Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Phân tích các bước hình thành và các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành dư luận xã hội cho ví dụ cụ thể tác dụng của dư luận xã hội đối với lĩnh vực pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.2 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU

Dư luận xã hội là một hiện tượng xã hội đặc thù thuộc ý thức xã hội. Dư
luận xã hội đã xuất hiện và tồn tại từ lâu trong lịch sử xã hội, nó hình thành, tồn
tại và phát triển cùng với quá trình vận động, phát triển của bản thân xã hội loài
người. Nó có vai trò điều hoà, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội và góp phần
tạo ra sự phát triển cân đối, lành mạnh của xã hội.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng sự xuất hiện của thuật ngữ “dư luận xã
hội” gắn liền với tên tuổi của Jonsonbenri, một nhà hoạt động xã hội học người
Anh. Thừa nhận sự tồn tại và tác động mạnh mẽ của dư luận xã hội, trong nhiều
thế kỉ qua các nhà hoạt động xã hội, các nhà khoa học và các nhà chính trị đã có
sự quan tâm đặc biệt đến việc tim hiểu bản chất, nguồn gốc phát sinh, quá trình
hình thành và cách thức điều chỉnh, định hướng dư luận xã hội. Dư luận xã hội
như một hiện tượng xã hội đặc biệt, năng động và hàm chứa mâu thuẫn biện
chứng giữa cái chung và cái riêng. Để hiểu rõ hơn về dư luận xã hội cũng như
tránh sự nhầm lẫn giữ dư luận xã hội với một số hiện tượng tương tự trong xã
hội em chọn đề tài: “Phân tích các bước hình thành và các yếu tố ảnh hưởng đến
sự hình thành dư luận xã hội? Cho ví dụ cụ thể? Tác dụng của dư luận xã hội đối
với lĩnh vực pháp luật”.
NỘI DUNG
1. Định nghĩa dư luận xã hội
Dư luận xã hội là tập hợp các ý kiến, thái độ có tính chất phán xét, đánh
giá của các nhóm xã hội hay của xã hội nói chung trước những vấn đề mang

1


tính thời sự, có liên quan tới lợi ích chung, thu hút được sự quan tâm của nhiều
người và được thể hiện trong các nhận định hoặc hành động thực tiễn của họ.
2. Sự hình thành dư luận xã hội


Dư luận xã hội không phải ý kiến của một người mà là ý kiến của số
đông người, nhưng dư luận xã hội không phải là tổng cộng các ý kiến phán xét
đánh giá chung của đại đa số trong cộng đồng người. Dư luận xã hội không tự
xuất hiện một cách hoàn chỉnh mà luôn trải qua các bước hình thành và phát
triển. Sự hình thành dư luận xã hội có các quá trình sau:
Trong những điều kiện bình thường, sự hình thành dư luận xã hội trải qua
bốn giai đoạn:
2.1. Giai đoạn hình thành thuộc ý thức cá nhân
Cá nhân trong cộng đồng xã hội được tiếp xúc, làm quen, được trưc tiếp
chứng kiến hoặc nghe kể lại về các sự việc, sự kiện, hiện tượng xảy ra trong xã
hội. Họ tìm kiếm, sưu tập thêm các thông tin, trao đổi với nhau về nó, từ đó nảy
sinh ra suy nghĩ, tình cảm, ý kiến bước đầu về nội dung, tính chất của sự việc, sự
kiện. Nhưng lúc này, các suy nghĩ, tình cảm, ý kiến, bước đầu đó là thuộc về
mỗi người, thuộc lĩnh vực ý thức cá nhân.
2.2. Giai đoạn trao đổi thông tin giữa mọi người
Các ý kiến cá nhân được chia sẻ, trao đổi, bàn luận với nhau trong nhóm
xã hội này là lợi ích chung của nhóm và hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội
đang bị chi phối các khuôn mẫu tư duy và khuôn mẫu hành vi của cá thành viên
trong nhóm. Thông qua quá trình trao đổi, bàn luận, các suy nghĩ, các ý kiến
xung quanh đối tượng của dư luận mà ý kiến đã được trao đổi chuyển dần từ
lĩnh vực ý thức cá nhân sang lĩnh vực ý thức xã hội.
2


