Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Đề cương pháp luật trong xây dựng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.59 KB, 12 trang )

ĐỀ CƯƠNG PHÁP LUẬT TRONG XÂY DỰNG
I. LÝ THUYẾT

LỜI NÓI ĐẦU
Trong đời sống xã hội, Pháp luật xã hội chủ nghĩa giữ vai trò rất quan
trọng. Xét trên phương diện chung nhất, Luật pháp là công cụ để thiết chế
hóa đường lối chính sách của Đảng, bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng
được thực thi có hiệu quả; là dụng cụ để nhà nước quản lý mọi mặt đời
sống các tầng lớp; là công cụ để nhân dân phát huy dân chủ và quyền làm
chủ, thực hành quyền và bổn phận của mình. Pháp luật với tư cách là nguyên
tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, nó luôn tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ tới
các quan hệ xã hội nói chung, cũng như tới các nguyên tố của thượng tầng chính
trị - pháp lý nói riêng. Sự tác động và ảnh hưởng của Pháp luật biểu thị ở nhiều
mức độ khác nhau tùy thuộc vào từng loại đối tượng và từng loại quan hệ cụ thể
cần có sự điều chỉnh của Luật pháp.
Trong quá trình tiến hành một dự án xây dựng từ khâu khảo sát,
thiết kế, thẩm định thiết kế, thi công, giám sát thi công và nghiệm thu sẽ có
rất nhiều các điều luật, không chỉ của Luật xây dựng mà còn nhiều điều của
các Luật khác ảnh hưởng đến nó. Vì vậy để đi tìm hiểu về những điều luật
của các Luật khác ảnh hưởng như thế nào đến công việc của một người kỹ
sư xây dựng hay một nhà quản lý là rất quan trọng. Điều đó giúp cho người
kỹ sư hay các nhà quản lý có thể tiến hành xây dựng công trình mà không
vi phạm đến các điều khoản đã quy định của Pháp luật, giúp cho công việc
một cách thuận lợi
Xuất phát từ đòi hỏi trên, bằng kinh nghiệm và kiến thức của bản thân,
được sự giảng dạy nhiệt tình về môn “Pháp luật trong xây dựng” của thầy TS.
Đinh Thế Mạnh, tác giả xin được trình bày tiểu luận:
“ Nội dung điều chỉnh các quan hệ trong hoạt động xây dựng của Luật xây
dựng 2014, Luật đấu thầu 2013, Luật đầu tư 2014, Luật đầu tư công. Những
quan điểm của bản thân về một trong những sự điều chỉnh đó thông qua công
việc thực tế đối với mỗi văn bản luật trên”.


Tác giả xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo TS. Đinh Thế
Mạnh đã tận tình giảng dạy và truyền đạt kiến thức quý báu đến chúng em. Kính
chúc thầy và toàn thể gia đình luôn mạnh khỏe, hạnh phúc để luôn duy trì và
thành công trong sự nghiệp giảng dạy các thế hệ học trò sau này./.
Học viên
Nguyễn Cảnh Biên
1


PHẦN 1
NỘI DUNG ĐIỀU CHỈNH NHỮNG QUAN HỆ TRONG HOẠT ĐỘNG
XÂY DỰNG CỦA LUẬT XÂY DỰNG 2014, LUẬT ĐẤU THẦU 2013,
LUẬT ĐẦU TƯ 2014
Pháp luật trong xây dựng nói chung và Luật xây dựng 2014, Luật đấu
thầu 2013, Luật đầu tư 2014, Luật đầu tư công nói riêng điều chỉnh các mối
quan hệ trong hoạt động xây dựng đó là: quan hệ hành chính, quan hệ kinh tế và
quan hệ dân sự.
- Quan hệ hành chính: Đây là quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình
quản lý Nhà nước về mặt hành chính, được điều chỉnh bởi các quy định giữa các
cơ quan, tổ chức, cá nhân mang quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo quy định.
- Quan hệ kinh tế: Là quan hệ sản xuất, mua bán, trao đổi, hàng hóa, dịch
vụ và đầu tư. Trong đó có sự tham gia của một hay nhiều bên: quan hệ giữa nhà
cung cấp và người tiêu dùng, quan hệ giữa nhà cung cấp với nhau, ....
- Quan hệ dân sự: Là quan hệ xã hội trong đó các bên tham gia độc lập về
tổ chức và tài sản, bình đẳng về địa vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ các bên được
Nhà nước bảo đảm thông qua các biện pháp cưỡng chế.
Cụ thể:
1.1. LUẬT XÂY DỰNG 2014
Luật Xây dựng số 50/2014/QH13 ngày 18/6/2014 (gọi tắt là Luật Xây
dựng 2014) do Quốc hội Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ban hành,

