhà Chu vì thế bộ máy chính quyền địa phương chủ hầu trở thành bộ máy chính quyền TƯ của một nước.
• Cấp cơ sở : Thời Hạ-Thương, đơn vị hành chính cấp cơ sở là công xã nông thôn do tộc trưởng đứng đầu,
do công xã bầu ra. Thời Tây Chu, thôn trưởng vẫn do công xã bầu ra nhưng phải được chính quyền cấp trên
phê duyệt. Thời Xuân Thu-Chiến Quốc : có những thay đổi quan trọng tuỳ từng nước.
• Quân đội : rất chú trọng xây dựng. Ngoài quân đội của TƯ, địa phương, các nước chư hầu cũng có lực
lượng vũ trang riêng.
Tuy TQ cổ đại bị chia thành nhiều nước nhưng các nhà nước đó đều là nhà nước quân chủ chuyên chế dựa
trên cơ sở kinh tế, chính trị-xã hội:
• Kinh tế : hầu hết ruộng đất đều thuộc sở hữu của nhà vua, công xã nông thôn tồn tại bền vững và được
quyền sở hữu thực tế ruộng đất của vua.
• Chính trị-xã hội : hệ thống quan lại được hình thành, củng cố theo chế độ tông pháp và chế độ cha truyền

con nối. Hầu hết các chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước đều do họ hàng nhà Vua nắm giữ, phẩm
tước cao hay thấp phụ thuộc quan hệ gần hay xa. Do đó, đây là chế độ quan chủ chuyên chế quý tộc (chủ
nô).
B , Nhà nước Hy Lạp - La mã cổ đại
+ Tổ chức bộ máy nhà nước cộng hoà quý tộc chủ nô Spac
- Đứng đầu là Hai Vua (tàn dư của chế độ công xã thị tộc-đứng đầu là hai thủ lĩnh), là thành viên trong hội
đồng trưởng lão, vừa là thủ lĩnh QS, vừa là tăng lữ tối cao, vừa là người xử án.
Tuy nhiêm, khác với những ông vua chuyên chính của phương Đông, quyền lực Hai vua không lớn lắm.
- Hội đồng trưởng lão gồm 28 vị trưởng lão và hai vua. Trưởng lão là người có đọ tuổi từ 60 tuổi trở lên
được chọn từ đội ngũ những quý tộc danh vọng, có vai trò quan trọng trong bộ máy NN, có quyền quyết
định
những
vấn
đề
liên
quan
đến
vận
mệnh
đất
nước.
- Hội nghị công dân, về hình thúc là CQ quyền lực cao nhất, mọi người Spac trên 30 tuổi đều có thể tham
gia hội nghị công dân. Mọi người thông qua hay phản đối những vấn đề trong hội nghị bằng những tiếng
thét chứ không được thảo luạn gì. Khi biểu quyết những vấn đề quan trọng những người dự hội nghị chia
thành hai hàng, qua đó biết được tỷ lệ số người đồng ý hay phản đối. Tuy nhiên, hội nghị công dân thường


chỉ mang tính hình thức vì dễ xảy ra tiêu cực lại không được họp thường xuyên mà phải tuỳ theo quyết định
của Hai Vua.
- Về sau, do mâu thuẫn giữa hội đồng trưởng lão và hội nghị công dân ngày một gay gắt nên một CQ có

quyền hạn rất lớn được thành lập đó là Hội đồng 5 quan giám sát-là đại biểu của tập đoàn quý tộc bảo thủ
nhất, có quyền hành rất lớn như giám sát vua, giám sát hội đòng trưởng lão...Thực chất, nó là CQ lãnh đạo
tối cao xủa NN nhằm tập trung quyền lực vào tay tầng lớp quý tộc chủ nô.
- NN Spac đặc biệt chú trọng quân đôị. Lục quân Spac là đội quân thiện chiến. Mọi ngưòi trong toàn đất
nước đều chú ý phát triển quân đội, các bé trai được huấn luyện từ năm 7 tuổi để trở thành chiến sĩ dũng
cảm, nhanh nhẹn..đến năm 20 tuổi được mặc quân phục và đến năm 60 tuổi mới được cởi bỏ bộ quần áo
lính.
Trong quá trình phát triển của lịch sử Hy Lạp cổ đại, NN Spac là dinh luỹ của thế lực chủ nô phản động
nhất, chống lại những thành bang theo chính thể CH dân chủ chủ nô. Quyền lực NN tập trung tối đa vào tay
tập đoành quý tộc chủ nô và quyền dân chủ của những người tự do bị hạn chế tới mức tối thiểu. Bởi vậy, NN
Spac là NN CH quý tộc chủ nô điển hình nhất.
+ Tổ chức bộ máy nhà nước Aten
- Hội nghị công dân: Tính chất cộng hoà của nhà nước này thể hiện rõ nhất ở tổ chức và hoạt động của cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất là Hội nghị công dân.
Về tổ chức, thành phần của hội nghị công dân theo qui định của luật năm 451 TCN, những công dân được
tham gia Hội nghị này phải là những công dân tự do Aten, là nam giới, đủ 18 tuổi trở lên, có cả cha mẹ là
người Aten.
Về thẩm quyền, Hội nghị công dân có quyền quyết định những vấn đề lớn của đất nước như vấn đề chiến
tranh, hoà bình; vấn đề xây dựng hay thông qua các đạo luật; giám sát các cơ quan nhà nước khác. Ngoài ra
Hội nghị công dân còn có quyền bầu ra các quan chức nhà nước, xét duyệt công việc quan trọng của Toà án,
có quyền cung cấp lương thực cho thành phố.
- Hội đồng 500 người: Được thành lập bởi Hội nghị công dân bằng hình thức bỏ phiếu. Cơ quan này giữ
chức năng hành chính, tư vấn. Sau cải cách Clixten thì đây còn là cơ quan đại diện cho nhà nước về đối
ngoại, có quyền quản lí về tài chính.
- Hội đồng 10 tướng lĩnh: Cơ quan này cũng được bầu trong hội nghị công dân. Về chức năng, đây là cơ
quan lãnh đạo quân đội, thực hiện chính sách đối ngoại nhưng chịu sự kiểm sát của Hội nghị công dân,
nhưng không được hưởng lương.
-Toà bồi thẩm: Là cơ quan xét xử và giám sát tư pháp cao nhất của nhà nước. Thành phần tham dự toà bồi
thẩm rất đông. Dưới thời Pêriclét, có tới 6000 thẩm phán, họ được bầu hàng năm ở Hội nghi công dân bằng
hình thức bỏ phiếu. Nhà nước Aten không có Viện công tố, mọi người dân có thể phát đơn kiện - tức là tự

khởi tố hoặc là tự bào chữa cho mình. Trong phiên toà sau khi đã nghe hai bên đối chất toà họp kín để quyết
định bản án.
+ Tổ chức bộ máy NN La Mã (chính thể CH quý tộc sau đó chuyển sang chính thể quân chủ chuyên chế chủ
nô)
Cơ cấu nhà nước La Mã được hình thành trong mấy thế kỷ, đến TK 3 TCN mới được hoàn chỉnh.
Chính thể CH quý tộc ở La Mã có những đặc điểm là ở TƯ các cơ quan chuyên chính gồm : Nghị viện (viện
nguyên lão), Đại hội nhân dân và các cơ quan chấp chính.Nó thể hiện sâu sắc tính chất quý tộc của nhà nước
La Mã. Đó là chính thể CH quý tộc.
Nghị viện (viện nguyên lão) gồm 300 người và chỉ những người giàu có mới được bầu vào nghị viện. Nghị
viện là chính phủ, là cơ quan hành chính cấp cao nhất. Mặc dù không có quyền lập pháp nhưng nghị viện có
quyền soạn thảo tất cả các dự thảo luật và nếu như nghị viện không đông ý thì đại hội nhân dân không thể
thông qua được luật hoặc bầu ra những quan chấp chính.
Đại hội công dân gồm có đại hội xăng-tu-ri và đại hội nhân dân.
Đại hội xăng-tu-ri là đại hội theo đơn vị quân đội của các đẳng cấp, có quyền hàn lớn, giải quyết các vấn đề
về chiến tranh, hoà bình, bầu ra các quan chức cao cấp của NN.
Đại hội nhân dân là cơ quan lập pháp, mọi công dân đều có quyền tham gia đại hội để giải quyết các vấn đề
như những vấn đề liên quan đến lãnh thổ, các vấn đề liên quan tới hôn nhân, gia đình, thừa kế và việc thực
hiện các nghi lễ tôn giáo.


