Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Sự lãnh đạo của đảng bộ tỉnh quảng ngãi đối với sự nghiệp giáo dục đào tạo từ 1991 đến 1996

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.95 KB, 21 trang )

Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi đối với sự nghiệp giáo dục đào tạo từ 1991 đến 1996
Bước vào thập niên 90 của thế kỷ XX, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Quảng Ngãi có
nhiều khó khăn, thách thức mới; thực trạng kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển chậm
và chưa thật ổn định, mất cân đối về nhiều mặt, sản xuất chưa có tích lũy lại phải chịu
sức ép lớn về dân số còn tăng cao khoảng 2,04%. Đời sống nhân dân, nhất là đối
tượng hưởng chính sách xã hội gặp nhiều khó khăn. Lực lượng lao động dôi thừa,
chưa có việc làm ổn định hàng năm khá lớn (hơn 4% dân số). Sự nghiệp văn hóa, giáo
dục còn nhiều mặt chưa ổn định, cần được quan tâm đầu tư phát triển hơn nữa. Đạo
đức, lối sống có nguy cơ bị xói mòn. Các tệ nạn xã hội ngày càng phát triển. Tệ tham
nhũng, tiêu cực, vi phạm dân chủ, làm mất lòng dân đang trở thành những vấn đề nổi
cộm của các cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh. Kỷ cương, phép nước chưa được
nghiêm minh. An ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội diễn biến phức tạp. “Đảng
bộ đông nhưng chưa mạnh. Số đảng viên trung bình còn nhiều... công tác tổ chức
chậm đổi mới, chưa có quy hoạch để đào tạo, bồi dưỡng, thay thế; chưa có chính sách
thu hút được số chuyên gia giỏi” [20, tr.23].
Nguyên nhân của những hạn chế trên là do sự tác động bất lợi của tình hình
quốc tế, nhất là sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước
Đông Âu; tình hình chung của cả nước và những khó khăn khách quan của tỉnh.
Nhưng chủ yếu và trực tiếp là do năng lực lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng,
quản lý nhà nước của các cấp các ngành chưa ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ
của sự nghiệp đổi mới toàn diện. Vì vậy, quá trình vận dụng, cụ thể hóa đường lối
đổi mới của Đảng vào điều kiện cụ thể của tỉnh và tổ chức thực hiện để đưa Nghị
quyết vào cuộc sống còn những bất cập. Thậm chí, có nơi có lúc, sự yếu kém của
một số tổ chức cơ sở đảng, sự thoái hóa biến chất của một bộ phận cán bộ đảng
viên đã làm giảm nhiệt tình cách mạng và lòng tin của quần chúng nhân dân đối
với Đảng ta nói chung và Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi nói riêng.


Về chủ quan, tỉnh Quảng Ngãi có nhiều thuận lợi cơ bản. Tuy chưa được hoàn
thiện, nhưng ủửờng lối lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh luôn thể hiện tinh thần và quyết tâm
cao của toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân vì sự nghiệp đổi mới đất nước. Những


thành tựu quan trọng đã đạt được trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội
và những kinh nghiệm bước đầu được rút ra trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và quản
lý các cấp các ngành trong tỉnh. Nếu biết phát huy những thuận lợi cơ bản trên, đồng
thời biết khai thác tốt hơn nguồn nhân lực dồi dào, nhất là “chất xám” của đội ngũ cán
bộ khoa học kỹ thuật và quản lý kinh tế đã được đào tạo cơ bản, nguồn vốn tiềm tàng
trong nhân dân, nguồn tài nguyên đa dạng ở địa phương và biết tạo ra môi trường đầu
tư thông thoáng để thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước, thì chắc chắn rằng tỉnh
Quảng Ngãi sẽ có những tiền đề khá vững chắc để vượt qua mọi khó khăn, nền kinh
tế - xã hội phát triển cao hơn. Nhận thức được điều đó, dưới ánh sáng Nghị quyết Đại
hội lần thứ VII của Đảng, Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XIV(1991) đã đề
ra mục tiêu tổng quát của 5 năm từ 1991 đến1995 là:
Vượt qua mọi khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế, từng
bước nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo nhiệm vụ an ninh quốc
phòng, tập trung xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu lực của bộ máy chính quyền, vai trò
của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, tạo tiền đề vật chất để đi lên cho
những năm sau [20, tr.25].
Với quan điểm trên, Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi đã thật sự đề cao vị trí, vai trò
của nhân tố con người trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Để xây dựng chiến
lược con người, Đảng bộ tỉnh khẳng định: “Công tác giáo dục trong những năm tới
cần tập trung vào việc phổ cập tiểu học, đa soỏ trẻ em đến tuổi vào trường học. Tiến
hành một cách tích cực công tác xóa mù chữ cho nhân dân và bổ túc văn hóa cho cán
bộ, chiến sĩ, thanh niên...” [20, tr.34]. Ngoài ra, mở rộng các trung tâm giáo dục kỹ
thuật tổng hợp, phát triển các trường, lớp dạy nghề theo các hình thức công lập, dân


