Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Quan điểm của lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước và sự vận dụng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.26 KB, 67 trang )

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế quốc tế và cuộc cách mạng khoa
học công nghệ diễn ra mạnh mẽ khiến cho đời sống xã hội có nhiều thay đổi
nhanh chóng.
Đặc biệt hơn 20 năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn
dân, công cuộc đổi mới nớc ta đã đạt đợc những thành tựu to lớn về kinh tế xã hội kinh tế tăng trởng khá mạnh, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa
đợc đẩy mạnh, đời sống nhân dân đợc cải thiện rõ rệt, vị thế nớc ta trên trờng
quốc tế không ngừng đợc nâng cao. Những thành tựu đó đã chứng tỏ đờng
lối đổi mới của nớc ta là đúng đắn, sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN ra đời gắn với công cuộc đổi
mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xớng và lãnh đạo. Tuy mới đợc xây
dựng và đã có những bớc phát triển đáng kể trong nhận thức về kinh tế thị trờng định hớng XHCN, song đây vẫn là vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức
mới mẻ và phức tạp, đòi hỏi chúng ta vừa làm vừa nghiên cứu để có bớc đi
phù hợp, gắn bó giữa việc nhận thức sâu sắc tính quy luật khách quan với
phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của Đảng Cộng sản, Nhà nớc XHCN và
nhân dân lao động. Vì vậy, có nhiều vấn đề cần phải tíêp tục đợc làm sáng tỏ
và nhận thức thống nhất.
Có thể nói rằng, trong thành tựu phát triển kinh tế xã hội của Việt
Nam thời kỳ đổi mới, không thể không nói đến sự đóng góp quan trọng của
CNTBNN. Chủ nghĩa t bản Nhà nớc chiếm một tỷ trọng đáng kể trong vốn
đầu t xã hội góp phần quan trọng gia tăng kim ngạch xuất khẩu đẩy nhanh
tốc độ phát triển công nghiệp và dịch vụ, tạo ra tác động tổng hợp trong việc
tăng năng lực sản xuất, nâng cao trình độ công nghệ đào tạo và bồi dỡng một
đội ngũ chuyên gia, các nhà quản lý và công nhân lành nghề, làm thay đổi rõ
rệt bộ mặt của nông thôn và thành thị ở nớc ta, thu hẹp dần khoảng cách về
trình độ phát triển của Việt Nam trên thế giới.
Nhận thức đợc tầm quan trọng vấn đề này Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VIII đã khẳng định: Kinh tế t bản nhà nớc có vai trò quan trọng trong
việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản
lý...cũng nh công cuộc xây dựng đất nớc.


Trong tình hình đó vấn đề phát triển CNTBNN dới sự điều tiết và kiểm
soát của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà nớc Việt Nam trong quá trình phát
triển kinh tế thị trờng định hớng XHCN là sự cần thiết khách quan. Cho đến
nay đã có không ít cuốn sách, công trình nghiên cứu, bài báo viết về
CNTBNN, nhng thực tế vẫn còn những nhận thức khác nhau về khái niệm,


nội dung cũng nh xu hớng quan điểm và giải pháp phát triển của CNTBNN.
Bởi vậy việc tiếp tục nghiên cứu để đi tới nhận thức đúng đắn chính xác là
một công việc cấp thiết. Xuất phát từ đó tôi chọn đề tài: "Quan điểm của
Lênin về Chủ nghĩa t bản Nhà nớc và sự vận dụng trong nền kinh tế thị trờng
ở nớc ta hiện nay" làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Từ khi Đảng và Nhà nớc ta thực hiện chính sách phát triển kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, đặc biệt chính sách phát triển kinh tế t bản t
nhân và hớng nó vào con đờng của chủ nghĩa t bản Nhà nớc cùng với chính
sách đẩy mạnh thu hút vốn đầu t nớc ngoài thì hình thức chủ nghĩa t bản Nhà
nớc thực sự trở thành và có xu hớng phát triển. Cũng vì thế việc nghiên cứu
về chủ nghĩa t bản Nhà nớc nói chung đợc giới lý luận và hoạt động thực tiễn
ở nớc ta quan tâm.
Ngay từ năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hoan nghênh t bản nhà
nớc vào đầu t ở nớc ta, nhng trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi và bình
đẳng, chứ không phải vào để ràng buộc áp chế. Khi trả lời một nhà báo nớc
ngoài phỏng vấn Hồ Chủ Tịch về thái độ của Việt Nam đối với t bản ngoại
quốc sau khi giành đợc độc lập, Ngời nói: "Sau 80 năm bị thực dân Pháp vơ
vét, bóc lột và mấy năm bị thực dân Pháp tàn phá, cớp bóc, nớc Việt Nam
độc lập cần phải ra sức kiến thiết. Bất kỳ nớc nào (gồm cả Pháp) thật thà
muốn đa t bản đến kinh doanh ở Việt Nam với mục đích làm lợi cho cả hai
bên, thì Việt Nam sẽ rất hoan nghênh. Bất kỳ nớc nào (gồm cả nớc Pháp)
mong đa t bản đến để ràng buộc áp chế Việt Nam sẽ kiên quyết cự tuyệt"

(Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 3, Nxb Sự thật, 1984).
Trong thời gian gần đây đã có một số công trình nghiên cứu khá công
phu nh cuốn "Mấy vấn đề về chủ nghĩa t bản Nhà nớc" của đồng tác giả Vũ
Hữu Ngoạn - Khổng Doãn Hợi do Nxb Chính trị quốc gia phát hành năm
1993. Trong cuốn này, hai tác giả đã trình bày một cách tơng đối có hệ thống
lý luận cơ bản của VI. Lênin về chủ nghĩa t bản Nhà nớc và nêu lên những
định hớng cơ bản vận dụng lý luận đó vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nớc ta.
- Cuốn sách "Những đỉnh cao chỉ huy cuộc chiến vì nền kinh tế thế
giới". ở cuốn sách này đã trình bày toàn bộ lịch sử kinh tế của thế kỷ XX.
Nhng bất ngờ hơn hết cho tất cả mọi ngời khi "ông tổ" đầu tiên hiểu và đa ra
khái niệm những đỉnh cao chỉ huy lại là ngời cộng sản - một lãnh tụ của chủ
nghĩa cộng sản VI. Lênin.
- Luận án PTS Khoa học kinh tế với đề tài: "Học thuyết Lênin về chủ
nghĩa t bản Nhà nớc và sự vận dụng ở thành phố Hồ Chí Minh" của tác giả
Nguyễn Chơn Trung (1996).


Bản Luận án của tác giả chủ yếu đi sâu phân tích thực trạng phát triển
của chủ nghĩa t bản Nhà nớc ở thành phố Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó tác giả
đề xuất những phơng hớng và giải pháp cơ bản nhằm phát triển hơn nữa chủ
nghĩa t bản Nhà nớc ở thành phố Hồ Chí Minh.
- Ngoài ra còn có những cuộc Hội thảo khoa học về lý luận và thực
tiễn vận dụng chủ nghĩa t bản Nhà nớc đợc tổ chức ở thành phố Hồ Chí Minh
và Hà Nội. Một số công trình nghiên cứu về chủ nghĩa t bản Nhà nớc đã đợc
nghiệm thu nh đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Kinh tế t bản Nhà nớc và
sự vận dụng trên địa bàn Hà Nội" của trờng đại học Kinh tế Quốc dân; hoặc
đã đợc công bố rải rác trên các sách báo và tạp chí nh các công trình của các
tác giả: Nguyễn Văn Thức, Trần Anh Phơng...
Song, các tài liệu trên vẫn còn những điểm cha thống nhất về khái

niệm, nội dung của chủ nghĩa t bản Nhà nớc, vẫn cha trực tiếp làm rõ vai trò
của CNTB Nhà nớc trong thời kỳ quá độ lên CNXH và nhất là về xu hớng
phát triển của CNTB Nhà nớc trong thực tiễn của nền kinh tế nớc ta. Bởi vậy,
Luận văn này kế thừa có chọn lọc và phát triển những công trình nghiên cứu
đã nêu trên nhằm đạt tới một nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về CNTB
Nhà nớc ở nớc ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu quan điểm của VI. Lênin về CNTB Nhà nớc
- Đánh giá thực trạng phát triển CNTB Nhà nớc ở nớc ta trong thời
gian qua.
- Đề xuất phơng hớng, giải pháp phát triển CNTB Nhà nớc trong tơng
lai.
4. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
- Luận văn đợc viết dựa trên lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, trớc hết và chủ yếu là lý luận về chủ nghĩa t
bản Nhà nớc của VI. Lênin. Luận văn còn dựa vào các Văn kiện Đảng, và
các luận án, các công trình khoa học liên quan đến đề tài.
- Luận văn sử dụng phơng pháp phân tích, tổng hợp, phơng pháp logic
- lịch sử, trừu tợng hoá và khái quát hoá.
5. Đóng góp mới của luận văn.
- Luận văn góp phần rõ quan điểm của VI. Lênin về CNTB Nhà nớc
đồng thời đa ra những giải pháp cho tiến trình cổ phần hoá, phát triển một
cách toàn diện nền kinh tế ở nớc ta hiện nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn.
- Luận văn góp phần khẳng định quan điểm của VI.Lênin về CNTB
Nhà nớc là trong những nhân tố góp phần xây dựng thành công nền kinh tế
thị trờng.


- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm.