Đại hội nhân dân là đại hội chỉ mang tính hình thức, các chức vụ đều không có lương và phải bỏ nhiều tiền
để chiêu đãi, vì vậy, người nghèo khồn có điều kiện vào những chức vụ trong bộ máy nhà nước.
Cơ quan chấp hành và điều hành những công việc hằng ngày là các cơ quan chấp chính do đại hội nhân dân
bầu ra.
Cùng với những thay đổi trong xã hội chiếm hữu nô lệ, các nhà nước chiếm hữu nô lệ có chính thể cộng hoà
từng bước chuyển dần sang chính thể quân chủ. Quyền lực nhà nước chủ yếu tập trung vào tay các vua
(hoàng đế), được truyền từ đời này sang đời khác theo nguyên tắc cha truyền con nối để bảo vệ lợi ích cho
một số những chủ nô giàu có trong xã hội.
Nền cộng hoà quý tộc chủ nô bị xoá bỏ vĩnh viễn khi Oc-ta-vit lên nắm quyền, là viên tướng nắm quyền chỉ
huy tối cao quân đội với danh hiệu hoàng đế, có toàn quyền quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước,

hầu hết những cơ quan nhà nước của chính thể cộng hoà bị giải tán. Chính thể quân chủ chuyên chế vừa là
sản phẩm của thời kỳ suy vong và sụp đổ của chế độ chiếm hữu nô lệ, vừa là công cụ thống trị của giai cấp
chủ nô của đế quốc La Mã. Đến TK 5, đế quốc La Mã bị phong kiến hoá.
La Mã xây dựng bộ máy nhà nước theo chính thể cộng hoà quý tộc đã bắt đầu có sựu phân chia và giám sát
quyền lực. Thiết chế chính trị của La Mã đã đặt nền móng cho chiều hướng phát triển của nền văn minh cận
hiện đại của châu Âu.
3, Cơ cấu tổ chức bộ máy NN phong kiến Trung Quốc qua các triều đại.
1. Nhà Tần (221-206 TCN)
Cửu Khanh gồm 9 viên quan phụ trách các công việc khác nhau : Đình uý coi việc hình, Thiếu phủ coi việc
thuế khoá, Lang trung lệnh cai quản quân túc vệ nhà vua, Vệ uý trông coi cung điện...
Hoàng Đế có quyền lực tối cao. Mọi công việc quan trọng của nhà nước đề do các đại thần thảo luận nhưng
Hoàng Đế là người quyết định cuối cùng, mệnh lệnh của Hoàng Đế phải được chấp hành tuyệt đối.
Dưới quận là huyện, đứng đầu là huyện lệnh. Dưới huyện là xã, đứng đầu là xã trưởng. Các quan đứng đầu
Quận, Huyện đều do TƯ bổ nhiệm.
Bộ máy nhà nước dưới triều Tần được tổ chức một cách quy củ, chặt chẽ, là sự phát triển cả về lượng và
chất. Đây là cuộc cải cách bộ máy nhà nước lần đầu tiên ở Trung Quốc, đặt nền móng cho các triều đại tiếp
theo.
2. Nhà Đường (618-907)
Triều đại cực thịnh trong lịch sử phong kiến Trung Quốc,lừng lẫy hơn cả thời nhà Hán, tổ chúc HC-QS rất
chặt chẽ, quân đội cơ động và linh hoạt, hậu cần giỏi, hoạt động bành trướng và ngoại giao rộng lớn
3. Nhà Minh (1368-1644)
Năm 1368, Chu Nguyên Chương lãnh đạo phong troà nông dân nổi dậy, lên ngôi Hoàng Đế, lập ra nhà
Minh.
Năm 1376, nhà Minh tiến hành một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy nhà nước, làm cho cơ chế thực
hiện quyền lực quân chủ phát triển tới mức chuyên chế cực đoan.
Mọi quyền lực tập trung trong tay Hoàng Đế, chức thừa tướng bị bãi bỏ, từng bộ của lục bộ phải chịu trách
nhiệm trực tiếp dưới nhà vua. Ngoài ra còn có các cơ quan khác như Hàn lâm viện, quốc tử giám, tư thiên
giám...
Quân đội : đặt ra ngũ quân đô đốc phủ (trung, tả, hữu, tiền, hậu). Khi có chiến tranh, Hoàng Đế cử tướng
soái chỉ huy quân đội, khi kết thúc họ trả ấn tín cho nhiệm sở. Bằng cách đó, xây dựng được một hàng ngũ

võ quan có tài và vua trực tiếp nắm chắc được quân đội.
Nguyên tắc :
- Bỏ bớt khâu trung gian, Hoàng Đế trực tiếp chỉ huy các chức quan quan trọng.
- Quyền hành không tập trung vào một quan chức mà được tản ra nhiều cơ quan khác nhau như Lục bộ, Tam
ti.
4, Trạng thái phân quyền cát cứ của nhà nước phong kiến Tây Âu
Thời kỳ phát triển của chế độ phong kiến :
- Hình thành và củng cố : TK 2 đến trước năm 843
- Phát triển : sau năm 843 đến TK15
- Khủng hoảng, suy vong : TK 15 đến TK 17
Quan hệ PK được thể hiện :
- Quan hệ bóc lột bằng địa tô được thể hiện rõ nhất, đặc trưng của chế độ phong kiến


- Mối quan hệ giữa hai giai cấp cơ bản : địa chủ (lãnh chua PK) và nông dân (nông dân). Đây là mối quan hệ
bất bình đẳng về mọi mặt. Nông dân hoàn toàn phụ thuộc vào địa chủ PK, không có ruộng đất.
- Chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất : tập trung vào tay giai cấp PK là nhiều nhất và gần như tuyệt đối.
- 843 : chế độ phân quyền cát cứ xuất hiện, ngày càng phát triển.
Biểu hiện của chế độ phân quyền cát cứ :
- Nguyên nhân :
• Nguyên nhân sâu xa : đế quốc Frăng được dựng lên do kết quả của những cuộc chiến tranh xâm lược và
được duy trì bằng bạo lực, không có cơ sở kinh tế, chỉ là một liên hiệp tạm thời, không vững chắc. Trong
phạm vi cả Tây Âu và phạm vi từng nước đều có khuynh hướng phát triển riêng, muốn tách ra khỏi sự ràng
buộc của chính quyền TƯ.
• Nguyên nhân cơ bản, có tính quyết định là về kinh tế. Trong đó, trước hết phải nói đến chế độ sở hữu
phong kiến về ruộng đất. Đó là sở hữu tư nhân rất lớn của PK. Được hình thành bằng hai nguồn : thứ nhất là
chế độ phân phong ruộng đất và chế độ thừa kế ruộng đất, thứ hai là số ruộng đất ít ỏi của những nông dân
tự do, nằm rải rác trong những khu đất dai của lãnh chúa. Chế độ phân phong và thừa kế dẫn tới hậu quả
quyền sở hữu tối cao về ruộng đất không thuộc về nhà vua và dẫn tới trạng thái phân quyền cát cứ.
• Về giao thông, do chiến tranh liên miên lại không được sửa chữa nên việc đi lại gặp rất nhiều khó khăn và