lập và tư thục. Gắn việc học nghề, hành nghề với các nhiệm vụ, mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh. Tổ chức tốt nhiệm vụ dạy và học kết hợp với lao động sản
xuất. Ngăn chặn tình trạng xuống cấp CSVC, xây dựng và tu sửa trường lớp, trước hết
bằng công sức của thầy và trò; bằng sự đóng góp của nhân dân địa phương, của các

thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội và sự hổ trợ của ngân sách nhà nước. Tăng cường giáo dục chính trị đạo đức, ý thức tổ chức kỷ luật và pháp luật cho học sinh. Xây
dựng trường thành các trung tâm văn hóa có nền nếp kỷ cương, văn minh, lành mạnh.
Chăm sóc sức khỏe học sinh và đời sống của các thầy cô giáo. Coi trọng việc nâng cao
trình độ giáo viên. Chấn chỉnh việc dạy thêm để có chất lượng, ít tốn kém và có thời
gian cho học sinh nghỉ ngơi, tham gia các hoạt động xã hội.
Tăng cường chỉ đạo và đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ; chú
trọng ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất, gắn với phục vụ thiết
thực các chương trình kinh tế - xã hội của tỉnh; đặc biệt là thực hiện mục tiêu phát
triển nông nghiệp toàn diện, giải quyết việc làm cho người lao động. Tạo điều kiện
tốt hơn nữa cho cán bộ khoa học làm việc có hiệu quả và nâng cao trình độ chuyên
môn. “Coi đây là sự đầu tư cơ bản phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Mục
tiêu hướng mạnh vào việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”
[10, tr.28].
Quán triệt Nghị quyết trên của Đảng bộ, với quan điểm GD-ĐT phải đi trước
một bước, trong 3 năm (1991-1993), ngành GD-ĐT tỉnh Quảng Ngãi đã đạt được
một số kết quả rất đáng trân trọng.
Biểu 1.4: Kết quả xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học (1991-1993)
Năm

Số người ra lớp
xóa mù chữ

Số trẻ em ra lớp
phổ cập

1991
1992
1993

5.747

4.500
3.564

1.159
1.710
2.749

Kinh phí được cấp
(triệu đồng)
450
530
530

Nguồn: [63, tr.9]


Với sự quan tâm của Tỉnh ủy, Ban chỉ đạo xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu
học đã thành lập từ cấp tỉnh đến cấp xã theo đúng Luật Phổ cập giáo dục Tiểu học
được Quốc hội khoá VIII (kỳ họp thứ 9) thông qua ngày 12/8/1991 và Chỉ thị
17/CT (1991) của Tỉnh ủy Quảng Ngãi về đẩy mạnh công tác xóa mù chữ, phổ cập
giáo dục tiểu học. Nhờ làm tốt công tác vận động, tuyên truyền, thuyết phục của
các lực lượng xã hội như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên, Hội Liên
hiệp phụ nữ, Bộ đội biên phòng... cùng với chương trình giảng dạy phù hợp ở mọi
lứa tuổi nên phong trào xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học đã đạt được những
thành tích nhất định trong việc hạn chế người mù chữ, tái mù chữ, từng bước nâng
cao dân trí cho nhân dân ở địa phương.
Đến năm 1993, toàn tỉnh đã có 92/171 xã được công nhận đạt chuẩn quốc gia
về xóa xong mù chữ; nhiều địa phương đạt thành tích cao như thị xã Quảng Ngãi,
huyện Sơn Tịnh, huyện Bình Sơn, huyện Tư Nghĩa, huyện Trà Bồng và huyện
Minh Long.