7. Cấu trúc của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo
Luận văn gồm 2 chơng, 5 tiết.


CHƯƠNG I: Quan niệm của VI. Lênin về CNTBNN.............................
1.1. Khái niệm, nội dung, hình thức, vai trò của CNTB Nhà nớc................
1.1.1. Quan điểm của VI. Lênin về CNTB Nhà nớc.....................................
1.1.2. Những hình thức của CNTB Nhà nớc thời Lênin...............................
1.1.3. Vai trò của CNTB trong nền kinh tế quá độ lên CNXH...................
1.2. Quá trình hình thành CNTB Nhà nớc trong lịch sử.............................
CHƯƠNG II: Sự vận dụng quan điểm của VI. Lênin về CNTB
Nhà nớc trong điều kiện kinh tế thị trờng định hớng XHCN ở nớc ta
hiện nay..................................................................................................................
2.1. Tính tất yếu để thực hiện CNTB Nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN ở nớc ta..............................................................................
2.2. Tình hình phát triển của CNTB nhà nớc ở nớc ta từ năm 1986 đến
nay...........................................................................................................................
2.3. Những giải pháp chủ yếu để tiếp tục phát triển CNTB Nhà nớc
theo định hớng XHCN ở nớc ta..............................................................................
2.3.1. Hoàn thiện môi trờng kinh tế xã hội cho sự phát triển của CNTB
Nhà nớc...................................................................................................................
2.3.2. Tăng cờng sức mạnh kinh tế của Nhà nớc để phát triển và sử
dụng có hiệu quả CNTB Nhà nớc ở nớc ta theo định hớng XHCN......................
2.3.3. Phát huy mạnh mẽ tiềm năng của thành phần kinh tế t bản t
nhân ........................................................................................................................
2.3.4. Mở rộng và lựa chọn các hình thức CNTB Nhà nớc phù hợp với
điều kiện nớc ta.......................................................................................................
2.3.5. Tăng cờng quản lý nhà nớc đối với CNTB Nhà nớc giải pháp
quan trọng để phát triển CNTB Nhà nớc theo định hớng XHCN ở nớc ta...........
Danh mục tài liệu tham khảo


Chơng 1
Quan điểm của lênin
về chủ nghĩa t bản nhà nớc


1.1. Khái niệm, nội dung, hình thức, vai trò của chủ nghĩa t bản
nhà nớc.
1.1.1 Quan điểm của V.I.Lênin về chủ nghĩa t bản nhà nớc
Lênin khẳng định chủ nghĩa t bản Nhà nớc nh sau: Chủ nghĩa t bản
Nhà nớc là chủ nghĩa t bản dới chế độ t bản, khi chính quyền Nhà nớc trực
tiếp khống chế những xí nghiệp t bản chủ nghĩa này hay xí nghiệp r bản chủ
nghĩa khác [V.I.Lênin, toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ, M.1978] là giai đoạn
phát triển của chủ nghĩa t bản đợc điều tiết và kiểm soát; là sự chuẩn bị đầy
đủ nhất cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, khái niệm chủ nghĩa t bản
đã mang một nội dung mới và có một vai trò mới. Lênin đã phân biệt rõ chủ
nghĩa t bản Nhà nớc ở trong một Nhà nớc mà chính quyền thuộc về giai cấp
t sản và chủ nghĩa t bản Nhà nớc ở trong một Nhà nớc vô sản đó là hai khái
niệm khác nhau. Sự khác biệt của chủ nghĩa t bản Nhà nớc dới chính quyền
Xô Viết trớc hết là ở tính chất giai cấp của Nhà nớc Nhà nớc của giai cấp
vô sản. Sự khác biệt thứ hai là ở tính chất xã hội của chế độ sở hữu về t liệu
sản xuất chế độ công hữu về đất đai và những cơ sở công nghiệp lớn quan
trọng nhất. Nh vậy, chủ nghĩa t bản Nhà nớc dới chủ nghĩa t bản và chủ
nghĩa t bản Nhà nớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tuy có cùng
một tên gọi giống nhau nhng nội hàm khác nhau: đó là hai sản phẩm của hai
trình độ xã hội hoá khác nhau, hai chế độ xã hội khác nhau. Do đó, nguyên
nhân ra đời, bản chất và hình thức tồn tại cũng khác nhau.
Nguyên nhân ra đời: Về mặt lôgíc và lịch sử thì chủ nghĩa t bản Nhà
nớc trong giai đoạn độc quyền là hình thức phát triển cao nhất. Chúng ra đời

bắt nguồn từ bốn nguyên nhân:
Một là, sự ra đời của các tổ chức độc quyền thúc đẩy tích tụ và tập
trung sản xuất, từ đó làm xuất hiện những cơ cấu kinh tế mới với trình độ xã
hội hoá sản xuất cao làm cho độc quyền t nhân không thể thích ứng nổi buộc
độc quyền Nhà nớc phải đủ mức để can thiệp vào đời sống kinh tế.
Hai là, sự phát triển của công lao động xã hội làm xuất hiện một số
ngành cần vốn đầu t vốn rất lớn, tỷ xuất lợi nhuận thấp và thu hồi vốn chậm,
Nhà nớc cần phải dùng vốn ngân sách để đầu t.
Hai là, cùng với xu hớng quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự bành trớng
của các công ty xuyên quốc gia vấp phải những hàng rào dân tộc và xung đột
lợi ích với các đối thủ trên thị trờng thế giới, tình hình đó, đòi hỏi phải có sự
điều tiết các quan hệ kinh tế đối ngoại của Nhà nớc.


Bốn là, sự thống trị của độc quyền làm sâu sắc thêm mâu thuẫn vốn có
của chủ nghĩa t bản. Nhà nớc cần phải tăng cờng vai trò là ngời chủ sở hữu
kinh tế đối với những t liệu sản xuất chủ yếu có tính chất quyết định để làm
dịu những mâu thuẫn đó.
Nh vậy, chủ nghĩa t bản Nhà nớc ra đời trong lòng chủ nghĩa t bản là
kết quả lôgíc quy luật chung của tích luỹ t bản. Nó vừa biểu hiện trình độ xã
hội hoá cao hơn, vừa là sự phát triển của quan hệ sản xuất ở giai đoạn cao
của chủ nghĩa t bản (chủ nghĩa t bản đế quốc Nhà nớc).
Chủ nghĩa t bản Nhà nớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội lại
ra đời trong bối cảnh khác biệt. Sự ra đời của nó bắt nguồn từ thực tế của
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, là thừa nhận quan hệ trao đổi, quan hệ
thị trờng trong thời kỳ quá độ.
Vào thời kỳ ấy, nớc Nga cách mạng nhng lạc hậu về kinh tế, lại đang
nằm trong vòng vây của các cờng quốc t bản với sức ép ngày càng lớn.
Vì thế, Nhà nớc Xô Viết phải nhanh chống phát huy nội lực và mọi
tiềm năng về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm tổ chức và quản lý cũng nh trình độ

lực lợng sản xuất xã hội hoá để bảo vệ thành quả cách mạng và đa đất nớc đi
lên.
Sự lạc hậu về kinh tế, cộng với sức ép khắc phục hậu quả của chiến
tranh đã mang nguy cơ tiềm ẩn mất ổn định xã hội. Tình hình đó đòi hỏi
bằng mọi cách phát triển lực lợng sản xuất, xã hội, tạo ra cơ sở kinh tế để
củng cố chính quyền Xô Viết.
Một nớc quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội t điểm xuất phát là nền sản
xuất nhỏ, cha qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa t bản, nền kinh tế nông
nghiệp còn phổ biến thì phát triển các quan hệ thị trờng là cần thiết. Sự phát
triển này tất yếu nảy sinh các quan hệ t bản chủ nghĩa. Các hình thức của
chủ nghĩa t bản Nhà nớc ra đời là hình thức có hiệu quả để hớng tính tự phát
t bản chủ nghĩa đi vào quỹ đạo đặt dới sự kiểm soát của Nhà nớc và có lợi
cho chủ nghĩa xã hội.
Bớc chuyển từ giai đoạn giành chính quyền sang giai đoạn xây dựng
đất nớc, trình độ lý luận, t tởng và năng lực tổ chức thực tiễn của Đảng Cộng
sản không theo kịp bớc ngoặt của tình hình, rất đông cán bộ, đảng viên còn
mang nhiều nhận thức không tởng về chủ nghĩa xã hội, còn dừng lại ở những
khái niệm trong giai đoạn giành chính quyền.
- Bối cảnh trong nớc và quốc tế ấy chính là nguyên nhân và là môi
trờng phát sinh t tởng sáng tạo của Lênin về chủ nghĩa t bản Nhà nớc.


Nh vậy, chủ nghĩa t bản Nhà nớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội là một kiểu chủ nghĩa t bản Nhà nớc hoàn toàn khác về nguồn gốc so
với chủ nghĩa t bản Nhà nớc dới chủ nghĩa t bản.
Tuỳ theo từng giác độ xem xét, chủ nghĩa t bản Nhà nớc mang những
nội dung sau:
- Xét về giác độ kết cấu kinh tế xã hội thì chủ nghĩa t bản Nhà nớc
đợc coi là một thành phần kinh tế hay còn gọi là một bộ phận kinh tế t bản
Nhà nớc.