2.3. Giai đoạn tranh luận có tính chất tập thể về các vấn đề quan trọng
Ở giai đoạn này, các thông tin, vấn đề không quan trọng, không phù hợp
hoặc những thông tin nhiễu về đối tượng sẽ bị lược bỏ. Các nhóm trao đổi, tranh
luận với nhau về những nội dung quan trọng, đưa ra các ý kiến khác nhau và
thống nhất lại xung quanh những nấn đề cơ bản; cùng tìm đến những điểm
chung trong quan điểm và ý kiến. Từ đó mà hình thành các phán xét, đánh giá

chung thỏa mãn được của đại đa số các thành viên trong cộng đồng người. Cơ sở
cho quá trình tranh luận này vẫn là lợi ích chung và là hệ thống các giá trị, chuẩn
mực chung cũng được các nhóm xã hội chia sẻ và thừa nhận.
2.4. Giai đoạn đi từ dư luận xã hội đến hành động thực tiễn
Nếu như luồng dư luận xã hội chỉ hình thành một cách thuần túy rồi để
đấy, chẳng có vai trò, tác dụng gì đối với cộng đồng thì có lẽ nó chỉ là hiện
tượng vô nghĩa. Trên thực tế, vấn đề không chỉ dừng lại ở đấy. Từ sự phán xét
đánh giá chung, các nhóm xã hội và cộng đồng xã hội đi tới hành động thống
nhất, nêu lên những kiến nghị, những biện pháp về hoạt động thực tiễn của họ
trước thực tế cuộc sống nhất định.
Như vậy, dư luận xã hội là sản phẩm của quá trình giao tiếp xã hội. Không
có sự trao đổi bàn bạc, thao luận, thậm chí va đập các ý kiến với nhau thì không
thể có ý kiến phán xét, đánh giá chung được đông đảo mọi người chia sẻ, tán
thành và ủng hộ.
Sự phân chia quá trình hình thành dư luận xã hội thành bốn giai đoạn nêu
trên không có nghĩa là mọi dư luận xã hội đều phải trải qua bốn giai đoạn ấy:
- Thông thường sự tuân thủ cả bốn giai đoạn nêu trên chỉ diễn ra khi đối
tượng của dư luận xã hội là các sự kiện, hiện tượng xã hội mới và phức
3


tạp. Khi đa số người dân chưa có hoặc chưa xác định được thái độ, cách
ứng xử phù hợp với thực tế cuộc sống thì khi đó, sự hình thành dư luận
xã hội có thẻ kéo dài hàng tháng, hàng năm, thậm chí lâu hơn. Cũng có
nhiều trường hợp dư luận xã hội hình thành một cách tức thời, nhanh
chóng, phổ biến, lan truyền mạnh mẽ trước những biến cố đặc biệt như
thiên tai, chiến tranh, những vụ giết người dã man… Đây là lúc lợi cơ
bản, hệ thống giá trị, chuẩn mực xã hội, luân lí, đạo đức của cộng đồng
xã hội bị xâm hại nặng nề, dẫn tới trạng thái phản ứng tức thì của người
dân được hội tụ trong các luồng dư luận xã hội phản đối hay đồng tình