không an toàn. Vì vậy, liên hệ từng vùng không thường xuyên chặt chẽ.
• Ngoài ra, từng nước còn có những nguyên nhân khác.
VD : ở Pháp, có những thời kỳ mà ruộng đất của nhà vua ít hơn rất nhiều so với ruộng đất của các lãnh chúa
PK, thế lực của nhà vua rất hạn chế. Những làn chúa lớn thường áp đảo nhà vua và tranh giành quyền lợi với
nhau.
Nói đến trạng thái phân quyền cát cứ là nói đến lãnh địa và lãnh chúa PK. Đất đai được phân phong lần lượt
trở thành tư hữu và tạo nên lãnh địa. Nà vua ở TƯ thực tế cũng chỉ là một lãnh chúa mà thôi. Có hai loại
lãnh địa là lãnh địa PK và lãnh địa của giáo hội thiên chúa.
- Phân quyền cát cứ là trạng thái cơ bản nổi bật nhất trong thời kỳ phát triển của chế độ phong kiến Tây Âu.
Nó bao trùm, chi phối mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội và chính trị phong kiến.
• Kinh tế : Nền kinh tế của lónh địa là nền kinh tế tự cung tự cấp. Lãnh địa có nhiều trang viên, các trang
viên lại được chia thành hai phần, một phần do lãnh chúa trực tiếp quản lý, một phần được chia thành nhiều
khoanh nhỏ để nông dân thuê lĩnh canh.
• Xã hội : Quan hệ cơ bản trong xã hội là quan hệ giữa lãnh chúa với nông dân. Nông dân coa ba loại : nông
dân tự do, lệ dân và nông nô. Lệ dân và nông dân tự do trước sau gì cũng bị biến thành nông nô, cả đời phụ
thuộc chặt chẽ vào lãnh chúa, làm lao dịch không công, nộp địa tô cho địa chủ...So với nô lệ trong xã hội cổ
đại thì thân phận của nông nô có khá hơn, họ có nhà cửa, công cụ sản xuất, kinh tế gia đình riêng.
• Chính trị : Những tước vị và chức vụ mà nhà vua trao cho lãnh chúa nay trở thành cha truyền con nối, biến
luôn khu vực HC đứng đầu thành lãnh địa riêng, biến thần thuộc, thần dân nhà vua thành thần thuộc, thần
dân của lãnh chúa, có toà án xét xử riêng. Lãnh chúa có quyền đúc tiền, thu thuế..bộ phận quân đội của lãnh
chúa hoàn toàn tách khỏi sự điều động của nhà vua. Giữa các lãnh chúa thường xảy ra chiến tranh nhằm mở
rộng lãnh địa, quyền lực, tài sản.
Như vậy, trên thực tế, các lãnh địa đã biến thành những quốc gia nhỏ. Các lãnh chúa trở thành vua trên lãnh
địa của mình, có đầy đủ các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, có quân đội, toà án, luật lệ riêng. Chính
trong trạng thái phân quyền cát cứ, quan hệ PK được thể hiện rõ nét nhất, đây cũng là thời ký phát triển của
chế độ PK Tây Âu.
5, Cơ cấu tổ chức, hình thức chính thể nhà nước Anh Pháp Mỹ.
. Tổ chức bộ máy NNTS Anh theo chính thể quân chủ nghị viện (thành phần,cách thức thành lập, vai trò
quyền hạn).
a. Nguyên thủ quốc gia (Hoàng Đế - Nữ Hoàng)

- Cách thức thành lập : Theo nguyên tắc thừa kế
- Vai trò, quyền hạn :
• Vai trò : tượng trưng cho sự thống nhất, bền vững của quốc gia và dân tộc. Ngày Quốc khánh của nước
Anh không cố định mà lấy theo ngày sinh của nguyên thủ quốc gia đương nhiệm.


• Quyền hạn : không có thực quyền trong bộ máy nhà nước, chính trị, có nguồn gốc sâu xa từ đạo luật quyền
hành ban hành thàng 2-1689. Có quyền bổ nhiệm người đứng đầu chính phủ nhưng không thể bổ nhiệm một
người nào khác nếu người đó không phải thủ lĩnh của Đảng cầm quyền.
b. Nghị viện:
- Thành phần :
• Thượng nghị viện (1885 người)
• Hạ nghị viện (635 đại biểu)
- Cách thức thành lập:
• Thượng nghị viện (viện nguyên lão): đại quý tộc mới, thượng nghị sĩ là những quý tộc có phẩm hàm từ bá
tước trở lên thì được cha truyền con nối, các thủ tướng hết nhệm kì, một số hoàng thân quốc thích do HHĐ
bổ nhiệm.
• Hạ nghị viện do đại diện các tầng lớp nhân dân bầu ra.
Vai trò, quyền hạn: rất lớn để hạn chế tới mức tối đa quyền hạn nhà vua, làm cho ngai vàng trở thành hư vị.
Ban đầu, quyền hạn của thượng viện lớn hơn nghị viện nhưng về sau, hạ viện ngày càng có quyền lực, lấn át
vai trò, quyền hạn của thượng nghị viện...Thượng viện hoạt động rất hình thức, mang tính chất danh nghĩa,
vừa là thế lực kiềm chế và đối trọng của hạ viện. ở Anh có hai đảng thay nhau cầm quyền là đảng Tự do và
đảng Bảo thủ.
+ Quyền lập pháp, ban hành Hiến pháp và luật
+ Quyền quyết định ngân sách và thuế
+ Quyền giám sát hoạt động nội các, bầu hoặc bãi nhiệm các thành viên của nội các.
+ Quyền thành lập chính phủ
c. Chính phủ
- Cách thức thành lập : được lập ra từ đảng chiếm đa số ghế trong nghị viện, nếu số ghế ngang bằng nhau thì
thanhg lập chính phủ liên minh các đảng; thủ lĩnh của đảng chiếm đa số ghế thì được bầu làm thủ tướng

(người đứng đầu chính phủ), nếu số ghế ngang nhau thì Nghị viện chỉ bầu ra một thủ lĩnh đảng làm thủ
tướng.
- Cơ cấu : đa dạng, bao gồm cả bộ trưởng, thứ trưởng, phụ tá.... (khoảng 40-60 người)
- Vai trò, quyền hạn : có quyền hành pháp, đưa lực lượng vũ trang ra ngoài gây chiến, có quyền ban hành
tình trạng khẩn cấp trong nước Anh hay một vùng.
* Ngoài nguyên thủ quốc gia, nghị viện, chính phủ còn có hệ thống toà án, quân đội...
Hệ thống toà án gồm có hệ thống toà án TƯ và hệ thông toà án địa phương
Quân đội : sau CM chủ yếu đi xâm lược, mở rộng thị trường, lãnh thổ..
Cơ cấu lãnh thổ : đơn nhất, thông nhất một HP, một hệ thống luật, một hệ thống cơ quan từ TƯ tới địa
phương, một quốc tịch, một hệ thống toà án.
Chế độ chính trị : 2 đảng bản chất phục vụ cho giai cấp TS sinh ra để phân chia quyền lực, ngăn căn đảng
cộng sản nắm chính quyền.
Bản chất giai cấp : phục vụ cho giai cấp TS. Tuy vậy vẫn mang tính XH : đi đầu CN hoá, cơ giới hoá phục
vụ cho các giai cấp trong xã hội.
Đầu TK 19 trở thành một quốc gia cường thịnh, rộng lớn, là đế quốc chiếm được nhiều thuộc địa nhất, “mặt
trời không bao giờ lặn trên đất nước Anh”.
Ncts Mỹ
Nguyên tắc xây dựng hiến pháp :
theo nguyên tắc tam quyền phân lập.
- Quyền lực nhà nước buộc phải chia thành các nhánh quyền lực khác nhau
- Các nhánh quyền lực này phải do các cơ quan khác nhau nắm giữ
- Mỗi nhánh quyền lực phải chịu sự kiểm tra, giám sát của các nhành quyền lực khác.Tạo ra thế kiềm chế,
đối trọng giữa các nhánh quyền lực.
. Tổ chức bộ máy NNTS Mỹ :
Nguyên tắc
- Nguồn gốc 3 nhánh quyền lực là khác nhau, HP quy định đối tượng cử tri bầu ra các nhánh là khác nhau.
- Các nhánh có nhiệm kỳ khác nhau