Hệ thống trường học, lớp học đã được sắp xếp hợp lý hơn: Tách cấp I và cấp
II hình thành bậc tiểu học, định hình các trường cấp II, phát triển mạng lưới trường
PTTH mới (có từ 6-12 lớp). Đầu tư xây dựng trường trọng điểm chất lượng cao
(trường chuyên cấp II, III Lê Khiết) của tỉnh, hình thành hệ thống trường chuyên,
lớp chọn nhằm đào tạo những học sinh giỏi, phát hiện, bồi dưỡng nhân tài cho địa
phương và cho đất nước. Củng cố các trường dân tộc nội trú, các trường trung học
chuyên nghiệp, dạy nghề, các Trung tâm kỹ thuật hướng nghiệp dạy nghề, trung
tâm ngoại ngữ, tin học, các cơ sở dạy nghề tư nhân được khuyến khích phát triển...
tạo kiều kiện thuận lợi cho mọi người tham gia học tập với nhiều loại hình đào tạo
khác nhau. Vì thế hàng năm đã thu hút gần 10.000 học viên, trong đó có khoảng
hơn 7000 học sinh học nghề phổ thông. Các nhóm trẻ gia đình và dân lập... các tr ường này cũng được tạo điều kiện phát triển thuận lợi hơn.


Để hình thành được đội ngũ những người thầy vừa có bản lúnh chính trị vững
vàng, vừa có nghiệp vụ chuyên môn giỏi; các thế hệ học sinh, học viên chăm
ngoan, học giỏi vừa phát triển về thể chất luôn được Đảng bộ tỉnh và ngành GDĐT xác định là nhiệm vụ hàng đầu quyết định đến chất lượng dạy và học trong nhà
trường. Chính vì thế, trong những năm qua, nội dung và phương pháp giảng dạy
gắn liền với chương trình cải cách, trong đó đặc biệt chú ý đến giáo dục văn hóa,
giáo dục chính trị tư tưởng và giáo dục thể chất thông qua những hoạt động ngoại
khóa như tìm hiểu truyền thống cách mạng, truyền thống quê hương, đất nước,
truyền thống anh bộ đội cụ Hồ, tìm hiểu pháp luật, Hội khỏe Phù Đổng, các hoạt
động văn nghệ, thể dục thể thao... Việc huy động học sinh đúng độ tuổi đi học ở
các lớp đầu cấp đều cao. Tỷ lệ học sinh bỏ học ngày càng giảm. Chất lượng học tập
đại trà trong toàn tỉnh được củng cố. Chất lượng học sinh trường chuyên, lớp chọn
được nâng cao. Học sinh, sinh viên Quảng Ngãi vốn có truyền thống hiếu học. Tuy
vậy, trước những năm 1990, số học sinh thi đỗ đại học và các giải học sinh giỏi
còn thấp. Từ năm học 1990-1991 đến nay, đặc biệt là 3 năm (1993-1995), học sinh
đạt giải học sinh giỏi cấp quốc gia và tỉnh ngày càng nhiều, đạt nhiều giải cao.
Biểu 1.5: Học sinh đạt giải học sinh giỏi quốc gia và tỉnh (1993-1995)
1993


Năm
Giải
Tiểu học
Trung học cơ sở

1994

Tỉnh

Q. gia

Tỉnh

Q. gia

Tỉnh

1

0

0

0

3

6


Phổ thông tr. học

2
2

0

0
2

2
6

6
2
0
0

0

2
1
0
1

8

0

07

08

5

05

3
0

4

1995
Q. gia

3
9
Nguồn: [58, tr.13]


Tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường cao đẳng, đại học, trung học chuyên
nghiệp, dạy nghề trong toàn tỉnh ngày càng tăng, năm 1993 có 613 em, chiếm tỷ lệ
20%; năm 1994 có 1.031 em, chiếm tỷ lệ 26%; năm 1995 có 2.180 em, chiếm tỷ lệ
26,15%, đặc biệt có nhiều em đạt thủ khoa [58, tr.14]; số lượng sinh viên vào đại
học, cao đẳng đạt khá cao trong cả nước; chất lượng học tập của học sinh tại tỉnh
ngày càng tăng như: Năm học 1994-1995, kết quả học tập của học sinh khối trung
học chuyên ban: loại tốt chiếm 31,76%, loại khá chiếm 41,34%, loại trung bình
chiếm 24,34% và loại yếu, kém chiếm 02,35% [58, tr.14].
Việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng chính trị và chuyên môn cho đội ngũ giáo
viên được UBND tỉnh và Sở GD-ĐT tỉnh Quảng Ngãi chú trọng thường xuyên. Vì
vậy, đội ngũ cán bộ, giáo viên các trường đã và đang được củng cố, bố trí, sắp xếp

lại cho hợp lý hơn. Từ năm 1993 đảm bảo được số lượng và chất lượng giáo viên để
phục vụ cho yêu cầu phát triển nhanh GD-ĐT của tỉnh. Mặt mạnh cơ bản là: tỷ lệ
chuẩn hóa đội ngũ giáo viên rất cao so với cả nước; các giải pháp thực hiện đồng
bộ trong quá trình bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực về chuyên môn, nghiệp
vụ cho giáo viên ở tất cả các bậc, ngành học đạt hiệu quả cao; đồng thời đảm bảo
tốt các chủ trương do Bộ Giáo dục và Đào tạo đề ra.
Quan điểm đúng đắn và sự chỉ đạo sát thực, cụ thể của Đảng bộ tỉnh nhằm
thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 4 của Đảng và Nghị quyết của Tỉnh ủy
về GD-ĐT, đã thực sự tạo nên những bước chuyển biến mới về mặt nhận thức của
toàn xã hội đối với vị trí, vai trò của GD-ĐT. Từ đó đã huy động được mọi nguồn
lực tập trung cho phát triển sự nghiệp GD-ĐT. Kết quả sau 3 năm thực hiện (19941996), nhiều chỉ tiêu của ngành đề ra thực hiện kết quả như sau:
- Sắp xếp, từng bước hoàn thiện hệ thống trường lớp phù hợp với yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.


Tách khỏi bậc tiểu học với PTCS, hệ thống trường tiểu học được xây dựng
và phân bổ rộng khắp các xã, phường trong toàn tỉnh để tạo điều kiện thuận lợi cho
học sinh đến trường. Hệ thống trường PTCS xã và liên xã được hình thành, phù
hợp với những điều kiện dạy và học ở từng địa bàn. Hệ thống trường trung học
chuyên nghiệp, dạy nghề tiếp tục được củng cố và mở rộng, đáp ứng được nhu cầu
học tập, đào tạo cho các tầng lớp nhân dân. Đến năm 1996, toàn tỉnh có 159 trường
mầm non, 224 trường tiểu học, 108 trường THCS, 30 trường PTTH, 06 trường
trung học chuyên nghiệp - dạy nghề, 05 trung tâm GDTX, 05 trường dân tộc nội
trú, 01 trung tâm xúc tiến việc làm của Sở Lao động - Thương binh - xã hội tỉnh và
các Trung tâm dạy ngoại ngữ, tin học khác.
- Tăng nhanh số lượng học sinh, sinh viên ở các cấp học, ngành học, đạt và
vượt chỉ tiêu kế hoạch.
Giáo dục mầm non và phổ thông đã hạn chế được sự giảm sút, tỷ lệ trẻ em và
học sinh đến trường, đến lớp tương đối ổn định; các trường trung học chuyên
nghiệp - dạy nghề đào tạo đắc lực, góp phần cho sự ra đời và trưởng thành của đội