với các vấn đề nhất định.
- Việc duy trì sự quan tâm của người dân đối với vấn đề đang diễn ra trong
xã hội là một trong những điều kiện tiên quyết cho việc hình thành dư
luận xã hội. Không phải sự việc, sự kiện nào cũng thu hút được sự quan
tâm, chú ý, hay tranh luận cho cả nhóm xã hội khác nhau trong xã hội. Sở
dĩ, như vậy là do thiếu các thông tin về sự việc, sự kiện. Các cá nhân hay
nhóm xã hội, nếu không được tiếp nhận thông tin thì không thể có bất cứ
ý kiến chủ động nào. Hoặc có những các nhân hay nhóm xã hội sẽ rút ra
khỏi cuộc thảo luận khi phát hiện ra rằng lợi ích của họ không có liên
quan gì đến vấn đề đang diễn ra. Do đó, cần có cách nhìn nhận và hoạt
động thực tế nghiêm túc để đảm bảo cung cấp thông tin một cách rộng rãi
tới đông đảo các tầng lớp nhân dân.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành dư luận xã hội
Dư luận xã hội không tự nhiên mà có, sự hình thành dư luận xã hội phụ
thuộc vào nhiều điều kiện, yếu tố khác nhau, cả chủ quan và khách quan về kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội, trình độ nhận thức, tâm lí xã hội,... Các yếu tố
chính tac động tới sự hình thành dư luận xa hội là:
4


3.1. Tính chất của các sự việc, sự kiện, hiện tượng xã hội, quá trình xã hội
đang diễn ra trong xã hội.
Thực tế xã hội luôn diễn ra đa dạng, phong phú và phức tạp với nhiều sự
việc, sự kiện, hiện tượng xã hội hay quá trình xã hội khác nhau. Dư luận xã hội
là hiện tượng tinh thần phản ánh tồn tại xã hội. Sự phản ánh đó trước hết phụ
thuộc vào quy mô, cường độ và tính chất của các sự việc, sự kiện, hiện tượng xã
hội mà nó phản ánh. Đồng thời nó cũng phụ thuộc vào ý nghĩa của các sự việc,
sự kiện đó đối với các nhu cầu, lợi ích về vật chất hay tinh thần của cộng đồng
người mang dư luận. Khuynh hướng chung của các ý kiến đánh giá và thái độ
của công chúng là bày tỏ sự tán thành, ủng hộ đối với phê phán hay phản đối với

những sự việc, sự kiện đi ngược lại, xâm hại tới lợi ích của họ. Trong thực tế xã
hội có những sự việc, sự kiện xảy ra ban đầu chỉ ảnh hưởng tới lợi ích của nhóm
xã hội khác. Trong bối cảnh đó, các nhóm xã hội sẽ bước vào cuộc trao đổi ý
kiến, thảo luận tại thời điểm khác nhau. Bên cạnh đó, những sự kiện, hiện tượng
có ảnh hưởng mạnh mẽ, trực tiếp đến đại đa số người dân như dịch bệnh, thiên
tai, đồng tiền mất giá,… sẽ tạo ra các luồng dư luận xã hội nhanh chóng chỉ
trong thời gian ngắn.
Như vậy, muốn nghiên cứu, tìm hiểu nguồn gốc phát sinh dư luận xã hội thì
phải xuất phát từ chính bản thân dư luận xã hội với quy mô, cường độ và tính
chất của chúng.
3.2. Hệ tư tưởng, trình độ học vấn, kiến thức, hiểu biết, kinh nghiệm thực
tế xã hội của con người.
Sự hình thành dư luận xã hội phụ thuộc vào hệ tư tưởng, trình độ học vấn,
kiến thức, kinh nghiệm thực tế xã hội của các cá nhân, của các nhóm xã hội
trong xã hội. Nói cách khác là mức độ chuẩn bị của cộng đồng người để tiếp
5