có hiệu lực từ ngày 01/01/2015 thay thế Luật Xây dựng 2003; Luật Sửa đổi, bổ
sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản năm 2009.
Luật xây dựng 2014 gồm 10 chương, 168 điều, đây là Bộ Luật quan trọng về lĩnh
vực hoạt động đầu tư xây dựng với những đổi mới căn bản, có tính đột phá
nhằm phân định quản lý các dự án đầu tư xây dựng sử dụng các nguồn vốn khác
nhau thì có phương thức, nội dung và phạm vi quản lý khác nhau. Phạm vi điều
chỉnh của Luật Xây dựng năm 2014 đã điều chỉnh toàn diện các hoạt động đầu
tư xây dựng từ khâu quy hoạch xây dựng, lập báo cáo tiền khả thi, báo cáo khả
thi, lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng cho đến khảo sát, thiết kế,
thi công xây dựng, nghiệm thu, bàn giao, bảo hành, bảo trì công trình xây dựng,
áp dụng đối với các dự án đầu tư xây dựng thuộc mọi nguồn vốn.
1.1.1 Về quan hệ hành chính
Luật Xây dựng 2014 về cơ bản quy định rõ những thủ tục hành chính về
quy trình, thủ tục trong các hoạt động xây dựng như:
- Trình tự lập, phê duyệt quy hoạch xây dựng (Điều 20).
- Thẩm quyền thẩm định nhiệm vụ và đồ án quy hoạch xây dựng (Điều
32).
2


- Thẩm quyền phê duyệt nhiệm vụ và đồ án quy hoạch xây dựng (Điều 34).
- Thẩm quyền thẩm định, phê duyệt thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi
công và dự toán xây dựng (Điều 82).
- Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xây dựng mới (Điều 95).
- Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xây dựng đối với trường hợp di dời công
trình (Điều 97).
- Trình tư, thủ tục xin cấp phép xây dựng nhà ở (Chương V)
1.1.2. Về quan hệ kinh tế
Trong Luật Xây dựng 2014, quan hệ kinh tế được thể hiện rõ trong Mục
2, từ điều 138 đến điều 147 các quy định về Hợp đống xây dựng

- Các loại hợp đồng xây dựng (Điều 140)
- Nội dung hợp đồng xây dựng (Điều 141)
- Thanh toán hợp đồng xây dựng (Điều 144)
- Quyết toán, thanh lý hợp đồng xây dựng (Điều 147)
1.1.3. Về quan hệ dân sự
Trong Luật Xây dựng 2014, quan hệ dân sự được thể hiện các vấn đề như:
- Trách nhiệm quản lý hoạt động đầu tư xây dựng của các cơ quan Nhà
nước (Chương IX)
+ Trách nhiệm của Bộ Xây dựng (Điều 162)
+ Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp (Điều 164)
- Các hành vi bị nghiêm cấm (Điều 12)
- Trách nhiệm lấy ý kiến về quy hoạch xây dựng (Điều 16)
- Quyền và nghĩa vụ của chủ đầu tư trong việc lập và quản lý thực hiện dự
án đầu tư xây dựng (Điều 68)
- Quyền và nghĩa vụ của nhà thầu tư vấn lập dự án, quản lý dự án đầu tư
xây dựng (Điều 70)
- Quyền, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức thẩm định dự án đầu tư xây
dựng (Điều 71).
1.2. LUẬT ĐẤU THẦU 2013
Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 ngày 26/11/2013 (gọi tắt là Luật Đấu
thầu 2013) do Quốc hội Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ban hành,
có hiệu lực từ ngày 01/7/2014. Luật này gồm 13 chương với 96 điều được xây
dựng trên cơ sở sửa đổi toàn diện Luật đấu thầu năm 2005, Luật Sửa đổi, bổ
sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản năm 2009.
1.2.1. Về quan hệ hành chính
3