Lênin cho rằng: Thời kỳ quá độ là một thời kỳ lịch sử đặc biệt, trong
đó kết cấu kinh tế xã hội vừa bao hàm những yếu tố của xã hội cũ đang
suy thoái dần, vừa bao hàm những yếu tố xã hội mới ra đời, đang lớn lên
từng bớc nhng cha giành toàn thắng. Điều đó là nó mang tính chất quá độ.
Lênin viết: Danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế có
phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ
phẩn, những mảnh của chủ nghĩa t bản và chủ nghĩa xã hội không?
[V.I.Lênin, toàn tập, tập 43, trang 248, Nxb Tiến bộ, M.1978].
Lênin đã chỉ ra trong kết cấu kinh tế xã hội của thời kỳ quá độ từ
chủ nghĩa t bản lên chủ nghĩa xã hội gồm 5 thành phần kinh tế : Kinh tế
nông dân kiểu gia trởng, nghĩa là một phần lớn có tính chất tự nhiên, sản
xuất hàng hoá nhỏ; chủ nghĩa t bản t nhân, chủ nghĩa t bản Nhà nớc và chủ
nghĩa xã hội. Các thành phần đó xen kẽ nhau. Đặc điểm nay không những
phổ biến đối với tất cả những nớc cha có cơ sở vật chất kỹ thuật ở vào trình
độ xã hội hoá cao.
Lênin cũng chỉ ra rằng với những nớc tiểu nông quá độ lên chủ nghĩa
xã hội thì phải xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cơ sở kinh tế cũ, là không thể
đập tan ngay các cơ cấu kinh tế xã hội cũ đợc mà phải chấn hng nó.
Với t tởng ấy, thành phần chủ nghĩa t bản Nhà nớc cùng với các thành phần
kinh tế khác là những thực tế khách quan tồn tại trong kết cấu kinh tế xã
hội của thời quá độ.
Cũng nh phơng thức sản xuất, mỗi thành phần kinh tế bao gồm một
lực lợng sản xuất với quan hệ sản xuất với quan hệ sản xuất theo một kiểu
nhất định phù hợp với tính chất và trình độ cảu lực lợng sản xuất ấy. Do đó,
tiêu thức cơ bản để phân định thành phần kinh tế là quan hệ sản xuất mà biểu
hiện là quan hệ sở hữu.
Bởi vậy, nếu tiếp cận chủ nghĩa t bản Nhà nớc dới khía cạnh sở hữu thì
đơng nhiên phải thừa nhận rằng chủ nghĩa t bản Nhà nớc là một thành phần
kinh tế. Nh đã đề cập ở trên, khi nói về thời kỳ quá độ, chính Lênin đã xếp



chủ nghĩa t bản Nhà nớc là một thành phần kinh tế, và mặc dù không chỉ rõ
thành phần này dựa trên chế độ sở hữu nào, nhng khi giải thích vì sao dùng
danh từ chủ nghĩa t bản Nhà nớc, Lênin đã nói: Điều mà tôi luôn luôn quan
tâm tới là mục đích thực tiễn. Mục đích thực tiễn ấy chính là việc tìm ra
những hình thức cụ thể để thực hiện. Trong điều kiện lịch sử cụ thể của nớc
Nga thời đó, Lênin đã chỉ ra những hình thức kinh tế cụ thể của chủ nghĩa t
bản Nhà nớc (sẽ trình bày cụ thể ở phần sau).
Xét theo quá trình vận động của nền kinh tế thì theo quy luật phát
triển tự nhiên: Kinh tế tự cung tự cấp sẽ chuyển lên kinh tế hàng hoá, kinh tế
hàng hoá nhỏ, và kinh tế hàng hoá t bản chủ nghĩa sẽ thống qua các hình
thức của chủ nghĩa t bản Nhà nớc mà hớng lên chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy,
đến một giai đoạn nhất định, chủ nghĩa t bản Nhà nớc (hiểu theo nghĩa rộng)
sẽ bao trim phần lớn kinh tế quốc dân. Chủ nghĩa t bản Nhà nớc với nghĩa đó
đợc coi là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội đặc thù để đa sản xuất nhỏ lên
sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Theo quan niệm của Lênin, chủ nghĩa cộng sản chỉ xuất hiện một cách
tự nhiên khi những tiền đề vật chất và tiền đề xã hội đã sẵn sàng. Tuy nhiên,
thắng lợi của cách mạng tháng Mời Nga lại không xuất phát từ tiền đề nói
trên. Bài học rút ra từ chính sách cộng sản thời chiến trong thời kỳ đầu của
chính quyền Xô Viết đã cho thấy rằng, từ một nớc tiểu nông đi lên chủ nghĩa
xã hội thì không thể trực tiếp tổ chức theo kiểu cộng sản chủ nghĩa việc Nhà
nớc sản xuất và phân phối sản phẩm mà phải thông qua việc trao đổi hàng
hoá, qua sản xuất hàng hoá hay còn gọi là kinh tế thị trờng. Kinh tế háng hoá
không phải là kinh tế t bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa t bản chỉ là giai đoạn phát
triển cao của nền kinh tế ấy và chủ nghĩa xã hội với tính cách là chế độ xã
hội chỉ có thể trở thành hiện thực khi biết tiếp thu có chọn lọc nền kinh tế thị
trờng văn minh ấy.
Bởi vì, Không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là
chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở tất cả những bài học mà nền văn minh lớn

của chủ nghĩa t bản đã thu đợc [V.I.Lênin, toàn tập, tập 3, trang 334, Nxb
Tiến bộ, M.1978].
Sản xuất hàng hoá chính là cách thức tổ chức kinh tế xã hội ứng với
trình độ phát triển nhất định của lực lợng sản xuất. Công lao lịch sử của chủ
nghĩa t bản là đã thực hiện sự chuyển hoá nền kinh tế tự nhiên của những ngời trực tiếp sản xuất thành kinh tế hàng hoá và chuyển hoá nền kinh tế hàng


hoá thành nền kinh tế t bản chủ nghĩa, kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa. Đó
chính là quá trình xã hội hoá đã diễn ra dới chủ nghĩa t bản.
Cho nên, để quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nớc tiểu nông thì
phải tiến tới xã hội hoá trong thực tế bằng sự phát triển của nền kinh tế thị trờng. ở đây chính quyền dới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân
đồng thời phải thực hiện ba sự chuyển hoá: Từ nền kinh tế tự nhiên sang nền
kinh tế háng hoá, từ nền kinh tế hàng hoá thành nền kinh tế hàng hoá t bản
chủ nghĩa, từ nền kinh tế hàng hoá tiểu t bản và t bản, thành nền kinh tế thị
trờng định hớng xã hội chủ nghĩa, với tính cách là công cụ xây dựng chủ
nghĩa xã hội, xã hội hoá xã hội chủ nghĩa trong thực tế [Vũ Hữu Ngoạn
Khổng Doãn Hợi, Một số vấn đề về chủ nghĩa t bản Nhà nớc, trang 65, Nxb
Chính trị Quốc gia, H.1993].
Cũng chính từ việc tự do mua bán và phát triển kinh tế thị trờng mà có
sự liên hợp nền sản xuất nhỏ lại làm phát triển mối quan hệ kinh tế đặc biệt
là sự hình thành và phát triển các quan hệ kinh tế t bản chủ nghĩa. Hơn nữa,
sự hình thành đó còn nhiều hơn trớc và ở cả những nơi mà trớc kia nó không
nảy nở đợc. Do vậy, trong nền kinh tế sẽ xuất hiện và hình thành những cơ sở
kinh doanh t bản chủ nghĩa mới nảy sinh trong lòng chuyên chính vô sản.
Thành phần kinh tế t bản t nhân tồn tại và phát triển nh một tất yếu khách
quan trong nền kinh tế quá độ. Việc hớng kết cấu đó vào con đờng chủ nghĩa
t bản Nhà nớc cùng với việc du nhập t bản nớc ngoài dới nhiều hình thức
sẽ hình thành và phát triển trong nền kinh tế quá độ một thành phần kinh tế
khách quan Chủ nghĩa t bản Nhà nớc. Thành phần kinh tế này cùng với
các thành phần kinh tế khác cấu thành nên tính chất đa dạng của nền kinh tế

quá độ, làm xuất hiện một chế độ sở hữu mang tính phổ biến, đó là chế độ sở
hữu hỗn hợp với nhiều hình thức dới sự trực tiếp khống chế của Nhà nớc xã
hội chủ nghĩa nh một kiểu sản xuất xã hội đặc thù để đa sản xuất nhỏ lên sản
xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Ngoài hai nội dung trên, chủ nghĩa t bản Nhà nớc còn mang nội dung
khác phân biệt với chủ nghĩa t bản Nhà nớc dới chủ nghĩa t bản, đó là:
Chủ nghĩa t bản Nhà nớc là hệ thống, phơng sách, phơng pháp điều
tiết đặc biệt của Nhà nớc xã hội chủ nghĩa.
Trớc hết, sự có mặt của chủ nghĩa t bản Nhà nớc trong thời kỳ quá độ
đợc Lênin gắn lion với tính chất nhiều thành phần của nền kinh tế quá độ mà
ở đó kinh tế t bản tồn tại một cách khách quan trong điều kiện đó, một mặt,
giai cấp vô sản bắt buộc phải để chủ nghĩa t bản tham gia vào sự nghiệp của


mình và mặt khác, muốn không làm thay đổi bản chất của mình, Nhà n ớc
vô sản có thể thừa nhận cho thơng nghiệp tự do và chủ nghĩa t bản đợc phát
triển trong chừng mực nào đó và chỉ với điều kiện là thờng nghiệp t nhân và
t bản t nhân phải phục tùng sự điều tiết của Nhà nớc [V.I.Lênin, toàn tập,
tập 45, trang 141, Nxb Tiến bộ, M.1978].
Vì vậy, chính sách của Nhà nớc vô sản đối với thành phần kinh tế này
chung quy là:
Sử dụng khả năng kinh tế kỹ thuật, kinh nghiệm tổ chức của
t bản t nhân để phát triển lực lợng sản xuất.
Thực hiện kiểm kê kiểm soát đặc biệt đối với các hoạt động của
t bản t nhân dới nhiều hình thức, hớng chúng vào phục vụ lợi ích của chủ
nghĩa xã hội.
Chính sách đó suy cho cùng vẫn là Nhà nớc trực tiếp chống chế các xí
nghiệp t bản chủ nghĩa, là sự điều tiết của Nhà nớc đối với quan hệ kinh tế t
bản chủ nghĩa đợc tính toán, kiểm soát và xã hội hoá.
Theo Lênin thì: Tất cả vấn đề về lý luận cũng nh trên thực tiễn là tìm