- 3 cơ quan này luôn phải thực hiện nguyên tắc kiềm chế, đối trọng để không cơ quan nào nắm trọn vẹn

quyền lực nhà nước.
Nhà nước TS Mỹ là nhà nước TS điển hình nhất của chính thể cộng hoá tổng thống.ở chính thể này, tổng
thông vừa là nguyên thủ QG, vừa là người đứng đầu cơ quan hành pháp. Chính phủ chỉ cịu trách nhiệm
trước tổng thống, không chịu trách nhiệm trước nghị viện, không thể bị nghị viện giải tán.
Nghị viện : Điều 1 khoản 1 HP 1787 quy định, mọi thẩm quyền lập pháp đều thuộc về nghị viện. Nghị viện
bao gồm thượng viện và hạ viện.
- Thượng viện : Là CQ đại diện của các bang. Mỗi bang được bầu ra 2 thượng nghị sĩ vì thẩm quyền độc
lập được trao cho thượng nghị viện, trong quá trình biểu quyết giữa các bang luôn bảo đảm quyền lợi bình
đẳng.
Thẩm quyền độc lập : Thẩm quyền độc lập :
• quyền kết tội các quan chức cao cấp của chính phủ.
• kìm chế quyền hành pháp cao nhất của tổng thống :phê chuẩn các quan chức cao cấp do tổng thống bổ
nhiệm.
• quyền tư pháp : bổ nhiệm các chánh án và thẩm phán của các viện tối cao
• các đại sứ ngoại giao và điều ước Quốc tế do tổng thống bổ nhiệm phải được thượng nghị viện phê chuẩn.
- Hạ nghị viện : là cơ quan dân biểu, số lượng : 435 hạ nghị sĩ, nhiệm kỳ 2 năm. Được quyền phê chuẩn các
dự án lợi tức của chính quyền liên bang.
- Thẩm quyền chung :
• Thông qua các dự án luật
• Thông qua các chính sách thuế và giám sát quá trình thu thuế
• Tuyên bố tình trạng chiến tranh và chấm dứt chiến tranh
Nhận xét :
NNTS Mỹ duy trì chế độ lưỡng đảng cân bằng, thẩm quyền mỗi viện là rất lớn và tương xứng, đặc biệt thẩm
quyền chung của Nghị viện Mỹ khi luôn quy định biểu quyết là 2/3, làm cho các quyết định được thông qua
ở nghị viện mang tính chính xác rất cao. Chức năng quyền hạn của nghị viện Mỹ trên thực tế là kìm chế, đối
trọng với các nhánh quyền lực khác, đặc biệt là quyền hành pháp. Nghị viện của NNTS Mỹ là nghị viện hoạt
động có hiệu quả nhất và có quyền năng thực chất nhất.
Tổng thống : Điều 2 khoản 1 HP 1787 quy định: mọi quyền hành pháp cao nhất thuộc về Tổng thống hợp
chủng quốc Hoa kì. Thế quyền của Tông thống Mỹ là một trong những thế quyền nắm bắt quyền lực lớn
nhất. Nước Mỹ không thể một ngày không có Tổng thống.

• Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia, vừa đứng đầu cơ quan lập pháp, có quyền lập ra chính phủ của
mình. HP Mỹ còn trao cho Tổng thống trọng trách là điều hành, quản lý làm cho HP&PL được thực thi một
cách tốt nhất. Với quy định ấy, Tổng thống là người duy nhất có quyền quản ký nhà nước.
• Biểu hiện : HP&PL không trao cho phó tổng thống và các bộ trưởng bất kỳ một thẩm quyền độc lập nào
của chính quyền liên bang.
• Điều kiện để được đi tranh cử tông thống :
- 35 tuổi trở lên,
- phải được sinh ra tại nước Mỹ,
- 14 năm làm việc và sinh sống tại bang ra tranh cử,
- nhiệm kỳ 4 năm, không đương chức quá 2 nhiệm kỳ
• Thẩm quyền, quyền hạn :
- Nhánh quyền hành pháp : là người duy nhất có quyền bổ nhiệm các bộ trưởng để thành lập chính phủ của
mình. Chính phủ chỉ chịu trách nhiệm trước Tổng thống, không chịu trách nhiệm trước nghị viện. Chính phủ
chỉ là cơ quan tư vấn, giúp việc cho tổng thống. Ngoài ra, Tổng thống còn được quyền ban bố tất cả các loại
văn bản như chỉ thị, quyết định mà không cần phải có sự phê chuẩn của nghị viện.
- Nhánh quyền lập pháp : có quyền phê chuẩn tất cả các đạo luật quyền phủ quyết của tổng thống đối với các
đạo luật đã được nghị viện thông qua.
- Chỉ duy nhất Tổng thống được quyền triệu tập các phiên hopc đặc biệt hoặc của mỗi viện, hoặc cả hai viện
mà ở các phiên họp ấy, Tổng thống thông báo những vấn đề quan trọng nhất của chính quyền liên bang.
- Quyền tư pháp : được quyền bổ nhiệm tất cả các thành viên của pháp viện tối cao toàn liên bang với nhiệm
kỳ suốt đời.
- Quyền ân xá tội phạm


- Quyền quân sự và đối ngoại : Tổng thống là tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang, có quyền bổ nhiệm các
tướng lĩnh cao cấp trong quân đội, là người đứng đầu các lực lượng an ninh QG, cho phép Tổng thống được
sử dụng lực lượng quân đội để bảo vệ hoà bình và an ninh nước Mỹ.
- Được quyền tuyên bố và chấm dứt tình trạng khẩn cấp
- Được quyền bổ nhiệm các đại sứ ngoại giao, ký các điều ước quốc tế, đông thời có trách nhiệm bảo vệ
người Mỹ sinh sông và làm việc ở nước ngoài cũng như người nước ngoài đang sinh sống và làm việc tại

Mỹ thông qua con đường ngoại giao.
Pháp viện tối cao : gồm 9 thẩm phán do Tổng thống bổ nhiệm và được sự chấp thuận của thượng nghị viện.
Quyền hạn :
- Phán quyết các đạo luật có hợp hiến hay không
- Giải thích PHÁP LUậT
- Quyền tối cao về xét xử
Cộng hòa nghị viện Pháp
Giáo trình 227 T.T < dài quá ko tóm đk ý bạn nào pro làm giúp mình nhá >
Pháp luật