Luật Đấu thầu 2013 về cơ bản quy định rõ những thủ tục hành chính về
quy trình, thủ tục trong các hoạt động xây dựng như:

- Thời gian trong quá trình lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư (Điều 12)
- Trình duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu (Điều 36).
- Thẩm định và phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu (Điều 37).
- Quy trình lựa chọn nhà thầu (Điều 38).
- Kế hoạch lựa chọn nhà đầu tư (Điều 55).
- Quy trình lựa chọn nhà đầu tư (Điều 56).
- Trình, thẩm định, phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà đầu tư, hồ sơ mời sơ
tuyển, kết quả sơ tuyển, hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu và kết quả lựa chọn nhà
đầu tư (Điều 57).
1.2.2. Về quan hệ kinh tế
Trong luật Đấu thầu 2013, quan hệ kinh tế được thể hiện rõ trong
Chương VIII, Mục 1, Mục 2 từ điều 62 đến điều 72 các quy định về Hợp
đồng
- Loại hợp đồng (Điều 62)
- Điều kiện ký kết hợp đồng (Điều 64)
- Hợp đồng với nhà thầu được lựa chọn (Điều 65)
- Nguyên tắc điều chỉnh hợp đồng (Điều 67)
- Hợp đồng với nhà đầu tư được lựa chọn (Điều 71)
- Bảo đảm thực hiện hợp đồng Hợp đồng (Điều 72)
1.2.3. Về quan hệ dân sự
Trong Luật Đấu thầu 2013, quan hệ dân sự được thể hiện các vấn đề như:
- Trách nhiệm của các bên trong lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư xây
(Chương IX)
+ Trách nhiệm của người có thẩm quyền (Điều 73)
+ Trách nhiệm của Chủ đầu tư (Điều 74)
- Trách nhiệm của bên mời thầu (Điều 75)
- Trách nhiệm của tổ chuyên gia (Điều 76)
- Trách nhiệm của nhà thầu, nhà đầu tư (Điều 77)
- Trách nhiệm của tổ chức thẩm định (Điều 78)
- Trách nhiệm của bên mời thầu tham gia hệ thống mạng đấu thầu quốc

gia (Điều 79)
1.3. LUẬT ĐẦU TƯ 2014
4


Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 ngày 26/11/2014 (gọi tắt là Luật Đầu tư
2014) do Quốc hội Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ban hành, có
hiệu lực từ ngày 01/7/2015 thay thế Luật Đầu tư năm 2005. Luật Đầu tư 2014
gồm 7 chương, 76 điều quy định về hoạt động của nhà đầu tư kinh doanh tại Việt
Nam cũng như quy định về việc đầu tư kinh doanh từ Việt Nam ra nước ngoài.
Luật Đầu tư 2014 đã thể hiện nhiều điểm mới nổi bật so với quy định của Luật
Đầu tư 2005.
1.3.1. Về quan hệ hành chính
Luật đầu tư 2014 về cơ bản quy định rõ những thủ tục hành chính về quy
trình, thủ tục trong các hoạt động đầu tư như:
- Thủ tục áp dụng ưu đãi đầu tư (Điều 17).
- Thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
(Điều 32)
- Hồ sơ, trình tự, thủ tục quyết định chủ trương đầu tư của Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh (Điều 33).
- Hồ sơ, trình tự, thủ tục quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tướng
Chính phủ (Điều 34).
- Hồ sơ, trình tự, thủ tục quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội (Điều 35).
- Thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (Điều 37).
- Thẩm quyền cấp, điều chỉnh và thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư
(Điều 38)
- Hồ sơ, trình tự, thủ tục trình Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ
trương đầu tư ra nước ngoài (Điều 55)
1.3.2. Về quan hệ kinh tế
- Bảo đảm chuyển tài sản của nhà đầu tư nước ngoài ra nước ngoài (Điều 11)

- Bảo đảm đầu tư kinh doanh trong trường hợp thay đổi Pháp luật (Điều 13)
- Thủ tục đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp
(Điều 26).
- Đầu tư theo hình thức hợp đồng đối tác công tư (PPP) (Điều 27)
- Đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) (Điều 28)
- Nội dung hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) (Điều 29)
1.3.3. Về quan hệ dân sự
- Ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh (Điều 6)
- Ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện (Điều 7)
- Thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (Điều 41)
- Trách nhiệm quản lý nhà nước về đầu tư (Điều 68)
5