ra những phơng pháp đúng giúp Nhà nớc hớng sự phát triển không tránh
khỏi (đến một trình độ nào đó và một thời gian nào đó) của chủ nghĩa t bản
vào con đờng chủ nghĩa t bản Nhà nớc.
Mặt khác, Lênin cũng chỉ ra rằng Với sức mạnh của mình Nhà nớc
vô sản lại nắm chắc trong tay những vị trí chủ yếu của nền kinh tế, thông
qua các mối quan hệ trực tiếp, hệ thống chính sách và đòn bẩy kinh tế,
thông qua luật pháp bằng biện pháp kết hợp giáo dục và cỡng bức thì việc
áp dụng rộng rãi hệ thống điều tiết và kiểm soát của Nhà nớc đối với tất cả
các quan hệ kinh tế t bản chủ nghĩa đang tồn tại là điều có thể thực hiện đợc.
Theo nghĩa đó, chủ nghĩa t bản Nhà nớc trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội xét vê mặt nội dung đợc quan niệm không chỉ là một chính sách
kinh tế của giai cấp vô sản đối với t bản t nhân, nh một số ngời quan niệm,
và càng không phải là một chính sách cụ thể nh những chính sách cụ thể
khác, mà nó còn là một hệ thống phơng sách, phơng pháp điều tiết cụ điều
tiết đặc biệt của Nhà nớc xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Những hình tứhc của chủ nghĩa t bản Nhà nớc thời Lênin
Lênin là ngời Mác xít đầu tiên xây dựng nền tảng lý luận về chủ nghĩa
t bản Nhà nớc, mà còn chỉ đạo việc thực hiện chủ trơng này trong thực tiễn.
Và mặc dù cha hình dung hết tất cả mọi hình tứhc chủ nghĩa t bản Nhà nớc


cụ thể, nhng Lênin cũng vạch ra đợc một số hình thức cụ thể áp dụng trong
những năm đầu của chính quyền XôViết. Những hình thức cụ thể đó là:
* Hình thức tô nhợng:
Lênin quan niệm tô nhợng là sự liên kết, liên minh giữa chính quyền
Nhà nớc Xô Viết với chủ nghĩa t bản các nớc tiên tiến, đó là: Hợp đồng giữa
Nhà nớc và một số nhà t bản, Nhà nớc vô sản giao cho họ đợc quyền kinh
doanh khai thác khoáng sản, canh tác hay xây dựng một thời hạn nhất định.
Hợp đồng quy định rõ quyền lợi, nghĩa vụ của ngời nhận tô nhợng, trong đó
có việc chia sản phẩm, lợi nhuận nộp thuế hết hạn hợp đồng các tài sản

trên lại thuộc về quyền sở hữu của Nhà nớc. Hình thức đặt biệt này càng có ý
nghĩa trong những trờng hợp mà Nhà nớc không có khả năng đầu t, không
đủ năng lực kỹ thuật để khai thác
Theo Lênin, tô nhợng nhằm ba mục đích:
Một là, nhằm tạo công ăn việc làm, cải thiện nhanh chóng đời sống
của ngời lao động. Lênin cho rằng: áp dụng một cách chừng mực và then
trọng chính sách tô nhợng nhất định sẽ giúp cho chúng ta cải thiện đợc
nhanh chóng ở một mức độ nào đó tình trạng sản xuất, đời sống của công
nhân và nông dân.
Hai là, đó là sự liên minh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa t bản
Nhà nớc chống lại thế lực tự phát triển t hữu đang liên minh với chủ nghĩa t
bản t nhân. Sự liên minh đó làm nền tảng đa tất cả các thành phần kinh tế đi
lên chủ nghĩa xã hội.
Ba là, nhằm mục tiêu đạt tới lợi ích cả hai phía: Về phía nhà t bản, họ
kinh doanh theo phơng thức t bản để lấy lợi nhuận; họ đồng ý thoả thuận với
chính quyền vô sản để cốt thu đợc lợi nhuận siêu ngạch hoặc đẻ có đợc loại
nguyên liệu quý hiếm mà họ không thể tìm đợc hay khó tìm đợc bằng cách
khác. Dĩ nhiên, chúng ta phải hy sinh một phần lợi nhuận, có khi là khoản
lợi nhuận to lớn cho nhà t bản nhận tô nhợng, nhng nếu thành công sữ thu
nhập đợc sản xuất lớn hiện đại, tạo ra việc làm và tăng sản phẩm xã hội, xây
dựng những xí nghiệp kiểu mẫu cho chủ nghĩa xã hội ngang với chủ nghĩa t
bản hiện đại.
Rõ ràng, chế độ tô nhợng có ý nghĩa rất lớn, không những làm tăng
sức sản xuất - điều hết sức quan trọng đối với Nhà nớc Nga lúc bấy giờ
mà thông qua chế độ tô nhợng, quan hệ sản xuất tiên tiến đợc xác lập.
Đánh giá về tính chất của hình thức tô nhợng Lênin cho rằng, so với
những hình thức của chủ nghĩa t bản Nhà nớc trong lòng chế độ Xô Viết thì


chủ nghĩa t bản Nhà nớc dới hình thức tô nhợng là hình thức đơn giản, rõ

ràng, dễ tiếp thu. Tuy nhiên không phải là sự chấp nhận vô điều kiện, phải
suy nghĩ cân nhắc tính toán hết mọi điều khi ký hợp đồng tô nhợng và sau đó
phải giám sát việc chấp hành nó.
Vì vậy, Lênin đã đề ra những nguyên tắc cần thiết khi thực hiện chế
độ tô nhợng. Mấu chốt của những nguyên tắc đó là nhằm vào việc tạo điều
kiện thuận lợi cho việc ký hợp đông, bảo đảm lợi ích cho cả hai phía trong
quá trình thực hiện tô nhợng nh: mức lợi nhuận mà các công ty t bản nớc
ngoài thu đợc, các điều kiện hoạt động và tiền lơng trả cho chuyên gia nớc
ngoài cũng nh trách nhiệm cải thiện đời sống của công nhân trong xí nghiệp
tô nhợng và việc tôn trọng pháp luật của Nhà nớc Xô Viết.
* Hình thức hợp tác xã:
Hay còn gọi là chủ nghĩa t bản Nhà nớc hợp tác xã. Đây là hình
tứhc liên minh giữa Nhà nớc vô sản với hàng triệu ngời sản xuất nhỏ, là sự
kết hợp lợi ích t nhân với sự giúp đỡ và kiểm soát của Nhà nớc đối với những
lợi ích đó, làm cho lợi ích t nhân phục tùng lợi ích chung của xã hội. Với giải
pháp kết hợp lợi ích có thể tranh đợc sự cỡng bức nông dân vào hợp tác xã,
xoá bỏ sở hữu các thể của nông dân, bảo đảm quyền t hữu tài sản và tự do
buôn bán nhng hạn chế tình trạng tự phát và phân hoá t bản chủ nghĩa. Đây
là con đờng duy nhất đúng để đa hàng triệu ngời sản xuất nhỏ theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy, Lênin coi loại hình hợp tác xã của những ngời t hữu nhỏ về
hình thức giống nh chủ nghĩa t bản Nhà nớc ở chỗ nó tạo điều kiện thuận
lợi cho sự kiểm kê, kiểm soát, theo dõi những quan hệ đã ghi trong hợp
đồng và nếu xét về mặt hình thức thơng nghiệp thì hợp tác xã có lợi ích
hơn thơng nghiệp t nhân chẳng những vì lý do kể trên, mà còn vì nó tạo điều
kiện thuận lợi cho việc liên hợp và tổ chức hàng triệu ngời, sau đó toàn thể
dân chúng, và tình trạng ấy lại là một điều lợi rất lớn cho bớc quá độ tơng
lai từ chủ nghĩa t bản Nhà nớc lên chủ nghĩa xã hội [V.I.Lênin, toàn tập,
tập 43, trang 272, Nxb Tiến bộ, M.1978].
Lênin khẳng định: hợp tác xã cũng là một hình thức của chủ nghĩa t
bản Nhà nớc đơn giản hơn, có hình thù ít rõ rệt hơn, phức tạp hơn, và vì thế

trong thực tế nó đặt chính quyền Xô Viết trớc những khó khăn lớn hơn
[V.I.Lênin, toàn tập, tập 43, trang 271, Nxb Tiến bộ, M.1978].
Nhng đồng thời Lênin cũng nói, khi các t liệu sản xuất đã thuộc về xã
hội, giai cấp vô sản, thì chế độ của ngời xã viên hợp tác xã văn minh là chế
độ xã hội chủ nghĩa.