nhận các sự việc, sự kiện, hiện tượng cần thiết. Nếu thông tin không đầy đủ thì
dẫn tới khả năng tranh luận kéo dài, không hình thành dư luận xã hội. Hệ tư
tưởng, trình độ học vấn của con người cũng ảnh hươngr quan trọng tới khuynh
hướng, chiều sâu, tính chất phản ánh đúng hay sai của các ý kiến, các quan điểm
phán xét, đánh giá đối với sự việc, sự kiện. Chẳng hạn, ở những nhón xã hội có
trình độ học vấn cao, các cá nhân có thể dễ dàng tiếp cận nguồn thông tin, phân
tích một cách khoa học về nội dung, bản chất, nguồn gốc, nguyên nhân của sự
việc, sự kiện,… từ đó mà đưa ra các phán xét, đánh giá phù hợp về sự việc góp
phần hình thành những dư luận xã hội tích cực, có lợi cho cộng đồng, cho dân
tộc hay quốc gia. Ngược lại, ở những nhóm xã hội có trình độ học vấn thấp,
người ta có thể dễ dàng tin tưởng vào những điều nhảm nhí, những tin tức thất
thiệt, vô tình tham gia vào việc làm lan truyền những tin đồn nhảm, gây hậu quả

xấu cho các cá nhân, các nhóm xã hội.
3.3. Thông tin đại chúng
Hoạt động của hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng bao gồm báo,
tạp chí, phát thanh, truyền hình, ấn phẩm in, mạng máy tính,.v.v..có tác động,
ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự hình thành dư luận xã hội. Điều đó thể hiện trên ba
phương diện cơ bản sau:
Thứ nhất, các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp thông tin, truyền tải
kịp thời và đầy đủ thông tin về các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội: Việc
đáp ứng sở thích và nhu cầu thông tin của công chúng được coi là một trong
những tiền đề cơ bản cho sự phát triển của hệ thống truyền thông đại chúng.
Trên phương diện này, hệ thống truyền thông đại chúng ở nước ta đã có những
bước tiến nổi bật trong những năm đổi mới. Các chương trình phát thanh, truyền
hình, xuất bản phẩm trở nên đa dạng, phong phú hơn, cập nhật hơn với các

6


thông tin về đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hộicủa đất nước; sự phản
ánh nội dung các thông tin cũng xhaan thực và khách quan hơn.
Thứ hai, các phương tiện thông tin đại chúng là diễn đàn ngôn luận công
khai: Ngày nay trình độ dân trí của người dân nâng cao. Các tầng lớp nhân dân
cũng ngày càng tham gia rộng rãi hơn vào đời sống chính trị - xã hội của đất
nước. Trong bối cảnh đó, các phương tiện thông tin đại chúng có trách nhiệm
truyền tải thông tin về các ý kiến phán xét, đánh giá, thái độ của công chúng đối
với sự kiện, hiện tượng diễn ra trong đời sống xã hội. Bằng cách này công chúng
sẽ có được cơ hội tham gia ngày càng tích cực và có trách nhiệm hơn vào quá
trình chuẩn bị, thực hiện, giám sát và đánh giá các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước cũng như các hoạt động cụ thể, thường xuyên của các tổ
chức chính quyền.
Thứ ba, các phương tiện thông tin đại chúng điều chỉnh, định hướng sự phát

triển của dư luận xã hội: Hệ thống truyền thông đại chúng phải dành phần thích
đáng cho việc đăn tải các thông tin đã được kiểm chứng chính thức và mang tính
định hướng xây dựng. Đặc biệt, khi các sự vật, sự kiện diễn ra có tầm quan trọng
và liên quan đến lợi ích của đất nước, của dân tộc, đụng chạm đến các giá trị,
chuẩn mực xã hội cơ bản, khi đó định hướng thông tin phải phản ánh được quan
điểm của Đảng và Nhà nước, ý kiến chính thức của các cơ quan chức năng và
phản ánh được sự phán xét, đánh giá chung của xã hội.
3.4.