- Xử lý vi phạm (Điều 73)
1.4. LUẬT ĐẦU TƯ CÔNG 2014
Luật Đầu tư công số 49/2014/QH13 ngày 18/6/2014 (gọi tắt là Luật Đầu tư
công 2014) do Quốc hội Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ban hành,
có hiệu lực từ ngày 01/01/2015. Luật Đầu tư công 2014 gồm 6 chương, 108 điều.
Đây là một trong những dự án Luật quan trọng, liên quan đến việc xác lập thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Luật Đầu tư công quy định việc
quản lý và sử dụng vốn đầu tư công; quản lý Nhà nước về đầu tư công; quyền,
nghĩa vụ và trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân liên quan đến
hoạt động đầu tư công.
1.4.1. Về quan hệ hành chính
Luật đầu tư công 2014 về cơ bản quy định rõ những thủ tục hành chính về
quy trình, thủ tục trong các hoạt động đầu tư công như:
- Trình tự, thủ tục quyết định chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu
quốc gia, dự án quan trọng quốc gia (Điều 19).
- Thủ tục và nội dung thẩm tra chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu

quốc gia, dự án quan trọng quốc gia (Điều 21)
- Trình tự, thủ tục quyết định chủ trương đầu tư chương trình thuộc thẩm
quyền của Chính phủ (Điều 22).
- Trình tự, thủ tục quyết định chủ trương đầu tư dự án nhóm A (Điều 23).
- Trình tự, thủ tục quyết định chủ trương đầu tư chương trình, dự án sử
dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài (Điều 24).
- . Trình tự, thủ tục quyết định chủ trương đầu tư dự án nhóm B, nhóm C
do cơ quan trung ương của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và của tổ chức chính trị xã hội, cơ quan, tổ chức khác quản lý (Điều 25).
- Trình tự, thủ tục quyết định chủ trương đầu tư dự án nhóm B, nhóm C sử
dụng vốn ngân sách trung ương, vốn công trái quốc gia, vốn trái phiếu Chính
phủ, vốn từ nguồn thu để lại cho đầu tư nhưng chưa đưa vào cân đối ngân sách
nhà nước của bộ, cơ quan trung ương (Điều 26)
- Trình tự, thủ tục quyết định chủ trương đầu tư dự án nhóm B, nhóm C sử
dụng vốn ngân sách trung ương, vốn công trái quốc gia, vốn trái phiếu Chính
phủ do địa phương quản lý (Điều 27)
- Nguyên tắc, trình tự, thủ tục quyết định chủ trương đầu tư dự án sử dụng
vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước (Điều 32)
1.4.2. Quan hệ kinh tế
- Chi phí lập, thẩm định, theo dõi, kiểm tra, đánh giá, thanh tra kế hoạch,
chương trình, dự án đầu tư công (Điều 15)
6


1.4.3. Quan hệ dân sự
- Các hành vi bị cấm trong đầu tư công (Điều 16)
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội (Điều 86)
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ (Điều 87)
- Nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, cơ quan trung ương (Điều 90)
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân các cấp (Điều 91)
- Quyền và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến quyết