Theo Lênin, có hai loại hợp tác xã của những ngời sản xuất nhỏ cá
thể, sự tham gia của họ vào hợp tác xã nhng vẫn không xoá bỏ t cách ngời
chủ sở hữu t nhân của hợp tác xã nhng vẫn duy trì những quan hệ tiền t sản
và t bản chủ nghĩa, hơn nữa còn phát triển những quan hệ đó, đẩy mạnh
những quan hệ đó lên hàng đầu, đó là chủ nghĩa t bản Nhà nớc hợp tác
xã. Còn những hợp tác xã văn minh, những hợp tác xã không khác với xí
nghiệp xã hội chủ nghĩa, những hợp tác xã mang tính chất xã hội chủ nghĩa
mà Lênin nói tới là những hợp tác xã dựa trên sở hữu tập thể, lao động tập
thể bình đẳng của những xã viên, thành viên hợp tác xã.
Nh vậy, trong điều kiện chính quyền thuộc về tay giai cấp công nhân
Nhà nớc Xô Viết, thì ngoài hình thức hợp tác xã - xã hội chủ nghĩa, còn
có một hình thức hợp tác xã - t bản chủ nghĩa trong lòng chế độ Xô Viết và
đợc coi là một hình thức chủ nghĩa t bản Nhà nớc hợp tác xã.
* Hình thức công ty hợp doanh:
Đây là một loại hình chủ nghĩa t bản Nhà nớc hỗn hợp, trong đó vừa
có các nhà t bản t nhân Nga và t bản nớc ngoài, vừa có những ngời cộng sản
cùng tham gia [V.I.Lênin, toàn tập, tập 43, trang 97, Nxb Tiến bộ, M.1978].
Thực chất của công ty hợp doanh, theo Lênin là ở chỗ: Những công ty
này đều biểu hiện việc chúng ta, những ngời cộng sản, áp dụng những công
thức buôn bán, những phơng thức t bản chủ nghĩa.
Còn để công ty hợp doanh hoạt động có hiệu quả, theo Lênin, trớc hết,
nhân tố quyết định là đội ngũ cán bộ làm việc trong liên doanh, họ phải làm
việc không kém gì những nhà t bản, vì họ có u thế hơn các nhà t bản, và vì

chính quyền Nhà nớc cũng nh nhiều phơng tiện quan trọng trong tay họ.
Hai là, để các công ty hợp doanh ra đời và hoạt động tốt, ngời cộng
sản phải biết tôn trọng lợi ích của t bản và có thái độ cộng sự thân ái với t
bản, những nhà t bản sẽ không đến với chúng ta, nếu không có những điều
kiện tối thiểu cho họ hoạt động và nếu không có thái độ thân ái cộng tác với
họ.
* Hình thức cho t bản t nhân thuê tài sản của Nhà nớc.
Đây là hình thức Nhà nớc cho các nhà kinh doanh t nhân t bản thuê
một xí nghiệp, hoặc vùng mỏ, khu rừng, khu đất Phơng thức cho thuê là
thông qua một hợp đồng giữa Nhà nớc với nhà t bản. Hình thức này giống
nh hình thức tô nhợng nhng khác đối tợng nhận tô nhợng không phải là nhà
t bản nớc ngoài mà là nhà t bản trong nớc. Một kiểu tô nhợng nội địa.
Chính hình thức cho thuê này đã tạo điều kiện mới cho nền kinh tế phát triển


với tốc độ nhanh. Ngời đợc thuê tài sản có thể nộp tô cho Nhà nớc bằng tiền
hoặc hiện vật (có thể 30% số than khai thác đợc).
* Hình thức gia công đặt hàng, đại lý:
Đây là hình thức chủ nghĩa t bản Nhà nớc, trong đó Nhà nớc lôi kéo
các nhà t bản gia công một số chi tiết hàng hoá bỏ vốn thuê lao động và tổ
chức các cửa hàng để bán hàng hoá của Nhà nớc. Đồng thời, giao cho họ cả
việc thu mua sản phẩm trên thị trờng tự do.
Làm nh vậy Nhà nớc vừa liên kết đợc trực tiếp với các nhà t bản, một
mặt thực hiện đợc sự kiểm kê, kiểm soát đối với họ, lôi kéo họ đi dần vào
quỹ đạo xã hội chủ nghĩa. Mặt khác sử dụng đợc tiền vốn, tay nghề của họ,
thông qua họ mà dẫn dắt nông dân thi theo sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Trên đây là một số hình thức chủ nghĩa t bản Nhà nớc cụ thể đã đợc
thực hành trong thực tiễn nớc Nga thời NEP. Nhng theo Lênin thì chủ nghĩa
t bản Nhà nớc không chỉ bó hẹp trong những hình thức cụ thể đó, mà ... ở
chỗ nào có những thành phần tự do buôn bán và những thành phần t bản

chủ nghĩa nói chung, thì ở đó có chủ nghĩa t bản Nhà nớc dới hình thức này
hay hình thức khác ở trình độ này hay trình độ nọ [V.I.Lênin, toàn tập, tập
43, trang 268, Nxb Tiến bộ, M.1978].
Có nghĩa là: ở đâu, ở lĩnh vực nào có quan hệ t bản chủ nghĩa thì ở đó
có quan hệ kiểm kê, kiểm soát của Nhà nớc xã hội chủ nghĩa và do đó có
những hình thức chủ nghĩa t bản Nhà nớc.
Từ quan niệm trên, chúng tôi cho rằng: Để xác định một hình thức
kinh tế có phải thuộc loại hình chủ nghĩa t bản Nhà nớc hay không, trớc hết
phải lấy quan hệ sở hữu làm cơ sở. Bất kỳ một tổ chức kinh tế nào đợc xác
lập dới hình thức hỗn hợp giữa sở hữu của Nhà nớc xã hội chủ nghĩa t bản
Nhà nớc. Mặt khác, phải lấy quan hệ kiểm kê, kiểm soát làm cơ sở. Một tổ
chức nào đó đợc hình thành giữa Nhà nớc và t bản t nhân trên cơ sở những
thoả thuận hợp đồng (những hình thức này thể hiện qua việc Nhà nớc cho
thuê tài sản, cho khai thác tài nguyên, Nhà nớc quy định mục đích hoạt động
ràng buộc bằng pháp luật và nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nớc), với những
hình thức cụ thể đều thuộc chủ nghĩa t bản Nhà nớc.
Điều này có ý nghĩa phơng pháp luận quan trọng đối với việc phân
định và lựa chọn các hình thức kinh tế quá độ trong thực tiễn để từ đó quyết
định những chính sách hợp đối với từng loại.
1.1.3. Vai trò của chủ nghĩa t bản Nhà nớc trong nền kinh tế quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.


Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, do chủ nghĩa t bản Nhà nớc đợc vận dụng ở các nớc mà điều kiện vật chất, kinh tế hiện có cha tiến
đến phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội, nên nó có một vai trò đặc biệt
quan trọng đối với việc chuyển nền kinh tế đi qua phòng chờ ấy để vào đợc chủ nghĩa xã hội. Điều đó thể hiện cụ thể:
Thứ nhất, chủ nghĩa t bản Nhà nớc có vai trò quan trọng, góp phần vào
việc giải phóng sức sản xuất, khai thác có hiệu quả nguồn lực trong và ngoài
nớc để phát triển lực lợng sản xuất và tăng trởng kinh tế.
Năm 1921, khi đa ra chủ trơng phát triển chủ nghĩa t bản Nhà nớc ở nớc Nga, Lênin đã phân tích và chỉ cho nhân dân thấy rõ nớc Nga vào thời kỳ

đó là một nớc tiểu nông, cha có cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất
lớn dựa trên nền tảng đại công nghiệp cơ khí, hơn nữa đất nớc lại bị tàn phá
nặng nề trong chiến tranh. Do đó chủ nghĩa t bản Nhà nớc là những hình
thức kinh tế có vai trò quan trọng trong việc trực tiếp tạo ra những tiền đề vật
chất đó cho chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa t bản Nhà nớc mà Lênin không ngừng đấu tranh về lý luận
và thực tiễn để vận dụng vào nớc Nga trong thời kỳ thực hiện chính sách
kinh tế mới là nhằm mục đích phát triển lực lợng sản xuất, xây dựng nền sản
xuất đại công nghiệp của chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy sự tăng trởng kinh tế, là
thực hiện quá trình xã hội hoá sản xuất nh là những điều kiện cần thiết khách
quan để tổ chức và quản lý kinh tế trong quá trình chuyển lên chủ nghĩa xã
hội.
Xuất phát từ trình độ phát triển còn thấp của nền kinh tế khi bớc vào
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những điều kiện kinh tế cha đủ chín
muồi để cho phép chuyển trực tiếp, hay tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội,
trong điều kiện nh vậy thì sự tiến bộ kinh tế, sự phát triển nền kinh tế hàng
hoá của những ngời sản xuất nhỏ là một tất yếu không thể tránh khỏi và là
cần thiết và đó là một quá trình khách quan.
Điều này cũng có nghĩa là thừa nhận sự phát triển của các hệ t bản chủ
nghĩa, các quan hệ thị trờng. Sự phát triển của loại chủ nghĩa t bản này lại
đồng thời là quá trình phát triển lực lợng sản xuất. Và điều đó cũng có nghĩa
nó chính là phơng thức phát triển lực lợng sản xuất đặc trng cho nền sản xuất
hàng hoá nhỏ. Ngăn cấm sự phát sinh, phát triển các quan hệ t bản chủ nghĩa
này tức là bóp chết mọi sự phát triển của sản xuất hàng hoá nhỏ, là làm cho
quá trình cải tạo nền kinh tế này trở thành đối lập và kìm hãm sự phát triển
của lực lợng sản xuất.