Những nhân tố thuộc về tâm lý xã hội
Trạng thái tâm lý xã hội thường biểu hiện ở nhiều nhân tố như thói quen,

nếp sống, ý chí, tâm trạng hay tình cảm của nhóm xã hội, cộng đồng người đã
được hình thành do ảnh hưởng trực tiếp của các điều kiện sống, lao động, sinh
hoạt hàng ngày hoặc do tác động của công tác tuyên truyền, giáo dục. Ảnh
hưởng của những nhân tố này có nhiều mặt đôi khi khó nhận biết. Tùy từng thời
7


điểm nhất định, tâm trạng của con người có thể được thể hiện ở các trạng thái
khác nhau, thậm chí đối lập nhau như: Hưng phấn hoặc ức chế, tích cực hoặc
tiêu cực, lạc quan hoặc bi quan, yêu đời hoặc chán nản, hy vọng hoặc thất vọng,
… Khi con người đang ở trong tâm trạng phấn chấn, hồ hởi thì nội dung phán
xét, đánh giá về sự kiện, hiện tượng có những khía cạnh khác với khi đang ở
trong tâm trạng bi quan, chán nản. Thường khi phấn chấn, lạc quan thì thấy
nhiều thuận lợi hơn, ít thấy khó khăn và ngược lại. Những nếp nghĩ bỏa thủ, di
sản của quá khứ cũng có thể ảnh hưởng tới sự hình thành dư luận xã hội nếu
không có sự định hướng đúng đắn.
3.5.


Hoàn cảnh sinh hoạt chính trị - xã hội
Mức độ dân chủ hóa đời sống xã hội, khả năng và sự tham gia thực tế của

người dân và sinh hoạt chính trị - xã hội của đất nước có ảnh hương tới sự hình
thành dư luận xã hội. Trong điều kiện xã hội có dân chủ rộng rãi, có thông tin đa
dạng, phong phú thì mọi người dân sẵn sang thẳng thắn, cởi mở, bộc lộ các ý
kiến, quan điểm của mình, tham gia, bàn bạc các vấn đề chung do vậy dư luận
xã hội có điều kiện hình thành thuận lợi. Ngược lại, trong điều kiện xã hội thiếu
dân chủ, thông tin nghèo nàn, thậm chí bị cắt xén, xuyên tạc thì dư luận xã hội
thường hình thành khó khăn, chậm chạp. Dưới các chế độ độc tài, phát xít, mọi
quyền dân chủ bị thủ tiêu, dư luận xã hội càng khó hình thành và phát huy tác
dụng, khi đó nó thường biểu hiện dưới hình thức biểu tượng, hò vè, tiếu lâm,
châm biếm.
3.6.

Các phong tục tập quán, hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội đang
hiện hành trong xã hội
Các phong tục tập quán, hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội đang hiện

hành trong chừng mực nhất định tác động tới sự hình thành dư luận xã hội. Về
8


cơ bản, các phong tục tập quán, các giá trị, chuẩn mực xã hội hiện hành tạo ra
những khuôn mẫu tư duy, khuôn mẫu hành động làm cơ sở cho sự phán xét,
đánh giá của dư luận xã hội về các sự kiện, hiện tượng, quá trình xã hội đang
diễn ra trong xã hội. Ngay trong cùng xã hội, các nhóm xã hội có thể đưa ra các
phán xét, đánh giá khác nhau về cùng vấn đề. Điều này thể hiện rõ nét qua sự
nhìn nhận khác nhau giữa các thế hệ đối với những biểu hiện của lối sống hiện
đại như cách ăn mặc, các sản phẩm ca nhạc và phim ảnh, cách sinh hoạt, vui

chơi, giải trí,…
4. Tác dụng của dư luận xã hội đối với lĩnh vực pháp luật
4.1. Tác dụng của dư luận xã hội trong hoạt động xây dựng pháp luật
4.1.1. Định ngĩa xây dựng pháp luật
Xây dựng pháp luật là quá trình hoạt động của cơ quan, tổ chức hoặc cá
nhân có thẩm quyền theo trình tự và thủ tục do pháp luật quy định nhằm ban
hành ra các quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích
của nhà nước.
4.1.2. Tác dụng của dư luận xã hội trong hoạt động xây dựng pháp luật
Một là, dư luận xã hội là sự thể hiện lợi ích chung thông qua tiếng nói
chung của nhân dân, nên nó là điều kiện cần thiết để các tầng lớp nhân dân phát
huy quyền làm chủ, mở rộng nền dân chủ xã hội, tích cực tham gia vào hoạt
động xây dựng pháp luật. Như đã nói ở trên, các tầng lớp nhân dân là chủ thể
rộng rãi của hoạt động xây dựng pháp luật. Hiến pháp của nhà nước ta đã khẳng
định nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, đồng thời, thiết lập cơ
chế bảo đảm sao cho việc thực thi quyền lực nhà nước phục vụ cho lợi ích của
9