định chủ trương đầu tư (Điều 97)
- Quyền và trách nhiệm của chủ chương trình, chủ đầu tư liên quan đến
lập chương trình, dự án (Điều 98)
- Quyền và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân quyết định đầu tư
chương trình, dự án (Điều 99)
- Quyền và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến tư
vấn thiết kế chương trình, dự án (Điều 100)
- Xử lý vi phạm (Điều 105)
PHẦN 2
NHỮNG QUAN ĐIỂM CỦA BẢN THÂN VỀ MỘT TRONG NHỮNG SỰ
ĐIỀU CHỈNH THÔNG QUA CÔNG VIỆC THỰC TẾ ĐỐI VỚI LUẬT
XÂY DỰNG (2014), LUẬT ĐẤU THẦU (2013), LUẬT ĐẦU TƯ (2014)
Nhìn chung hiện nay, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống Pháp luật
nói chung và hệ thống Pháp luật về xây dựng của nước ta đã có nhiều tiến bộ.
Quy trình ban hành các Văn bản quy phạm Pháp luật được đổi mới. Nhiều Luật,
Pháp lệnh, Nghị định, Thông tư trong các lĩnh vực mới được ban hành đã tạo
hành lang pháp lý ngày càng hoàn chỉnh để Nhà nước quản lý bằng Pháp luật
trên các lĩnh vực trong hoạt động xây dựng, đầu tư, … Nguyên tắc pháp quyền
xã hội chủ nghĩa từng bước được đề cao và phát huy. Công tác phổ biến và giáo
dục Pháp luật được tăng cường. Những tiến bộ đó đã góp phần thể chế hoá
đường lối của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của Nhà
nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế nói chung và phát triển mạnh công tác xây
dựng cơ bản nói riêng.
Tuy nhiên, qua thực tế thực hiện công việc với cương vị Trưởng phòng
Quản lý xây dựng công trình của Sở Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ, Tác giả
nhận thấy hệ thống Pháp luật nước ta vẫn còn một số hạn chế cần được khắc
phục, đó là:
(1) Các Văn bản Pháp luật về xây dựng chưa thực sự đồng bộ, thiếu nhất
quán (nhiều Văn bản luật còn chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn lẫn nhau
gây rất nhiều khó khăn, rắc rối khi thực hiện).

7


(2) Tính khả thi chưa thật cao, chậm đi vào cuộc sống. Cơ chế xây dựng,
sửa đổi Pháp luật còn nhiều bất hợp lý và chưa được coi trọng đổi mới,
hoàn thiện.
(3) Tiến độ xây dựng Luật và Pháp lệnh còn chậm, Đặc biệt là khi Luật đã
ra đời và đi vào thực hiện hàng năm nhưng các Thông tư, Nghị định
hướng dẫn vẫn chưa ban hành hoàn thiện, không có hướng dẫn cụ thể sẽ
làm cho Văn bản Luật giảm đáng kể tính khả thi của Luật. Vấn đề này
theo tác giả, khi các Văn bản Luật có hiệu lực, Nhà nước ta nên làm tốt
công tác chuẩn bị và ban hành đồng thời các Thông tư, Nghị định để
đảm bảo tính khả thi của Luật. Khi áp dụng các Văn bản Luật trong thực
tế nếu thấy bất cập thì nên ban hành và thay thế Luật, Pháp lệnh, Nghị
định, Thông tư để dễ dàng theo rõi và thực hiện không nên điều chỉnh,
sửa đổi, bổ sung một số điều như hiện nay.
(4) Chất lượng các Văn bản Pháp luật chưa thật cao. Thiết chế bảo đảm thi
hành Pháp luật còn thiếu và yếu.
Cụ thể như sau:
2.1. Đối với Luật Xây dựng 2014
1. Luật Xây dựng năm 2014 không giải thích rõ cụm từ: “vốn ngân sách
Nhà nước” và "vốn Nhà nước ngoài ngân sách" để hiểu được hai cụm từ này
chúng ta lại phải xem thêm Luật Đấu thầu 2013, Luật Đầu tư 2014 và Luật Đầu
tư công 2014 rõ ràng các Luật không đồng bộ với nhau.
2. Về thẩm quyền thẩm định dự án đầu tư quy định tại Điều 57:
Tại Khoản 3 Điều 57: Đối với dự án sử dụng vốn Nhà nước ngoài ngân
sách thì thẩm quyền thẩm định dự án đầu tư xây dựng được quy định như sau:
a) Cơ quan chuyên môn về xây dựng theo phân cấp chủ trì thẩm định
thiết kế cơ sở quy định tại các điểm a, b, đ, e và g Khoản 2 Điều 58 của Luật
này.