Lênin viết: Vì chúng ta cha có đủ điều kiện để chuyển trực tiếp từ
nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội, bởi vậy trong một mức độ nào đó,

chủ nghĩa t bản là không tránh khỏi, nó là sản vật tự nhiên của nền sản xuất
và trao đổi; Bởi vật, chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa t bản (nhất là hớng
vào con đờng chủ nghĩa t bản Nhà nớc) làm mắt xích trung gian giữa tiểu
sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phơng tiện, con đờng, phơng pháp, phơng
thức để tăng lực lợng sản xuất lên [V.I.Lênin, toàn tập, tập 43, trang 276,
Nxb Tiến bộ, M.1978].
Trong điều kiện nớc ta hiện nay, chủ nghĩa t bản Nhà nớc với
những hình tứhc của nó không kìm hãm mà ngợc lại, tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển của kinh tế thị trờng và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nớc nhằm phát triển sản xuất, tạo lập cơ sở vật chất kỹ thuật cho
chủ nghĩa xã hội. Cái mà chúng ta cần lại là cái mà chủ nghĩa t bản hiện đại
và các công ty xuyên quốc gia đang nắm u thế. Là hình thức tổ chức kinh tế
thị trờng hiện đại, chủ nghĩa t bản Nhà nớc cho phép huy động các nguồn lực
phát triển từ mọi thành phần, mọi chủ thể trong nớc và ngoài nớc, tập trung
chúng lại cho mục tiêu tăng trởng kinh tế đã đợc Đảng và Nhà nớc lựa chọn.
Với ý nghĩa đó, chủ nghĩa t bản Nhà nớc có vai trò rất quan trọng trong việc
phát triển lực lợng sản xuất, thúc đẩy tăng trởng kinh tế ở nớc ta.
Thứ hai, chủ nghĩa t bản Nhà nớc còn có vai trò cực kỳ quan trọng
trong việc cung cấp công nghệ mới, hiện đại cho nền kinh tế quốc dân.
Nh Lênin đã chỉ rõ là không có kỹ thuật đại t bản chủ nghĩa đợc xây
dựng trên những phát minh mới nhất của khoa học hiện đại thì không thể có
chủ nghĩa xã hội và ngời đã so sánh chủ nghĩa t bản Nhà nớc về kinh tế cao
hơn rất nhiều so với nền kinh tế hiện nay của nớc ta [V.I.Lênin, toàn tập,
tập 43, trang 252, Nxb Tiến bộ, M.1978].
Khi nói về vai trò tô nhợng trong việc du nhập những thiết bị, công
nghệ sản xuất hiện đại của các nớc t bản công nghiệp tiên tiến, Lênin cho
rằng, nớc Nga sẽ không tự lực khôi phục đợc nền kinh tế của mình nếu
không có thiết bị kỹ thuật của nớc ngoài. Do đó, cần thiết cho nớc ngoài tô
nhợng những vùng nhỏ, rừng, thậm chí cả một phần khu rừng tốt nhất của nớc Nga cho các công ty t bản quốc tế lớn nhất với mục đích qua đó mà nớc
Nga du nhập đợc những thiết bị tối tân nhất để lập ra các cơ sở kinh tế có

tầm chiến lợc quốc gia.
Trong điều kiện nớc Nga lúc đó thì dù có phải trả giá đắt cho những
hợp đồng tô nhợng cũng phải làm vì nếu không thì: nớc Nga không bị diệt
vong thì cũng sẽ tiếp tục bị chìm đắm trong đờng hầm của sự lạc hậu và tụt


hậu không thể xây dựng đợc hay phát triển đợc các ngành công nghiệp hiện
đại, và do đó không thể tiếp tục tiến lên trên con đờng đi tới chế độ cộng
sản.
Thứ ba, thông qua việc thực hành các hình thức kinh tế chủ nghĩa t
bản Nhà nớc, tự nó đã là trờng học về công tác tổ chức quản lý nền kinh tế
theo lối đại công nghiệp và đó cũng là cơ sở tạo ra những yếu tố vật chất
chiến thắng sự hỗn độn vô tổ chức kém hiệu quả của nền tiểu sản xuất và
kinh tế t nhân. Trong những điều kiện nhất định dù có phải chịu chút ít thiệt
thòi nào đó cho nhà t bản thì âu đó cũng là học phí cần hiết để giai cấp
công nhân không ngừng nâng cao trình độ năng lực quản lý. Điều này có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc tăng cờng vai trò của Nhà nớc vô sản,
khi trình độ văn hoá còn thấp kém, cán bộ cha am hiểu về quản lý, cha biết
cách tổ chức sản xuất trên quy mô lớn.
Khi Nhà nớc nắm đợc phơng pháp quản lý thị trờng thì Nhà nớc mới
đủ sức tổ chức và hớng dẫn nền kinh tế từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn hiện
đại, mới đủ sức kiểm kê, kiểm soát hoạt động của các thành phần kinh tế,
mới biết cách tạo môi trờng, khuôn khổ pháp lý cho tính chủ động sáng tạo
của các doanh nghiệp. Nhờ đó, sẽ khắc phục đợc tính tự phát, ngay trong bộ
máy Nhà nớc và tệ tham nhũng, lãng phí trong nền kinh tế.
Thứ t, chủ nghĩa t bản Nhà nớc là phơng thức kiểm kê, kiểm soát có
hiệu quả của Nhà nớc đối với nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ trong quá
trình phát triển.
Trong một nớc còn tồn tại phổ biến nền sản xuất nhỏ thì theo Lênin:
Chủ nghĩa t bản Nhà nớc là cái gì có tính chất tập trung, đợc tính toán, đợc

kiểm soát và đợc xã hội hoá, thế mà chúng ta lại thiếu chính cái đó, chúng
ta đang bị đe doạ bởi tính tự phát của các thói vô tổ chức tiểu t sản
[V.I.Lênin, toàn tập, tập 36, trang 312, Nxb Tiến bộ, M.1978].
Nh vậy, chủ nghĩa t bản Nhà nớc không nhng có vai trò thúc đẩy sự
phát triển kinh tế công nghiệp, nông nghiệp theo hớng kinh tế thị trờng, mà
còn có tác động liên kết sản xuất nhỏ lại và khắc phục tính tự phát vô chính
phủ của nó. Vì tính tự phát ấy hiện đang ngăn cản chúng ta thực hiện chính
cái bớc ấy, cái bớc quyết định sự thành công của chủ nghĩa xã hội.
Vai trò này của chủ nghĩa t bản Nhà nớc rất quan trọng và có ý nghĩa
thực tiễn đối với nớc ta, ở chỗ: Nó là nhân tố chủ yếu thúc đẩy xã hội hoá,
liên kết sản xuất nhỏ lại, phát triển kinh tế thị trờng. Và đòi hỏi phải tính
toán hiệu quả kinh tế xã hội, bởi vì, chính nó đã thực hiện đồng thời hai


mặt cải tạo sản xuất nhỏ liên kết và kiểm soát khắc phục tính tự phát t hữu
nhỏ.
Thứ năm, xét về mặt đối ngoại, chủ nghĩa t bản Nhà nớc còn có vai trò
quan trọng trong việc thiết lập quan hệ kinh tế chặt chẽ với các nớc tiên tiến.
Nhờ đó tạo ra môi trờng hoà bình để xây dựng đất nớc.
ở đây, ý Lênin nói đến việc mở cửa thu hút đầu t nớc ngoài, không chỉ
là có cái vào đầu t, mà quan trọng hơn là thu hút đợc sự hợp tác đầu t của các
cờng quốc, tạo thuận lợi cả về kinh tế và chính trị.
Quan niệm này của Lênin đặc biệt có ý nghĩa trong xu thế khu vực
hoá, toàn cầu hoá ngày nay với vai trò chủ đạo là các công ty xuyên quốc gia
của các tổ chức t sản tài chính lớn.
Những vai trò quan trọn nh trên cho thấy, việc sử dụng và phát triển
các hình thức chủ nghĩa t bản Nhà nớc trong thời kỳ quá độ la cần thiết và
đáng mong đợi, nó lại càng trở nên đặc biệt quan trọng đối với các nớc
quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một điểm xuất phát về kinh tế thấp kém, ch a
qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa t bản nh nớc ta.


1.2. Quá trình hình thành CNTBNN trong lịch sử.
CNTB Nhà nớc ở các nớc t bản phát triển.
Trong lịch sử phát triển của CNTB, sự can thiệp của Nhà nớc vào quá
trình kinh tế trong giai đoạn phát triển khác nhau của CNTB cũng nh khác
nhau. Do đó, trình độ và các hình thức tồn tai của CNTBNN cũng khác nhau
và mang đặc trng khác nhau.
Trong giai đoạn đầu của CNTB, để tích luỹ những tiền đề cần thiết cho
sự ra đời và phát triển của CNTB, tầng lớp địa chủ quý tộc và giai cấp t sản
đang lên đã sử dụng bộ máy Nhà nớc nh một công cụ bạo lực để đẩy nhanh
quá trình tích luỹ nguyên thuỷ. Các Nhà nớc thời kỳ đó đã đa ra các chính
sách kinh tế, nh chính sách quản lý tiền tệ, kiểm soát buôn bán, xuất nhập
khâủ.
Thực hiện thuế quan bảo hộ để hỗ trợ tích cực cho các nhà TB t nhân,
thúc đẩy sự phát triển của CNTB.
Chẳng hạn vào thế kỷ XVI- XVII ở Anh, Nữ hoàng ELIZaBeth đã
thực hiện một loạt chính sách coi trọng thơng nghiệp nh tăng thuế quan với
thuyền bè ngoại quốc, khuyến khích các cuộc du hành vuợt biển của thơng


nhân Anh, chấm dứt việc phá giá các loại tiền bạc và khôi phục tiền nguyên
giá, cho mời thợ ở Đức sang để kích thích, phát triển công nghệ, phân bố
rộng rãi độc quyền sản xuất, buôn bán các loại hàng khác nhau. Nhờ vậy
việc tích luỹ tiền tệ ở Anh đợc đẩy nhanh.
Bớc sang thế kỷ XVIII, nhờ áp dụng kỹ thuật và công nghệ mới,
CNTB đã đứng vững và trên đà phát triển nhanh chóng, các nhà TB đua tranh
phát triển ngành nghề mới và mở rông quy mô sản xuất. Lúc này tự do cạnh
tranh đợc đề cao và đợc các nhà kinh tế t sản ủng hộ, nổi bật là A.Smit
(1723-1790) ông là ngời phát hiện ra cơ chế tự điều chính của nền kinh tế thị
trờng và đa ra lý thuyết bàn tay vô hình và nguyên lý Nhà nớc không