ngũ những người lao động lành nghề. Phong trào thi đua học tập, nâng cao trình độ
dân trí của người dân Quảng Ngãi được giữ vững và ngày càng phát triển. Số
người tham gia học tập với nhiều loại hình trường lớp và phương thức đào tạo khác
nhau. Số lượng trường lớp và người học năm sau cao hơn năm trước. So sánh năm
học 1993-1994 với năm học 1995-1996 là: mẫu giáo từ 27.100 em tăng lên 29.293
em; tiểu học 4.649 học sinh tăng lên 4.758 học sinh; THCS 1.567 học sinh tăng lên
1.806; THPT 324 học sinh tăng lên 462 học sinh [58, tr.16]; riêng trung học
chuyên nghiệp - dạy nghề, năm học 1990-1991 mở được 76 lớp học với 3.829 học
sinh, đến năm học 1995-1996 mở được 131 lớp học với 6.453 học sinh (trong đó
có 1.462 sinh viên đại học tại chức); Trung tâm ngoại ngữ - tin học đào tạo hơn
1.400 cán bộ lãnh đạo, quản lý, công nhân viên chức - lao động và hàng ngàn học


sinh, sinh viên trình độ A, B, C, góp phần nâng cao trình độ ngoại ngữ và tin học
cho cán bộ công chức và nhân dân trong tỉnh [58, tr.34].
- Đẩy mạnh công tác xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học đạt được
những kết quả đáng kể.
Thông qua những chính sách khuyến khích cụ thể và thiết thực như tăng kinh
phí Nhà nước cấp cho mỗi học sinh tiểu học, miễn giảm ngày công lao động công
ích tại địa phương cho người đi học, đồng thời tăng gấp đôi tiền bồi dưỡng cho cán
bộ giảng dạy. Qua cuộc tổng điều tra trình độ văn hóa của tỉnh tháng 7/1996 kết
quả công tác xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học là: Diện cháu 6-14 tuổi đang
và đã học xong cấp I là : 230.359 trên tổng số 247.394, đạt tỷ lệ 93,11%; Diện
trong độ tuổi từ 15- 35 tuổi có 432.311 người thì có, 55.512 người có trình độ văn
hóa hết cấp III trở lên, đạt tỷ lệ 12,84 %. Có 8.879/19.231 người được xóa mù chữ,
đạt tỷ lệ 46,17% [56, tr.7-8], có 125/171 xã và 9/13 huyện, thị được công nhận đạt
chuẩn quốc gia về xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học [58, tr.3]; Riêng cuối
năm 1996 đã huy động 4.374/ 6.312 người vào lớp học xóa mù chữ, kiểm tra công
nhận 1.926 người ở mức ba.
- Nề nếp dạy và học ở các cấp học, ngành học được củng cố và giữ vững,

chất lượng giáo dục có những bước chuyển biến tích cực.
Ngành mầm non đã có những cải tiến về nội dung, chương trình và phương
pháp nuôi dạy trẻ nên chất lượng nuôi- chăm sóc- giáo dục trẻ có tiến bộ rõ rệt,
nhất là công tác chống suy dinh dưỡng, chăm sóc sức khoẻ, nên số cháu đạt "Bé
khoẻ", "Bé ngoan" chiếm tỷ lệ 81% tổng số cháu đi học. Ngành học phổ thông đã
thực hiện chương trình 12 năm cải cách giáo dục, chất lượng văn hóa của học sinh
được duy trì, củng cố và có bước tiến bộ hơn trước, nhất là các trường chuyên, lớp
chọn và trường PTTH phân ban. Ngành giáo dục chuyên nghiệp - dạy nghề đã chú
ý đầu tư CSVC, cải tiến chương trình, nội dung, phương pháp giảng dạy; tổ chức,