nhân dân và luôn nằm dưới sự kiểm soát của nhân dân. Dưới chế độ ta, nhân dân
thực hiện quyền lực nhà nước thông qua hai hình thức cơ bản là dân chủ trực
tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ trực tiếp là hình thức nhân dân trực tiếp thể
hiện ý chí và nguyện vọng của mình. Đây là hình thức hữu hiệu tạo cho nhân
dân, với tư cách là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước, khả năng
tham gia tích cực và chủ động vào các hoạt động của Nhà nước, trong đó có hoạt
động xây dựng pháp luật. Dân chủ đại diện là hình thức cơ bản mà thông qua đó,
nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước, vận hành theo quy định của Hiến pháp.
Theo cơ chế này, nhân dân bầu ra cơ quan đại diện. Cơ quan đại diện trực tiếp
nhận quyền lực từ nhân dân nên còn được gọi là cơ quan quyền lực nhà nước,
trong đó Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Hội đồng nhân dân

là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.
Hai là, dư luận xã hội là nguồn thông tin phản hồi có ý nghĩa rất quan
trọng và thiết thực đối với quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật
và văn bản quy phạm pháp luật dưới luật, đối với việc ban hành các quyết định
của các cá nhân, nhà chức trách có thẩm quyền. Để có được các văn bản pháp
luật sát thực tế, các văn bản quyết định quản lý hành chính nhà nước đúng đắn,
có tính khả thi cao, trước khi xây dựng, soạn thảo các dự án luật hay ban hành
các quyết định, các cơ quan lập pháp, cơ quan quản lý phải nắm bắt được thực
trạng tư tưởng, tâm lý của các đối tượng xã hội mà văn bản pháp luật, quyết định
nhằm vào. Mọi chủ trương, chính sách pháp luật khó có thể trở thành hiện thực
nếu không hợp lòng dân, không được nhân dân ủng hộ. Khi đã có được các dự
án luật, các thông tin phản hồi lại càng quan trọng. Mọi vướng mắc, lệch lạc
trong quá trình triển khai thực hiện các văn bản pháp luật, do nhiều yếu tố khó
lường trước, đều được bộc lộ qua dư luận xã hội. Dư luận xã hội là một trong
các cơ sở thông tin phản hồi giúp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đưa ra
các quyết định, văn bản phù hợp long dân. Dư luận xã hội có tác dụng phát hiện
10


những thiếu hụt, khe hở, trong các văn bản quy phạm pháp luật, giúp cho Nhà
nước có biện pháp sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh một cách kịp thời các văn bản
pháp luật còn khiếm khuyết, tháo gỡ các vướng mắc, khó khăn phát sinh trong
quá trình tổ chức thực hiện pháp luật.
Ba là, dư luận xã hội không mang tính pháp lý nhưng nó lại có sức mạnh
rất to lớn trong việc định hướng và điều chỉnh hành vi, hoạt động của các thành
viên trong xã hội. Trong hoạt động xây dựng pháp luật , các cá nhân, nhà chức
trách có thẩm quyền , với tư cách chủ thể xây dựng pháp luật, cần phải biết lắng
nghe dư luận xã hội một cách nghiêm túc và phân tích nó một cách khoa học để
có thể rút ra được những kết luận chính xác về thực trạng cuả những lĩnh vực
quan hệ xã hội đang cần có pháp luật điều chỉnh. Nhờ đó, Nhà nước ta có thể