can thiệp vào hoạt động kinh tế. Nhà nớc t sản lúc này nh là ngời lính gác
đêm bảo vệ chế độ sở hữu t nhân TBCN, vì cơ chế thị trờng thờng không
cần dùng các hình thức can thiệp trực tiếp vào đời sống kinh tế.
Kinh tế Nhà nớc với tính cách là một hình thức của CNTBNN trong
giai đoạn tự do cạnh tranh là những xí nghiệp đợc xây dung một mặt, về nhu
cầu của bản thân Nhà nớc nh những xởng in, xởng quân giới, xởng đóng tàu
quốc doanh. Mặt khác, vì lợi ích công cộng chủ yếu phục vụ cho các nhà TB
nh ngành đờng sắt, bu điệnở đây nói lên vai trò của Nhà nớc nh một ngời
canh gác và bảo vệ tài sản của giai cấp t sản, bảo vệ chế độ t hữu, thúc đầy
sự phát triển của CNTB.
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, từ tự do cạnh tranh, CNTB đã bớc sang một giai đoạn mới: giai đoạn độc quyền, do kết quả của quá trình
tích tụ tập trung sản xuất t bản, làm nảy sinh những cơ cấu kinh tế to lớn.
Tình hình đó dẫn đến tong ngành nào đó, dần dần đã hình thành nên sự
thống trị của tổ chức độc quyền trong nền kinh tế. Nhng chẳng bao lâu sau
CNTBĐQ đã gặp phải những trở ngại trong sự phát triển.
Đó là vì chỉ trong một thời kỳ lịch sử hết sức ngắn ngủi, hình thức độc
quyền t nhân TBCN không đáp ứng đợc một yêu cầu phát triển của lực lợng
sản xuất. Xuất hiện và ngày càng thống trị một hình thức mới của CNTBĐQ,
CNTBĐQNN - một dạng thức của CNTBNN trong giai đoạn CNTBĐQ.
Xu hớng phát triển từ CNTBĐQ sang CNTBĐQNN đã bộc lộ rõ trong
những năm đại chiến thế giới lần thứ nhất dới hình thức chín muồi lúc bầy
giờ là ở Đức, sau đó là ở Mỹ, Anh, Pháp nhng ở mức độ thấp hơn.
Tuy nhiên, ở giai đoạn này, mặc dù Nhà nớc t sản đã can thiệp một
cách tích cực vào đời sống kinh tế xã hội song đều có trọng điểm, nh
trong thời kỷ khủng hoảng kinh tế. Nhà nớc ra sức tăng nhu cầu xã hội, làm


dịu mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng, do đó, kinh tế Nhà nớc t bản trở
thành phơng tiện quan trọng đáp ứng nhu cầu điều chỉnh này và trong những
điều kiện lịch sử khác nhau, hoàn cảnh kinh tế khác nhau thì trình độ phát

triển của CNTBNN cũng khác nhau. CNTBNN không chỉ hình thành trong
giai đoạn phát triển cao của CNTBĐQ, tức là CNTBĐQNN, mà nó ra đời
ngay trong giai đoạn đầu của CNTB. Song, chỉ sau bớc vào giai đoạn độc
quyền CNTBNN mới trở thành đặc trng kinh tế trong giai đoạn mới của
CNTB- CNTBĐQ. Điều đó chứng tỏ sự hình thành và phát triển của
CNTBNN là một xu thế tất yếu lịch sử, là quá trình CNTB tự vận động đến
giai đoạn mới, giai đoạn phát triển cao của CNTB đợc điều tiết và kiểm soát.
CNTB Nhà nớc ở các nớc đang phát triển.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, do kết quả của phong trào giải
phóng dân tộc, một loạt quốc gia đã giành đợc độc lập dân tộc. Một số nớc
trong đó đi lên CNXH do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Một số nớc
còn lại lựa chọn con đờng phát triển CNTB.
Tuy ở những mức độ phát triển khác nhau, nhng nhìn chung, các nớc
đi theo con đờng TBCN trong thời kỳ này đều có đặc điểm chung là muốn
tìm cách thoát ra khỏi sự lệ thuộc của CNĐQ để bảo vệ độc lập, tự chủ của
quốc gia mình và đều cha trải qua quá trình xã hội hoá, hay xã hội hoá còn ở
trình độ thấp trong khi nền kinh tế thế giới có bớc phát triển mới, khu vực
hoá, toàn cầu hoá đợc đẩy mạnh. Trong điều kiện nh vậy, để thực hiện quá
trình chuyển sang cơ chế thị trờng thì Nhà nớc ở những nớc này đã đóng vai
trò trụ cột trong việc hoạch định chơng trình phát triền và tổ chức thực hiện
những mục tiêu công nghiệp hoá đất nớc, đồng thời là một chủ thể trực tiếp
kinh doanh, vừa làm chất xúc tác cho quá trình phát triển của kinh tế t nhân
cũng nh quá trình phát triển lâu dài của quốc gia. Bên cạnh đó, họ chủ trơng
tích cực mở cửa đầu t trực tiếp nớc ngoài để thu hút kỹ thuật, công nghê hiện
đại và những phơng pháp quản lý có hiệu quả, coi đó nh một giải pháp thực
tế nhất trong điều kiện thiếu vốn cho công nghiệp hoá nh là đối với các nớc
chậm phát triển. Nhu cầu này của những nớc đI sau lại bắt gặp quá trình xuất
khẩu t bản của các nớc t bản phát triển, đây cũng chính là một trong những
nguyên nhân và là điều kiện cho sự ra đời của CNTBNN trong các nớc đang
phát triển.

CNTBNN ở các nớc đang phát triển, qua thực tế tồn tại dới những hình
thức chủ yếu sau:


Thứ nhất, thành lập khu vực kinh tế Nhà nớc bằng cách quốc hữu hoá
nhũng xí nghiệp vốn là của t bản nớc ngoài và xây dựng những xí nghiệp
mới bằng ngân sách Nhà nớc.
Kinh tế Nhà nớc ở các nớc đang phát triển theo định hớng TBCN
chính là sở hữu tập thể của toàn bộ giai cấp t sản, và là một trong những tiền
đề để giúp Nhà nớc điều chỉnh kinh tế, nhng thực chất lại thuộc về giai cấp t
sản, trớc hết là các nhà t sản dân tộc, sau đó t bản đế quốc do các chủ sở hữu
XQG đại diện.
Sự ra đời và phát triển của khu vực kinh tế Nhà nớc ở các nớc đang
phát triển sau khi giành đợc độc lập là một nhu cầu thực tế và là một tất yếu
khách quan. Bởi vì, Nhà nớc là một chủ thể kinh tế có chức năng trong việc
quản lý một phần tài sản quốc gia, nh đất đai, tài nguyên, hầm mỏ, bến
cảng hơn nữa để duy trì độc lậo chính trị, không thể không dựa trên sự độc
lập kinh tế bằng việc tạo dung và phát triển khu vực kinh tế Nhà nớc trong
những ngành xơng sống của nền kinh tế quốc dân. Việc này đòi hỏi phải có
một số vốn lớn, đầu t lâu dài và phải đợc tổ chức thực hiện đồng bộ toàn
diện, các ngành thuộc kết cấu hạ tầng kinh tế nh kinh tế xây dựng bến cảng,
đờng giao thông, những ngành mà khu vực t nhân ở mỗi nớc non yếu không
đảm đơng đợc về vốn liếng và khả năng kỹ thuật, trình độ quản lý, do đó
Nhà nớc phải gánh vác lấy. Trong hoàn cảnh đó, họ coi khu vực kinh tế Nhà
nớc là một công cụ hữu hiệu nhất để CNH-HĐH và là điều kiện để xây dựng
quốc gia độc lậo về chính trị và kinh tế. Đó cũng là lý do dẫn đến việc hình
thành và phát triển khu vực kinh tế Nhà nớc ở các nớc đang phát triển.
Quốc hữu hoá là hình thức đợc áp dụng rộng rãi trong những năm 5060 sau khi các nớc thuộc địa đợc giải phóng khỏi chủ nghĩa thực dân giành
chính quyền và tài sản kinh tế từ tay các chủ thực dân và t bản nớc ngoài.
Các nớc đã thực hiện quốc hữu hoá các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp cảu

t bản nớc ngoài, chẳng hạn nh Inđônêxia, sai khi giành đợc độc lập, điều 33
của Hiến pháp 1945 quy định Chính phủ sẽ tiếp quản tất cả các Công ty
thuộc quyền sở hữu của Hà Lan. Năm 1951 Ngân hàng Giava đợc quốc hữu
hoá thành ngân hàng Inđônêxa. Năm 1953 quốc hữu hoá mỏ thiếc. Năm
1954 quốc hữu hoá các công ty của Anh và Mỹ vào năm 1964. Một phần tài
nguyên và cơ sở sản xuất quan trọng do đó đã đợc chuyển vào tay Nhà nớc,
và vì vậy Nhà nớc dân tộc đã nắm đợc những vị trí then chốt trong nền kinh
tế và có khả năng tác động đến toàn bộ sự phát triển của đất nớc. Khu vực