b) Cơ quan chuyên môn trực thuộc người quyết định đầu tư chủ trì thẩm
định thiết kế công nghệ (nếu có), các nội dung khác của Báo cáo nghiên cứ khả
thi đầu tư xây dựng.
Vậy, đối với dự án khi sử dụng vốn nhà nước ngoài ngân sách (ví dụ vốn
ODA, WB...) thì các cơ quan chuyên môn về xây dựng chỉ thẩm định thiết kế cơ
sở (ví dụ các cơ quan chuyên môn này ở cấp tỉnh là Sở Xây dựng, Sở Giao
thông vận tải, Sở Nông nghiệp và PTNT, Sở Công thương), nội dung thẩm định
theo các điểm a, b, đ, e và g Khoản 2 Điều 58; còn các cơ quan chuyên môn trực
thuộc người quyết định đầu tư chủ trì thẩm định thiết kế công nghệ (nếu có) và
các nội dung khác của Báo cáo nghiên cứu khả thi (Các cơ quan chuyên môn
trực thuộc người quyết định đầu tư (UBND tỉnh) là các cơ quan chuyên môn nào
nữa?
Ví dụ: Hiện nay, Sở Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ đang trình Sở Xây
dựng thẩm định Tiểu dự án “Nâng cấp công trình cấp nước sinh hoạt xã Xuân
8


Lũng và Xuân Huy, huyện Lâm Thao, thuộc dự Phát triển cơ sở hạ tầng nông
thôn các tỉnh miền núi phía Bắc tỉnh Phú Thọ” sử dụng vốn vay Ngân hàng
Phát triển Châu Á (ADB); đây là công trình hạ tầng kỹ thuật, cấp công trình là cấp
III. Sở Xây dựng Phú Thọ trả lời họ chỉ thẩm định thiết kế cơ sở của Tiểu dự án,
còn các nội dung khác họ không thẩm định. Hiện nay, Sở Nông nghiệp và PTNT
Phú Thọ đang lúng túng không biết triển khai tiếp như thế nào? Và đang có Văn
bản hỏi Bộ Xây dựng cho ý kiến về cơ quan chuyên môn thuộc người quyết định
đầu tư là cơ quan nào thẩm định các nội dung còn lại của Tiểu dự án?.
3. Tương tự Điều 82. Thẩm quyền thẩm định, phê duyệt thiết kế kỹ thuật,
thiết kế bản vẽ thi công và dự toán xây dựng.
- Khoản 1 và khoản 2 điều này nêu: Cơ quan chuyên môn về xây dựng
theo phân cấp chủ trì thẩm định thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công, và dự
toán xây dựng.

- Người quyết định đầu tư phê duyệt thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi
công, và dự toán xây dựng.
Vậy, các công trình, gói thầu về thiết bị và công nghệ như thiết bị nội thất
hành chính thiết bị y tế, thiết bị công nghệ… thì cơ quan nào thẩm định (hiện
UBND tỉnh và Sở Xây dựng vẫn đang loay hoay chưa có hướng thực hiện).
(4) Đối với một dự án cụ thể đã được Người quyết định đầu tư cơ quan
chuyên môn thẩm định, phê duyệt thiết kế, dự toán. Khi thực hiện công trình
hạng mục trong dự án đó việc phát sinh, bổ sung khối lượng thì việc duyệt dự
toán bổ sung, điều chỉnh các chi phí khác thì đơn vị nào thẩm định, phê duyệt dự
toán trên?
Đây là một số bất cập khi ban hành Luật (mặc dù Luật Xây dựng 2014 đã có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2014 những vẫn khó có thể thực hiện, mặt khác các
Nghị định, Thông tư đến nay vẫn chưa được ban hành đầy đủ để hướng dẫn triển
khai thực hiện).
2.2. Đối với Luật Đấu thầu 2013
1. Đối với các gói thầu xây lắp <20 tỷ đồng, thiết bị <10 tỷ đồng là các
gói thầu có quy mô nhỏ và hình thức hợp đồng là gói thầu theo đơn giá trọn gói.
- Hình thức đơn giá này cơ bản đúng nếu công trình là hạng mục xây mới
(nếu đơn vị tư vấn lập chính xác trên các điều kiện yếu tố làm thay đổi thiết kế
là không đáng kể ). Đối với các dự án xây dựng mới thì rất tốt vì nó sẽ tăng
được tính trách nhiệm của các bên liên quan tham gia lập dự án, thiết kế, thẩm
tra, thẩm định, phê duyệt dự án... Nhưng đối với các dự án sửa chữa, cải tạo
nâng cấp thì áp dụng hình thức hợp đồng trọn gói là chưa phù hợp vì: Khi công
trình sửa chữa, cải tạo nâng cấp thì mức độ khảo sát lập dự toán thiết kế ban đầu
không thể chính xác về mặt khối lượng dẫn đến thiếu khối lượng, khi đó sẽ rất
khó giải quyết nhất là khi khối lượng phát sinh lại vượt cả giá gói thầu. (ai là
người chịu trách nhiệm).