1 Bộ luật Hammurabi (Codex Hammurabi ) là văn bản luật cổ nhất còn được bảo tồn tốt, được tạo ra
vào khoảng thập niên 1760 TCN ở Babylon cổ đại. Nó được vị vua thứ sáu của Babylon là Hammurabi ban
hành.
Về kĩ thuật lập pháp, tuy không phân chia thành các ngành luật nhưng bộ luật cũng được chia thành nhóm
các điều khoản có nội dung khác nhau. Phạm vi điều chỉnh của bộ luật là những quan hệ xã hội rộng, bao
quát lên toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội như hôn nhân gia đình, ruộng đất, thừa kế tài sản, hợp đồng
dân sự, hình sự, tố tụng ...
Về mức độ điều chỉnh: Mức độ điều chỉnh pháp luật phụ thuộc vào tính chất của các loại quan hệ xã hội
cần được điều chỉnh bằng pháp luật, các yếu tố chủ quan của nhà làm luật. Thông thường người ta phân biệt
thành hai mức độ điều chỉnh pháp luật: cụ thể – chi tiết và khái quát hoá cao. Bộ luật về cơ bản áp dụng mức
độ điều chỉnh cụ thể, chi tiết.
Về mặt hình thức pháp lý, đây là một bộ luật tổng hợp được xây dựng dưới dạng luật hình, bao gồm
các qui phạm pháp luật điều chỉnh nhiều lĩnh vực và đều có chế tài. Phần nội dung, bộ luật tập trung điều
chỉnh bốn lĩnh vực chủ yếu đó là dân sự, hình sự, hôn nhân gia đình và tố tụng, tuy vậy không có sự tách rời
giữa các lĩnh vực. Các qui phạm của Bộ luật Hammurabi cũng giống như các bộ luật khác ở Phương Đông
thời kỳ cổ đại là mang tính hàm hỗn, các điều luật đều kèm theo chế tài.
Về dân sự
Những điểm tiến bộ, đặc sắc nhất của Bộ luật này chính là các qui định về dân sự. Bộ luật đã đặc biệt chú ý
điều chỉnh quan hệ hợp đồng, vì đây là quan hệ phổ biến ở xã hội Lưỡng Hà cổ đại, có nhiều qui định không
những tiến bộ về nội dung, mà còn chặt chẽ về kĩ thuật lập pháp. Về chế định hợp đồng, Luật qui định ba

điều kiện bắt buộc đối với hợp đồng mua bán:
Thứ nhất, người bán phải là chủ thực sự,
Thứ hai, tài sản phải có giá trị sử dụng,
Thứ ba, phải có người làm chứng.
Bộ luật cũng qui định các điều khoản lĩnh canh ruộng đất. Đối với ruộng, người lĩnh canh nhận mỗi mùa từ
1/3 - 1/2 số sản phẩm thu hoạch. Đối với vườn được nhận 2/3 số sản phẩm thu hoạch. Điểm tiến bộ hơn nữa
là luật đã qui định mức lãi suất đối với hợp đồng vay nợ. Cụ thể luật qui định mức lãi suất đối với tiền là 1/5,
vay thóc là 1/3.
Về chế định thừa kế tài sản, Luật Hammurabi phân làm hai loại thừa kế: thừa kế theo pháp luật và thừa kế
theo di chúc.
Thừa kế theo pháp luật : Nếu người cho thừa kế không để lại di chúc thì tài sản được chuyển đến cho những
người có quyền đối với tài sản đó theo luật định. Thời gian đầu tài sản tập trung ở dòng họ và dần dần được
chuyển về gia đình có quyền thừa kế và thành tài sản chung của gia đình. Đó là cách thừa kế theo pháp luật.


Thừa kế theo di chúc : Bộ luật đã hạn chế quyền tự do của người viết di chúc như qui định người cha không
được tước quyền thừa kế của con trai nếu người con mới phạm lỗi lần đầu và lỗi không nghiêm trọng. Con
trai, con gái đều được hưởng quyền thừa kế ngang nhau.
Về lĩnh vực hôn nhân và gia đình
Theo xu hướng củng cố địa vị của người chồng, người cha nên trách nhiệm và nghĩa vụ thuộc về người vợ
và con cái. Nếu không có con, người chồng có quyền ly dị, bán vợ hoặc lấy vợ lẽ. Nếu bắt được vợ ngoại
tình thì chồng có quyền trói vợ và nhân tình của vợ ném xuống sông cho chết. Ngược lại nếu vợ bắt được
chồng ngoại tình, chỉ có quyền ly dị mà thôi. Điểm tiến bộ là đã có qui định kết hôn phải có giấy tờ, ở mức
độ nào đó có qui định bảo vệ người phụ nữ (người vợ có quyền ly hôn khi người chồng đi khỏi nhà không
có lý do, chồng có quan hệ ngoại tình hay vu cáo vợ ngoại tình). Có một qui định rất nhân đạo nếu đặt trong
hoàn cảnh lúc bấy giờ là: ”Người chồng không được bỏ vợ khi biết người vợ mắc bệnh phong hủi.”
Về hình sự
Lĩnh vực Hình sự là lĩnh vực thể hiện rõ nhất tính giai cấp và sự bất bình đẳng. Một nguyên tắc xuyên suốt
và thể hiện rõ trong Bộ luật là nguyên tắc bảo vệ quyền lợi, địa vị của người chồng, người cha trong gia
đình. Thí dụ, nếu không có con, người chồng có quyền ly dị hoặc bán vợ hoặc lấy vợ lẽ; nếu bắt được vợ

ngoại tình thì chồng có quyền trói vợ và nhân tình của vợ ném xuống sông cho chết. Ngược lại nếu vợ bắt
được chồng ngoại tình, chỉ có quyền ly dị mà thôi. Điều 129 qui định : "Nếu vợ của dân tự do ngủ với người
đàn ông khác mà bị bắt, thì phải trói cả hai người này lại và ném xuống sông". Tàn dư của xã hội nguyên
thuỷ rất rõ là nguyên tắc trả thù ngang bằng, thậm chí còn cho phép trừng trị cả những người không liên
quan đến tội phạm. Nguyên tắc này chỉ căn cứ vào hậu quả xảy ra trên thực tế để áp dụng trách nhiệm pháp
lí, chứ không xét trên phương diện mức độ lỗi và chủ thể thực hiện hành vi vi phạm. Thí dụ, Điều 38 qui
định: " Nếu thợ xây nhà mà xây không đảm bảo, nhà đổ, chủ nhà chết thì người thợ xây bị giết." hoặc Điều
39: "Nếu nhà đổ, con của người chủ nhà chết thì con của người thợ xây cũng phải chết theo".
Bằng phương pháp thống kê cho thấy trong Luật Hammurabi có nhắc tới 32 trường hợp xử tử hình. Thường
là các hình phạt rất khắc nghiệt như dìm, đóng đinh, chém v.v…Tính chất tương xứng trong trách nhiệm
pháp lý nhấn mạnh nhiều đến tính trừng trị đối nhân hoặc đối vật, mà chưa tính đến tính giáo dục, hay tạo
điều kiện để người vi phạm hoàn lương. Bên cạnh đó, Bộ luật còn nêu ra trách nhiệm tập thể của các thành
viên công xã đối với nhà nước; qui định về trừng phạt kẻ giúp nô lệ chạy trốn, trừng phạt những kẻ xâm
phạm quyền sở hữu của nhà vua, chủ nô; Trừng phạt người quản gia làm thất thoát tài sản của chủ bị ném
cho dã thú xé xác; Lấy cắp gia cầm hoặc các đồ dùng khác của chủ sẽ bị phạt từ 10 đến 30 lần giá trị thứ lấy
cắp. Nếu không nộp được phạt, kẻ lấy cắp sẽ bị giết. Điểm tiến bộ trong lĩnh vực hình sự là luật đã manh
nha phân biệt phạm tội vô ý và phạm tội cố ý. Ví dụ luật ghi trong khi ẩu đả làm chết người, nếu kẻ làm chết
người chứng minh được rằng không cố ý giết người thì sẽ không bị tử hình, chỉ bị phạt tiền.
Về tố tụng
Tố tụng là thủ tục giải quyết các vụ án. Bộ luật đã có nhiều qui định về thủ tục bắt giữ, giam cầm, qui định
những nguyên tắc khi xét xử như xét xử phải công khai, phải coi trọng chứng cứ, phán quyết phải được thi
hành nghiêm minh... Có hai qui định rất đặc thù về tố tụng của Bộ luật này:
Thứ nhất qui định về trách nhiệm của thẩm phán : ”Nếu thẩm phán xử một vụ kiện mà ra phán quyết bằng
văn bản, nếu sau đó phát hiện lỗi trong văn bản là do lỗi của thẩm phán, thẩm phán sẽ phải trả 12 lần giá trị
tiền phạt mà ông ta đã yêu cầu bồi thường trong vụ kiện, đồng thời ông ta sẽ bị buộc phải rời khỏi ghế thẩm
phán vĩnh viễn và không bao giờ có thể trở thành thẩm phán lần nữa”. Qui định về trách nhiệm của thẩm
phán trong việc xét xử như qui định trên trong một xã hội thể hiện tính giai cấp sâu sắc quả thật là một sự
tiến bộ. Qua đó cho thấy, thời kỳ này rất coi trọng công tác xét xử, rất coi trọng trách nhiệm xét xử công
bằng của thẩm phán. Sử sách đã ca ngợi rằng ở Lưỡng Hà cổ đại, tinh thần thượng tôn luật pháp và thói
quen cầu viện công lý đã ăn sâu vào tác phong sinh hoạt của người dân nơi đây.