kinh tế Nhà nớc trở thành nhân tố của sự độc lập kinh tế, đồng thời là chỗ
dựa cho cuộc đấu tranh củng cố độc lập chính trị.
Ngoài con đờng quốc hữu hoá các cơ sở sản xuất của t bản nớc ngoài,
thì khu vực kinh tế Nhà nớc còn đợc hình thành thông qua việc xây dựng
mới bằng việc chi ngân sách Nhà nớc. Con đờng này diễn ra với mức độ
khác nhau ở các nớc tuỳ thuộc vào nguồn thu ngân sách.
Chẳng hạn nh ở Inđônêxia, vào những năm 70 Chính phủ đã tập trung
đầu t vào khu vực công nghiệp, nhờ vậy, những xí nghiệp qui mô lớn của
Nhà nớc đã đợc xây dựng. Với Malaixia, sau khi giành đợc độc lập đã thực
hiện Nhà nớc hoá các doanh nghiệp. Trong thời kỳ 1975-1989 Malaixia đã
thành lập 901 xí nghiệp Nhà nớc (chiếm 80% các xí nghiệp đợc xây dựng
trong thời gian này. ở Thái Lan, những lĩnh vực nh kết cấu hạ tầng, điện lực,
hàng không, điện tín điện thoại cũng do Nhà nớc nắm giữ. Kết quả là khu
vực kinh tế Nhà nớc ở các nớc đang phát triển ngày nay không chỉ chiếm
một vị trí quan trọng trong công nghiệp khai thác mà đã trở nên phổ biến và
đôi khi đóng vai trò chủ đạo trong các ngành mạch máu của nền kinh tế.
Tuy nhiên do tình trạng hoạt động thiếu hiệu quả của các DNNN cũng
nh do bị ảnh hởng bởi quá trình t nhân hoá ở các nớc t bản phát triển và chủ
yếu phải đối phó với các vấn đề tăng trởng cùng với sức ép của các tổ chức
tài chính quốc tế, các công ty nớc ngoài về vấn đề nợ nần Các nớc đang

phát triển cũng đã gia nhập vào xu hớng t nhân hoá và cổ phần hoá đang
diễn ra trên thế giới. Thông qua con đờng t nhân hoá và cổ phần hoá, tỷ
trọng các DNNN đã giảm đi đáng kể, Nhà nớc có điều kiện tập trung vào
đầu t cho những chơng trình trọng điểm có tác động mạnh mẽ tới chiến lợc
phát triển kinh tế trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ. Đồng
thời, cải tiến đợc khâu tổ chức quản lý, nâng cao hiệu quả và tính năng động
của bản thân khu vực kinh tế Nhà nớc, gắn bó DNNN với khu vực kinh tế t
nhân.
Thứ hai, các hình thức liên doanh, liên kết với t bản nớc ngoài. Bộ
phận cấu thành của CNTBNN trong các nớc đang phát triển là liên doanh
liên kết giữa kinh tế Nhà nớc với t bản nớc ngoài.
Do xu hớng quốc tế hoá đời sống kinh tế và xuất phát từ tình trạng
thiếu vốn, kỹ thuật công nghệ cũng nh kinh nghiệm quản lý của các nớc
đang phát triển trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển. Bởi vậy, việc
tăng cờng các biện pháp nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu t nớc
ngoài đã đợc các quốc gia này coi là giải pháp hữu hiệu cho nhu cầu CNH,


HĐH của quốc gia mình. Trên cơ sở đó, hình thành bộ phận kinh tế liên
doanh, liên kết giữa kinh tế Nhà nớc với kinh tế t bản nớc ngoài.
Hầu hếu liên doanh liên kết này đều tồn tại dới nhiều hình thức khác
nhau, thông qua việc Nhà nớc thực hiện luật đầu t nớc ngoài, mở rộng các
hình thức đầu t trực tiếp nh BOT, BT, thành lập các XNLD ở nhiều lĩnh vực
công nghiệp, nông nghiệp, thơng nghiệp, khoa học và công nghệ Ngoài ra,
Nhà nớc còn tạo điều kiện để các DNNN vơn ra đầu t nớc ngoài, thành lập
các XNLD hoặc 100% vốn, hoặc hợp tác trên cơ sở hợp đồng với các công ty
Nhà nớc (hoặc t nhân) nớc ngoài trên địa bàn nớc chủ nhà.
Thứ ba, Nhà nớc thực hiện chính sách tô nhợng, tức là Nhà nớc ký kết
hợp đồng bao gồm những điều khoản nhất định với t bản nớc ngoài, cho họ
thuê, cho phép sử dụng một vùng đất, vùng biển, cơ sở sản xuất, phơng tiện

và t liệu sản xuất nhất định dới quyền kiểm soát của Nhà nớc, đồng thời thu
một khoản phí nhất đinh. Hình thức này phát triển mạnh dới loại hình nh
KCX, KCN tại nhiều nớc đang phát triển, và đã có những đóng góp tích cực
vào quá trình phát triển nền kinh tế thị trờng ở các nớc này.
Thứ t, Nhà nớc thực hiện liên doanh liên kết với t bản t nhân trong nớc
dới nhiều hình thức khác nhau, trong đó đặc biệt phát triển hình thức Nhà nớc tham gia cổ phần vào các doanh nghiệp t nhân và cho phép t nhân tham
gia cổ phần vào các DNNN, kể cả các nhà t bản nớc ngoài. Từ những năm
1980 thì hình tứhc này càng phát triển mạnh thông qua phong trào t nhân
hoá và cổ phần hoá DNNN ở các nớc đang phát triển. Ngày nay ở nhiều nớc
cũng đã áp dụng hình tứhc BT hoặc BOT với t bản t nhân trong nớc trong
một số lĩnh vực. Thí dụ, Nhà nớc cho phép t bản t nhân đầu t xây dựng đờng
giao thông, bến cảng, cầu, theo những hợp đồng đợc ký kết chặt chẽ. Sau đó,
t bản t nhân đợc phép khai thác một thời gian nhất định để thu hồi vốn. Hết
thời hạn hợp đồng chuyển giao công trình cho Nhà nớc quản lý. Đây cũng là
một kiểu tô nhợng với t bản t nhân trong nớc và là hình thức khai thác vốn
một cách khá hiệu quả trong việc phát triển các công trình kết cấu hạ tầng
cho đất nớc.
Hình thức liên kết giữa Nhà nớc và t bản t nhân trong nớc cong đợc
thực hiện thông qua việc Nhà nớc cho phép t nhân trong nớc thuê các t liệu
sản xuất, sử dụng các công trình kết cấu hạ tầng trong các KCN nh đối với
bản nớc ngoài.
Với quan niệm là trong thị trờng cạnh tranh không tránh khỏi sự chèn
ép của các doanh nghiệp lớn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Inđônêxia đã


chú ý hỗ trợ các hợp tác xã nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, để giảm bớt
sức ép của các đối thủ lớn, nâng đỡ để các doanh nghiệp nhỏ hợp tác với
nhau tăng thêm sức mạnh cạnh tranh, Nhà nớc Inđônêxia đã đa ra luật hợp
tác xã, trong đó có nhiều u đãi về tín dụng thông tin, đào tạo, kỹ thuật. Thái
Lan đã có chính sách hỗ trợ các hộ sản xuất nông nghiệp. Chẳng hạn Nhà nớc đã ký kết hợp đồng với công ty Charoen Picphand để công ty này hỗ trợ

kỹ thuật, thức ăn, giống, cách phòng chống dịch bệnh gia súc, bao tiêu sản
phẩm đối với các hộ chăn nuôi gia cầm, liên kết họ lại trong những tổ chức
kinh tế để vừa kiểm soát đợc lại vừa tạo điều kiện cho họ phát triển.
Thực tế cho thấy CNTBNN ở các nớc đang phát triển với những hình
thức và độ khác nhau đã giữ một vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế ở các nớc này:
Trớc hết, đã khai thác một cách có hiệu quả các nguồn lực quốc tế về
vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý để phục vụ quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nớc. Đồng thời với việc tích cực du nhập t bản nớc ngoài là
sự nỗ lực tăng tích luỹ trong nớc và tạo điều kiện để t bản trong và ngoài nớc
đợc vận dụng có hiệu quả. Chỉ tiêu lớn và dễ thấy nhất của hoạt động đầu t
có hiệu quả là xuất khẩu hàng công nghiệp không ngừng tăng và trở thành
đầu tàu thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chẳng hạn, nh Singapo là nớc thu hút đợc nhiều công ty XQG nhất ( khoảng 3000 công ty) do vậy, giá
trị xuất khẩu hàng năm trung bình đạt đầu ngời cao nhất thế giới.
Thứ hai, thông qua việc sử dụng t bản Nhà nớc, nhiều nớc đang phát
triển đã khắc phục đợc một số khó khăn của nền kinh tế, nh vấn đề giải
quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hịên đại hoá một số ngành, tăng
thu ngân sách.
Thứ ba, bằng việc sử dụng t bản Nhà nứơc, nhiều nớc đang phát triển
đã khai thác đợc tiềm năng của các thành phần kinh tế và qua đó thực hiện
cải tạo có hiệu quả các thành phần kinh tế, nâng cao hiệu quả điều tiết kinh
tế của Nhà nớc, góp phần tạo ra sức mạnh cho nền kinh tế dân tộc trong cuộc
cạnh tranh quốc tế.
Có thể nói, trong vài thập kỷ vừa qua, các nớc đang phát triển đã sử
dụng CNTBNN ngày càng có hiệu quả, khai thác đợc tiềm năng và nguồn
lực quốc gia và quốc tế để phục vụ cho công cuộc CNH, HĐH đất nớc mình.
Tuy nhiên, trong việc sử dụng CNTBNN dới nhiều hình thức khác
nhau ở các nớc đang phát triển cũng còn nhiều mặt hạn chế:



×