ban hành pháp luật một cách kịp thời, đồng bộ và hiệu quả, tác động đúng phạm
vi, đúng đối tượng cần điều chỉnh. Góp phần tăng cường vai trò và hiệu lực của
công tác quản lý xã hội bằng pháp luật.
4.2. Tác dụng của dư luận xã hội trong hoạt động thực hiện pháp luật
4.2.1. Định nghĩa thực hiện pháp luật
Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho các
quy định của pháp luật đi váo thực tiễn cuộc sống, trở thành những hành vi thực
tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
4.2.2. Tác dụng của dư luận xã hội trong hoạt động thực hiện pháp luật
Dư luận xã hội có tác động mạnh mẽ tới hoạt động thực hiện pháp luật. Dư luận
xã hội gắn liền với ý chí của cộng đồng, của các nhóm xã hội nên nó có tác động
mạnh mẽ đến suy nghĩ và hành động của các cá nhân. Trong một chừng mực
nhất định, người ta có thể không sợ sự trừng phạt của pháp luật khi thực hiện
11


những hành vi sai trái, phạm pháp, nhưng lại rất sợ sự phê phán, lên án của dư
luận xã hội – một thứ “luật bất thành văn”. Trong điều kiện xã hội có nền dân
chủ rộng rãi , dư luận xã hội được coi là phương tiện kiểm tra xã hội đối với ý
thức pháp luật và hành vi pháp luật của mỗi người. Dưới áp lực của dư luận xã
hội, mối người luôn phải xem xét, suy nghĩ, kiểm định trước khi thực hiện một
hành vi pháp luật nào đó. Những câu hỏi luôn phải được mỗi người đặt ra, như
hành vi đó đúng hay sai? Có phù hợp với các chuẩn mực pháp luật hiện hành
hay không ? Nếu thực hiện thì có được dư luận xã hội ủng hộ, đồng tình hay sẽ
bị dư luận xã hội lên án? Nhờ đó, ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật trong mỗi
chủ thể cũng được nâng lên một bước.
4.3. Tác dụng của dư luận xã hội trong hoạt động áp dụng pháp luật
4.3.1. Định nghĩa áp dụng pháp luật
Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực nhà
nước, được thực hiện thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức

trách hoặc các tổ chức xã hội khi được nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hóa
các quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức
cụ thể.
4.3.2. Tác dụng của dư luận xã hội trong hoạt động áp dụng pháp luật
Dư luận xã hội có áp lực đối với hoạt động áp dụng pháp luật. Một trong
những chức năng cơ bản của dư luận xã hội là chức năng giám sát. Chức năng
giám sát, tư vấn của dư luận xã hội được thể hiện rõ nét nhất khi đối tượng phán
xét của dư luận xã hội là các hoạt động của cơ quan nhà nước, chính quyền các
cấp, trong đó có hoạt động của các cơ quan thực thi và bảo vệ pháp luật. Dư luận
xã hội thực hiện chức năng giám sát đối với các hoạt động này. J.J. Rousseau đã
đánh giá rất cao mối quan hệ giữa dư luận xã hội và cơ quan Tư pháp, Ông cho
12


rằng: “Luật pháp công bố ý chí của toàn dân, chức quan tư pháp nói lên lời phán
xét công cộng. Dư luận công chúng là một thứ luật, mà quan tư pháp là bộ
trưởng chấp hành… Tòa án Tư pháp không phải là người trọng tài xét xử dư
luận công chúng, nó chỉ là người công bố dư luận công cộng mà thôi. Xa rời
chức năng đó thì mọi quyết định của Tòa án đều là vớ vẩn và vô hiệu”, hoặc “
Dư luận công chúng không hề khuất phục sự cưỡng chế, nhưng không để lại một
vết tích nào trong Tòa án; mặc dầu Tòa án được thiết lập ra cốt để đại diện cho
dư luận công chúng”. Mọi hoạt động của các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền áp
dụng pháp luật đều bị đặt dưới “ống kính”, “tầm ngắm” của dư luận xã hội; bằng
cách đó, nó gây áp lực lên hoạt động xây dựng pháp luật. Áp lực mà dư luận xã
hội tạo ra khiến cho họ luôn phải chú trọng đến chất lượng, hiệu quả của hoạt
động áp dụng pháp luật.
Dư luận xã hội thường lên tiếng tố cáo, tố giác những hành vi phạm tội,
giúp các cơ quan chức năng một cách tích cực trong công tác điều tra, phá án.
Dư luận xã hội bày tỏ sự đồng tình với những bản cáo trạng, những bản án đúng
người, đúng tội, có lý, có tình; đồng thời phản đối những bản án chưa phù hợp