Thứ hai về hình thức xét xử : Nếu một người kiện một người khác, bị đơn sẽ phải đi đến một dòng sông và
nhảy xuống, nếu anh ta chìm, bị dòng nước cuốn đi, nguyên đơn sẽ sở hữu nhà của bị đơn. Nhưng ngược lại,
nếu dòng sông chứng minh rằng bị đơn là không có tội, tức là anh ta còn sống sót, thì nguyên đơn sẽ bị giết
chết, và bị đơn sẽ sở hữu nhà của nguyên đơn”.
Hammurabi khẳng định lại mục đích của Bộ luật và tuyên bố sẽ trừng phạt bất cứ ai vi phạm Bộ luật này:
“Để cho kẻ mạnh không hà hiếp kẻ yếu; để cho những người cô quả có thể nương tựa ở thành Babilon…; để
cho sự tuyên án trong nước tiện việc quyết định; để cho những kẻ thiệt thòi được trình bày lẽ phải…Nếu kẻ


nào thi hành triệt để bộ luật này thì sẽ được các thần phù hộ, trái lại nếu người nào không nghiêm chỉnh thi
hành hoặc sửa đổi bộ luật thì sẽ bị thần linh trừng phạt”.
Bộ luật Hammurabi là Bộ luật thành văn cổ nhất trên thế giới, là một trong những thành tựu có giá trị bậc
nhất của lịch sử văn minh cổ đại. Giá trị của Bộ luật này cho đến nay vẫn tiếp tục được nhiều nhà khoa học
tập trung nghiên cứu, khai thác và kế thừa. Bộ luật đã xây dựng rất công phu, điều chỉnh và phản ánh một
cách sinh động các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội của vương quốc Babilon. Bộ luật không chỉ
có giá trị về nghiên cứu pháp lý mà còn là nguồn cứ liệu lịch sử phong phú, quí giá để nghịên cứu nền văn
hoá Babilon - Lưỡng Hà cổ đại.

2 Luật dân sự La mã cộng hòa hậu kỳ <tham khảo thêm trong giáo trình tr52>
3 Pháp luật phong kiến tây âu
1. Nguồn luật của pháp luật phong kiến Tây Âu
Do tình hình chính trị của chế độ phong kiến Tây Âu nên nguồn luật rất phức tạp và đa dạng, nó gồm các
nguồn sau đây:
- Tập quán pháp : gồm nhiều phong tục tập quán của các bộ tộc người la mã, người Giecmanh, những tập
quán pháp chủ yếu được tập hợp trong bộ luật Xa Lích (cuối thế kỷ 5 đầu thế kỷ 6)
- Luật pháp của triều đình phong kiến , bao gồm chiếu chỉ, mệnh lệnh của nhà Vua, các án lệ và quyết định
của toà án nhà Vua.
- Luật lệ của giáo hội Thiên chúa, nó vừa điều chỉnh quan hệ tôn giáo, quan hệ hôn nhân, quan hệ thừa kế,
quan hệ trái vụ…
- Luật lệ của lãnh chúa, của chính quyền ở các thành phố tự trị.

- Những quy định dẫn chiếu từ luật La Mã cổ đại.
Tuỳ theo từng vùng, từng thời kỳ mà vai trò của từng nguồn luật có khác nhau.
- Trong thời kỳ đầu, nguồn của pháp luật chủ yếu là các tập quán pháp.
- Đến thế kỷ 6, các nước phong kiến tây âu ban hành luật thành văn như: luật Xalich, luật Vidigot,
Buôcgôngđơ, Xăcxông… Nội dung của các bộ luật này chính là sự sao chép lại các tập quán pháp của các
“Man tộc” trước đây, do đó luật pháp trong thời kỳ này chưa được xây dựng trên một chuẩn mực pháp lý
nào cả.
- Thế kỷ 8, Vương triều Carôlanhgiêng ban hành “Bộ luật điền sản” để điều chỉnh chế độ kinh tế phong
kiến, mà đặc biệt là chế độ ruộng đất.
- Vào thế kỷ 11, 12 chế độ phong kiến phát triển cực thịnh, nhiều bộ luật thành văn được ban hành. Đặc biệt,
trong thời kỳ này kinh tế hàng hoá phát triển trong khi pháp luật phong kiến vẫn không có chế định điều
chỉnh quan hệ này, do đó, người ta viện dẫn luật la mã để giải quyết những vấn đề phát sinh từ quan hệ này.
2. Nội dung của pháp luật phong kiến Tây Au
Các quy định liên quan đến luật dân sự
· Các quan hệ pháp lý về tài sản
- Về quyền sở hữu ruộng đất:
+ Từ thế kỷ 5 đến 6, do người Frăng vừa thoát thai khỏi chế độ công xã thị tộc nên ở buổi ban đầu của chế
độ phong kiến, quyền sở hữu ruộng đất ở công xã có 2 hình thức:
· Thuộc quyền sở hữu chung của công xã đối với ruộng đất canh tác. Công xã tiến hành việc phân chia
ruộng canh tác cho các thành viên của mình. Đến thời hạn nhất định nông dân phải trả lại cho công xã để
phân chia lại.
· Thuộc quyền sở hữu tư nhân đối với nhà cửa, vườn tuợc xung quanh nhà.
Theo bộ luật Xa Lích, ruộng đất được chia cho các thành viên công xã và được cha truyền con nối, tuy nhiên
ruộng đất chỉ có thể chuyển cho con trai. Nếu người chết không có con trai thì phải trả ruộng đất lại cho
công xã.
+ Đến đời vua Sinpê Rich (561 – 584), Nhà Vua quy định nếu người chết không có con trai, ruộng đất được
quyền để lại cho con gái, không phải trả lại cho công xã nữa. Đây là một bước quá độ để chuyển sang chế độ
tư hữu về ruộng đất.
+ Thế kỷ 6, 7 quyền sở hữu ruộng đất của công xã bị tan rã, đất đai thuộc quyền sở hữu của người được
phân phối (nông dân). Bọn quý tộc