9



- Điều 62 quy định: Đối với gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi
tư vấn đơn giản; gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp có quy mô nhỏ
phải áp dụng hợp đồng trọn gói. Như vậy, thế nào là dịch vụ tư vấn đơn giản?.
Khi áp dụng hợp đồng trọn gói, giá gói thầu để làm căn cứ xét duyệt trúng thầu
phải bao gồm cả chi phí cho các yếu tố rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thực
hiện hợp đồng, chi phí dự phòng trượt giá. Giá dự thầu phải bao gồm tất cả các
chi phí cho các yếu tố rủi ro và chi phí trượt giá có thể xảy ra trong quá trình
thực hiện hợp đồng. Tính đến các chi phí cho yếu tố rủi ro thì giá gói thầu được
xác định như thế nào trong trường hợp gói thầu xây lắp, và gói thầu tư vấn? Chi
phí tính rủi ro thế nào? Tính trượt giá ra sao? và các yếu tố khác? đến nay hầu
hết các đơn vị chưa tính được chính xác các yếu tố này vì chưa có hướng dẫn cụ
thể, mặt khác chi phí yếu tố rủi ro trượt giá trong dự toán duyệt thì lấy theo chỉ
số trượt giá hay tính bình quân các công bố giá do Sở xây dựng công bố...
- Đối với các gói thầu tư vấn không còn theo hình thức tỷ lệ % mà là theo
đơn giá trọn gói: Vậy trước khi trình giá gói thầu thì duyệt giá trên thế nào? “ Vì
khi đó chưa có giá trị gói thầu, hoặc giả sử có thì giá đó hoàn toàn chưa chính xác”
(ví dụ công tác khảo sát, phục vụ lập dự án đầu tư).
2. Việc áp dụng hạn mức trong chỉ định thầu:
Tại Điểm e, Khoản 1, Điều 22 Luật Đấu thầu quy định: "Gói thầu cung
cấp sản phẩm, dịch vụ công, gói thầu có giá gói thầu trong hạn mức được áp
dụng chỉ định thầu theo quy định của Chính phủ phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội trong từng thời kỳ."
Đối với nội dung này, tại Điều 54 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định
cụ thể về hạn mức chỉ định thầu như sau:
“1. Không quá 500 triệu đồng đối với gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn,
dịch vụ phi tư vấn, dịch vụ công; không quá 01 tỷ đồng đối với gói thầu mua
sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp, mua thuốc, vật tư y tế, sản phẩm công;
Theo tác giả đối với hình thức chỉ định thầu: Theo Luật Đấu thầu 2005
thực hiện là đối với gói thầu xây lắp < 5 tỷ; tư vấn < 3 tỷ là phù hợp, để tiết kiệm
thời gian, kinh phí trong việc tổ chức đấu thầu. Luật Đấu thầu 2013 điều chỉnh lại

là đối với gói thầu xây lắp < 1 tỷ đồng; tư vấn < 500 triệu đồng là chưa phù hợp.
3. Cần bảo vệ quyền lợi cho người lao động thông qua Luật Đấu thầu:
Thực tế hiện nay nhiều nhà thầu tham gia đấu thầu thường kê khống cho đủ số
lượng lao động để bảo đảm đủ điều kiện năng lực tham gia dự thầu; doanh
nghiệp không nộp hoặc nộp với số lượng rất ít các chế độ bảo hiểm cho người
lao động. Chủ đầu tư không kiểm soát được, trong khi người lao động là đối
tượng bị thiệt thòi nhiều nhất, họ là người trực tiếp tạo ra sản phẩm cho xã hội
nhưng lại không được hưởng chế độ phúc lợi của xã hội. Vì vậy, tác giả cho
rằng, trong Luật Đấu thầu cần đưa vào điều khoản để buộc chủ sử dụng lao động
thực hiện nghĩa vụ với người lao động. Ví dụ: “Nhà thầu không nợ các chế độ
bảo hiểm (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp) của người lao
10