với tội danh. Qua đó nó góp phần tăng cường hiệu quả của hoạt động xét xử và
bảo vệ pháp luật. Việc dư luận xã hội phê phán, lên án mạnh mẽ các hành vi
phạm pháp, phạm tội cũng sẽ khiến cho bản thân các cán bộ, công chức tham gia
hoạt động áp dụng pháp luật phải luôn có ý thức điều chỉnh hành vi và hoạt động
chuyên môn của mình đáp ứng mong đợi của dư luận xã hội.
KẾT LUẬN
Như trên đã phân tích về tính chất, tác dụng của dư luận trong đời sống xã
hội nói chung và lĩnh vực pháp luật nói riêng nhưng lâu nay việc nghiên cứu về
dư luận xã hội trong xã hội, đặc biệt là những tác động qua lại giữa dư luận xã
13


hội và pháp luật ở nước ta có phần chưa được quan tâm đúng mức. Trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, thì pháp luật không chỉ là sự áp đặt ý chí từ phía nhà nước mà trong
nó phải thể hiện được ý chí, nguyện vọng của các đối tượng tham gia thị trường,
phải thực hiện pháp luật nên việc nghiên cứu dư luận xã hội lại càng cần thiết và
phải được đẩy mạnh hơn. Để làm được việc này đòi hỏi sự quan tâm đúng mức
hơn của các cấp, các nghành tới dư luận xã hội, không xem thường, coi nhẹ dư
luận xã hội, cần tập trung nghiên cứu đầy đủ hơn về dư luận xã hội, những mặt
tích cực và hạn chế của nó, khai thác nó phục vụ các hoạt động kinh tế - xã hội
của đất nước. Việc coi trọng dư luận xã hội phải được coi như là một trong
những biểu hiện của nền dân chủ xã hội. Đó là điều kiện cần thiết để nhân dân
phat huy quyền làm chủ của mình, để mở rộng nền dân chủ xã hội. Thông qua
dư luận xã hội, nhân dân có điều kiện bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình về các
vấn đề kinh tế, chính trị, pháp luật, đạo đức, xã hội… Các cơ quan nhà nước, các
cán bộ, công nhân viên chức phải biết dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân
dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân qua con đường chính thức do pháp luật quy
định cũng như qua con đường dư luận xã hội vô cùng hữu ích.


14


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường đại học Luật Hà Nội, Ngọ Văn Nhân chủ biên, Tập bài giảng xã
hội học, Nxb. CAND, Hà Nội, 2008.
2. Ngọ Văn Nhân, xã hội học pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2010
3. Chung Á - Nguyễn Đình Tấn, Nghiên cứu xã hội học, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1996.
4. Thanh Lê – Tuệ Nhân, Xã hội học chuyên biệt, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội, 2000.
5. Lương Khắc Hiếu chủ biên, Dư luận xã hội trong sự nghiệp đổi mới, Nxb.
Chính trị quốc gia Hà Nội, 1999.
6. Nguyễn Qúy Thanh, Xã hội học về dư luận xã hội, Nxb. Đại học quốc gia
Hà Nội, Hà Nội, 2006.
7. Ngọ Văn Nhân, “Phát huy vai trò của dư luận xã hội đối với công tác
phòng, chống các hành vi tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ
sở ở nước ta hiện nay”, Tạp chí luật học, số 8/2007.

15


16



×