+ Trên danh nghĩa, toàn bộ lãnh thổ của vương quốc là tài sản của Nhà Vua, Nhà Vua phân phong cho các
thần thuộc của mình. Dần dần, các thần thuộc biến ruộng đất được phân phong thành ruộng đất tư hữu. Từ


thế kỷ 9, 10 trở về sau, ruộng đất này trở thành lãnh địa và thuộc toàn quyền sở hữu của lãnh chúa phong
kiến. Trên phần ruộng đất được phân phong, các quan hệ pháp lý về ruộng đất do các lãnh chúa quy định
(quy định về hợp đồng mua bán, chuyển nhượng ruộng đất giữa các chủ đất, việc lĩnh canh ruộng đất, các
nghĩa vụ của nông nô đối với lãnh chúa, quy định về thủ tục thừa kế ruộng đất… Những quy định này đều
thể hiện nguyên tắc “Không đất nào là không có chủ”). Dần dần những quy định này trở thành tập quán
pháp.
- Đối với việc sở hữu các tài sản khác
+ Bộ luật Xa Lích thừa nhận chế độ tư hữu về động sản. Vấn đề này được phản ánh qua những điều khoản
quy định các hình phạt đối với các tội trộm cắp hoặc gây thiệt hại đến gia súc, hoa màu của người khác.
+ Đến thế kỷ 11, 12, trong các thành phố tự trị kinh tế công thương nghiệp phát triển, các thành phố này bắt
đầu viện dẫn pháp luật la mã để giải quyết các vấn đề liên quan đến lĩnh vực hợp đồng, trái vụ như các loại
hợp đồng mua bán, tặng cho, đổi chác, thuê mướn, ủy thác… do đó, pháp luật của các thành thị trong thời kỳ
này rất phát triển.
· Luật lệ về hôn nhân gia đình
- Bộ luật Xa Lích nghiêm cấm tục cướp vợ hoặc mua bán vợ. Bộ luật quy định trong thủ tục kết hôn, người
chồng phải tặng quà cưới cho vợ (thay cho tiền mua vợ). Sau đó số tài sản này trở thành tài sản chung.
- Theo phong tục, để giữ lại toàn bộ số tài sản của dòng họ, người phụ nữ goá phải kết hôn với anh hoặc em
của chồng (chưa có vợ). Tuy nhiên, người phụ nữ này được quyền lấy chồng khác với điều kiện:
+ Phải được gia đình chồng cũ ưng thuận
+ Người chồng mới phải nộp cho gia đình chồng cũ một khoản tiền nhất định
- Về sau, luật hôn nhân gia đình chịu nhiều ảnh hưởng của thế lực nhà thờ và luật lệ thiên chúa giáo. Luật lệ
tôn giáo và luật pháp nhà nhà nước đều ngăn cấm việc ly hôn.
- Địa vị pháp lý của người phụ nữ có được cải thiện hơn so với trong thời chiếm hữu nô lệ. Tuy nhiên, họ
vẫn phải phụ thuộc vào người cha, người chồng và con trai; ngoài xã hội phụ nữ có địa vị xã hội thấp kém
hơn so với đàn ông cùng đẳng cấp. Do bị ảnh hưởng của thế lực nhà thờ, giáo hội, càng ngày người phụ nữ
càng bị mất năng lực pháp lý về tài sản và bị áp dụng cực hình. Tuy nhiên ở một số địa phương của nước

Anh, người vợ được quyền quản lý tài sản của mình, ở miền Nam nước Pháp, người vợ được quyền lấy lại
của hồi môn và được gia đình chồng cấp phần đất riêng cho người phụ nữ goá chồng.
- Ở nông thôn, trai gái làng này bị cấm kết hôn với trai gái của làng khác, do đó thường dẫn đến tình trạng
loạn luân.
- Đối với nông nô, khi kết hôn phải có sự đồng ý của lãnh chúa. Nếu kết hôn với nông nô của lãnh chúa khác
thì phải nộp phạt tiền ngoại hôn. Con do hai nông nô này sinh ra phải chia đều cho cả hai lãnh chúa.
v Các quy định liên quan đến luật Hình sự
· Tục trả nợ máu
- Do bị ảnh hưởng của các phong tục tập quán trong thời kỳ công xã nguyên thủy, trong giai đoạn đầu của
chế độ phong kiến, tục trả nợ máu vẫn còn tồn tại khá đậm nét.
- Bộ luật Xa Lích quy định:
+ Nếu tội phạm không đủ tiền nộp phạt và cũng không có người nộp thay thì phải mang mạng sống của
mình ra chịu tội.
+ Đối tượng phải trả nợ máu là chính kẻ giết người hoặc con trai của người đó.
+ Người được trả thù chỉ có thể là cha, con trai, anh em trai của nạn nhân
+ Quy định thời gian chờ trả thù nhằm làm giảm bớt tính hung hãn của gia đình người bị hại và tạo điều kiện
cho tội phạm có tiền nộp để chuộc tội (ví dụ ở Anh, thời gian chờ trả thủ là 12 tháng).
· Nộp tiền chuộc tội
- Theo bộ luật Xa Lích, bất cứ tội phạm nào cũng được phép dùng tiền để chuộc tội (trừ những tội phạm bị
xem là trọng tội: tội phản quốc, tội chống lại giáo hội…)
- Lúc đầu, mức tiền nộp phạt tùy thuộc vào sự thoả thuận của hai bên. Về sau, bộ luật quy định mức phạt cụ
thể (ví dụ: trộm chó: 15 xôlidút, trộm ngựa: 45 xôlidút, xúc phạm người frăng tự do: 30 xôlidút, giết chết
người frăng tự do: 200 xôlidút, giết chết phụ nữ mang thai: 600 đến 700 xôlidút). ½ số tiền nộp phạt được
chia cho gia đình bị hại, ½ còn lại sung vào công quỹ.
- Luật cho phép họ hàng của tội phạm được nộp tiền thay và tội phạm sẽ trở thành nô lệ cho người đã nộp
phạt thay mình. Nhưng đến thế kỷ 6, luật cấm người khác nộp phạt thay, tội phạm phải tự mình bỏ tiền ra để


chuộc tội và mức tiền nộp phạt tùy thuộc vào địa vị của người bị hại. Nếu tội phạm là kẻ giết người mà
không chịu nộp phạt hoặc không có tiền nộp phạt thì sẽ bị tử hình.