động. Tổng số lao động để chứng minh năng lực sản xuất kinh doanh là số lao
động đăng ký tham gia đóng các chế độ bảo hiểm trong 3 tháng gần nhất tính
đến thời điểm phát hành hồ sơ mời thầu”.
2.3. Đối với Luật Đầu tư 2014
Về danh mục lĩnh vực cấm đầu tư : Tác giả cho rằng quy định tại Luật
chưa rõ ràng, dễ gây khó khăn cho các nhà đầu tư khi thực hiện Luật, do vậy để
thực hiện mục tiêu nhà đầu tư có quyền tự do kinh doanh những ngành nghề mà
pháp luật không cấm và để tạo sự minh bạch trong thực thi nên cần quy định chi
tiết các lĩnh vực cấm đầu tư ngay trong Luật này.
Về lĩnh vực, địa bàn và ưu đãi đầu tư: Luật đầu tư không thay thế được
pháp luật chuyên ngành trong việc quy định chi tiết về ưu đãi đầu tư, vì vậy,
cách quy định liệt kê các hình thức ưu đãi mà không đi vào cụ thể các nội dung
ưu đãi như trong Luật là phù hợp.
Luật cần quy định theo hướng minh bạch, công khai và thể hiện quan
điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề thu hút đầu tư như
ưu tiên những lĩnh vực công nghệ mới, sản xuất vật liệu mới, năng lượng sạch...

Ngoài ra, với những trường hợp dự án đầu tư lớn cần ưu đãi vượt khung
quy định pháp luật, Luật đã quy định thẩm quyền của Chính phủ quy định các
ưu đãi cho các dự án này.
2.4. Đối với Luật đầu tư công 2014
Chúng ta đang cố gắng thực hiện lồng ghép các loại kế hoạch để đảm bảo
tính nhất quán và gắn kết giữa các loại kế hoạch khác nhau. Tuy nhiên, trong
Luật không thấy quy định mối liên quan giữa nội dung của kế hoạch đầu tư công
và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội các cấp. Điều này có thể dẫn đến tình trạng
người ta sẽ lập ra kế hoạch khác và làm mất vai trò quan trọng của kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội đã được quy định rõ trong luật Tổ chức Hội đồng nhân dân/
Ủy ban nhân dân 2003. Tác giả cho rằng, nên quy định kế hoạch đầu tư công là
phần cụ thể hóa các nhiệm vụ, chương trình hành động trong kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội của mỗi cấp. Hơn nữa, việc lập kế hoạch đầu tư công chỉ là việc
làm rõ các nội dung liên quan đến ý tưởng đầu tư nhằm làm rõ tính khả thi của
hoạt động cho cấp ra quyết định đầu tư có thêm cơ sở để quyết.
Việc tham vấn ý kiến của Nhân dân cần được làm rõ để tránh tình trạng
xác định ý tưởng đầu tư tùy tiện. Đầu tư công, suy cho cùng là phục vụ nhân
dân, tuy nhiên, các nguyên tắc quy định trong Luật hiện không thấy rõ vai trò
tham vấn ý kiến cộng đồng. Trong khi đó, nhiều khi ý tưởng đầu tư phải gắn với
nhu cầu của dân. Nhiều chương trình đầu tư phân cấp hiện tại cũng không quy
định chặt chẽ sự tham vấn cộng đồng. Đề nghị Luật nên quy định rõ hơn về vấn
đề này.

11


KẾT LUẬN
Qua bài tiểu luận này giúp tác giả nắm chắc hơn Pháp luật trong các hoạt
động xây dựng; ngoài ra tác giả còn thấy được vấn đề xây dựng và thực thi Pháp
luật là hai mặt hoạt động cơ bản của nền quản trị quốc gia. Chúng ta chỉ có thể

xây dựng và thiết lập nền quản trị quốc gia hữu hiệu khi cả hoạt động xây dựng
Pháp luật và hoạt động thực thi pháp luật đều hiệu quả. Điều đó tất yếu đòi hỏi
công tác soạn thảo các Văn bản Pháp luật (các Bộ Luật, Luật, Pháp lệnh,...) phải
có chất lượng và việc thực thi Pháp luật phải kịp thời, nghiêm minh.
Một lần nữa tác giả xin chân thành cảm ơn Thầy giáo TS. Đinh Thế Mạnh
đã tận tình giúp đỡ chúng em hoàn thành môn học này./.

12



×