- Đối với những tội phản quốc, không trung thành với nhà vua hoặc lãnh chúa phong kiến, chống lại nhà thờ
và luật lệ tôn giáo, trộm cắp tài sản của nhà nước hay của nhà thờ… đều bị coi là trọng tội. Tất cả những
trọng tội đều không được dùng tiền chuộc mà phải chịu án tử hình. Phương thức thực hiện án tử hình rất tàn
bạo như: chém đầu, treo cổ, hoả thiêu, làm cho tội phạm chết dần trong đau đớn… Tuy nhiên luật lại không
quy định như thế nào là phản quốc, như thế nào là không trung thành với nhà vua… do đó, đối với những
loại tội phạm này, quan toà thường xét xử tùy tiện, chủ quan.
· Hình phạt
- Tính chất giai cấp trong pháp luật phong kiến thể hiện rõ trong việc quy định hình phạt. Tùy theo thân
phận và địa vị của người phạm tội và người bị hại, pháp luật quy định mức hình phạt khác nhau. Ví dụ: giết
một người có địa vị cao thì phải nộp phạt gấp 3 đến 4 lần mức bình thường, tiền phạt tội bắt trộm nôlệ bằng
mức tiền phạt tội bắt trộm con ngựa hay con bò, nếu người dân tự do và người nô lệ phạm tội như nhua thì
người dân tự do chuộc tội bằng tiền, còn người nô lệ thì thì bị thể xác.
v Pháp luật về tố tụng và tư pháp
· Toà án
- Trong thời kỳ phong kiến, quyền tư pháp thuộc về cả nhà vua, giáo hội và các lãnh chúa phong kiến. Tuỳ
từng thời kỳ khác nhau mà quyền tư pháp của các thế lực có vai trò khác nhau.
+ Thế kỷ 6 đến thế kỷ 10, quyền tư pháp của các lãnh chúa lớn mạnh. Nhà vua chỉ có quyền xét xử trên phần
đất của vương triều.
+ Thế kỷ 11 đến 14, nhà vua tìm mọi cách hạn chế bớt quyền lực của các lãnh chúa phong kiến, tăng cường
quyền lực của mình. Do đó, phạm vi và thẩm quyền xét xử của toà án nhà vua ngày càng được mở rộng.
+ Thế kỷ 15, 16 quyền tư pháp của các lãnh chúa phong kiến bị suy yếu và dần dần bị loại trừ. Quyền xét xử
trong cả nước thuộc về toà án của nhà vua.
+ Giáo hội có quyền lập ra những “toà án tôn giáo thiêng liêng” để xét xử những người bị coi là dị giáo,
chống lại giáo hội…
- Trong thời kỳ hưng thịnh của chế độ phong kiến, một nguyên tắc hoạt động phổ biến của toà án là người
xét xử phải có tài sản ít nhất bằng tài sản của của người bị xét xử.
· Tổ chức luật sư
- Tổ chức luật sư đã từng xuất hiện trong thời kỳ La Mã cổ đại, đến thời kỳ phong kiến tổ chức này hoạt
động như những ngành nghề trong xã hội và có vai trò quan trọng trong đời sống chính trị – xã hội.
· Viện công tố

- Ban đầu, viện công tố do nghị viện thành lập và trực thuộc nghị viện. Ủy viên công tố phải là thành viên
của Nghị Viện. Về sau, Viện Công tố tách khỏi Nghị Viện thành một cơ quan độc lập.
- Viện Công tố có chức năng theo dõi ngân khố quốc gia và giám sát công việc tố tụng hình sự.
Nhận xét
- Pháp luật là một phương tiện để nhà nước đàn áp, bóc lột quần chúng nhân dân lao động, bảo vệ địa vị,
quyền lợi của tập đoàn phong kiến thế tục và tập đoàn phong kiến giáo hội.
- Pháp luật phong kiến kém phát triển hơn so với pháp luật thời Hy La cổ đại, vì những nguyên nhân sau
đây:
+ Trong một thời gian dài, tình trạng phân quyền cát cứ và kinh tế tự cung tự cấp đã kìm hãm sự của kinh tế
hàng hoá
+ Các lãnh chúa phong kiến phải tập trung và các cuộc chinh phạt lẫn nhau, không có thời gian cho việc xây
dựng pháp luật. Trong các lãnh địa, các tập quán pháp và mệnh lệnh của lãnh chúa phong kiến được dùng để
điều chỉnh các vấn đề xã hội.
Tuyệt đại đa số cư dân bị mù chữ, thậm chí nhiều quý tộc cũng không biết đọc biết viết. Nhà nước và giáo
hội thực hiện chính sách ngu dân, bắt buộc dân chúng học thuộc lòng kinh thánh và không thực hiện giáo
dục toàn diện.

4, Luật Hiến pháp tư sản
- Cuối thế kỷ 12, đầu thế kỷ 13 khi giai cấp tư sản lớn mạnh và có thế lực lớn trong kinh tế nên muốn vươn
lên giành quyền thống trị vô hạn của nhà vua – người đại diện của giai cấp phong kiến. Giai cấp tư sản đề
xướng một văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn hẳn các quýêt định của nhà vua và văn bản khác, văn bản ấy


được gọi là Hiến pháp. Như vậy, kể từ cách mạng tư sản, khái niệm Hiến pháp với nghĩa là luật cơ bản của
nhà nước mới xuất hiện. Nó là một ngành luật mới, được xác lập từ chế độ tư bản chủ nghĩa.
- Hiến pháp tư bản có 3 nhóm chế định cơ bản quy định về tổ chức bộ máy nhà nước, chế độ bầu cử, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân:
+ Về chế định bầu cử, Hiến pháp xác định một loạt các biện pháp để hạn chế quyền bầu cử của nhân dân lao
động, chẳng hạn:
· Điều kiện về tài sản: cử tri phải là người có số tài sản nhất định (Tây Ba Nha, Bỉ, Hà Lan, Bồ Đào Nha,

Braxin căn cứ vào thu nhập cá nhân, một số nước khác căn cứ vào mức độ đóng thuế cho nhà nước). Về
phía người ứng cử, họ phải là người có thế lực kinh tế mạnh vì pháp luật tư sản quy định người ứng cử ký
quỹ và gánh chịu mọi chi phí vận động bầu cử .
· Điều kiện về trình độ văn hoá: cử tri phải là người có trình độ văn hoá nhất định.
· Điều kiện về tuổi: cử tri phải từ 21 tuổi trở lên.
· Điều kiện về giới tính: phụ nữ không có quyền bầu cử.
· Về chủng tộc: người da đen, người da đỏ không có quyền bầu cử.
· Điều kiện cư trú: công dân muốn được bầu cử hay ứng cử phải sống cố định tại một nơi trong một khoảng
thời gian nhất định.
· Đặc biệt, một số nước tư sản còn quy định có những tầng lớp được quyền bỏ nhiều lá phiếu hơn những cử
tri bình thường.
· Về chế định tổ chức bộ máy nhà nước, tuỳ theo từng nước mà có hình thức chính thể khác nhau: quân chủ
nghị viện, cộng hòa nghị viện, cộng hoà tổng thống. Dủ ở chính thể nào thì hiến pháp cũng quy định tổ chức
của 4 loại cơ quan chủ yếu: nghị viện, chính phủ, toà án và người đứng đầu nhà nước (vua, tổng thống).
+ Về chế định quyền và nghĩa vụ của công dân, hầu hết các Hiến pháp tư sản đều ghi nhận quyền tư hữu là
thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Trong thời gian đầu quyền công dân bị hạn chế rất nhiều, nhưng do
phong trào đấu tranh của nhân dân lao động, dần dần nhà nước tư sản phải ghi nhận thêm một số quyền công
dân vào Hiến pháp. Tuy vậy, quyền và nghĩa vụ của công dân vẫn còn phiến diện, nghĩa vụ thường không đi
đôi với quyền lợi.
+ Về chế định tổ chức bộ máy nhà nước, chế định này nhằm củng cố và tăng cường quyền lực của giai cấp
tư sản, đàn áp và bóc lột nhân dân lao động. Mục đích của việc ban hành Hiến pháp của giai cấp tư sản là
nhằm hạn chế quyền lực tuyệt đối của nhà vua, tách quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thành các quyền
độc lập và đối trọng lẫn nhau. Hiến pháp tư sản thường tập trung quy định về nguyên tắc tổ chức, thẩm
quyền và hoạt động của bốn cơ quan nhà nước trung ương: Tổng thống, Nghị viện, Chính phủ và Toà án.



×