sắp sếp lại quá trình đào tạo để thực hiện 5 chương trình mục tiêu của Bộ Giáo dục
và Đào tạo đề ra... nên chất lượng đào tạo khá, cơ cấu ngành nghề đào tạo được bố
trí hợp lý, bước đầu được xã hội chấp nhận. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng,
đạo đức cho học sinh bước đầu được chú ý, như tập trung vào việc xây dựng tinh
thần thái độ học tập, ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức, trách nhiệm xây dựng quê
hương đất nước. Tính chung trong toàn tỉnh, năm 1995, tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp
khá cao: Tiểu học đạt 98,31%; Trung học cơ sở đạt 90,12%; Phổ thông trung học
đạt 92,34%... tỷ lệ hạnh kiểm tốt - khá là 90,20% [57, tr.24-25]. Đặc biệt trong 4
năm từ 1992-1996, trường chuyên Lê Khiết có 138 học sinh giỏi cấp tỉnh (toàn tỉnh
có 648 học sinh giỏi cấp tỉnh) và 23 học sinh đạt giỏi quốc gia (toàn tỉnh có 62 học
sinh đạt giỏi quốc gia), trong đó có em Nguyễn Hữu Hội đạt giải toán Olympic
quốc tế, có 398 học sinh trúng tuyển Đại học và có nhiều em đậu thủ khoa. Giáo
dục chuyên nghiệp - dạy nghề có nhiều chuyển biến tốt, tổng số học sinh, sinh viên
tăng gấp 2 lần so với năm 1990, hiện nay có 7.232 học sinh được nhận học bổng,
chiếm tỷ lệ 54,8% (so với tổng số hàng năm) [58, tr. 5].
- Đội ngũ giáo viên tiếp tục được xây dựng và tăng cường về số lượng và
chất lượng.
Thực hiện chương trình bồi dưỡng thường xuyên cho đội ngũ giáo viên theo
chu kỳ 1992-1996 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở GD-ĐT Quảng Ngãi đã liên kết

với các trường đại học Quy Nhơn, đại học Sư phạm Huế, đại học Ngoại ngữ Đà
Nẵng để triển khai thực hiện đầy đủ các quy trình và đạt được kết quả khả quan:
Bậc tiểu học 4121 giáo viên, đạt 89%; THCS 3.123 giáo viên, đạt 92%; PTTH 567
giáo viên, đạt 97%; trung học chuyên nghiệp 82/85 giáo viên, đạt 97% [59, tr.8].
Đồng thời chủ động đến các trường đại học để tìm nguồn và tiếp nhận, phân công
sinh viên tốt nghiệp ra trường có nhu cầu về công tác tại Quảng Ngãi là 2.665 em.
Được sự quan tâm và ủng hộ kinh phí của các cấp, các ngành tại địa phương... tạo


điều kiện cho việc thực hiện tốt chương trình mục tiêu như: kết hợp bồi dưỡng
chuẩn hóa và đào tạo, bồi dưỡng vượt chuẩn với nhiều hình thức tại các trường cao
đẳng, đại học trong nước (riêng đào tạo sau đại học: 55 cao học, 05 nghiên cứu
sinh). Toàn tỉnh có 20 tiến sĩ, và 169 thạc sĩ [58, tr. 45].
Tuy bị ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường đến đời sống vật chất, tinh thần nhưng
đa số cán bộ, giáo viên đã không ngừng phấn đấu, khắc phục khó khăn để bám trường,
bám lớp, giữ vững phẩm chất, lương tâm nghề nghiệp, góp phần quyết định việc phát
triển số lượng và nâng cao chất lượng sự nghiệp GD-ĐT. Đưa tổng số cán bộ, giáo viên
từ 8.566 (1991) tăng lên 10.714 giáo viên (1996), cơ bản đủ cho yêu cầu phát triển
GD-ĐT tại tỉnh. Số giáo viên hiện nay thiếu không nhiều, bậc tiểu học và THCS ở
các vùng sâu, vùng xa, hải đảo đã được bố trí đủ 887 giáo viên vào năm học 19961997.
Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua hai tốt, ngành GD-ĐT Quảng Ngãi đã
chỉ đạo Phòng Giáo dục huyện, các trường PTTH trong tỉnh tổ chức thao giảng, dự
giờ, thi tuyển chọn giáo viên dạy giỏi các cấp. Hàng năm có hàng nghìn giáo viên
đăng ký dự thi, trong đó có 234 giáo viên đạt dạy giỏi cấp tỉnh. Cụ thể:
Biểu 1.6: Giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh từ năm học 1991-1992 đến 1995-1996
Năm học
1991-1992
1992-1993
1993-1994
1994-1995

1995- 1996
Cộng

Cấp I
10
07
17
23
20
77

Cấp II
17
27
36
26
22
128

Cấp III
0
0
06
11
12
29

Tổng số
27
34

59
60
54
234

Nguồn:[61, tr. 8]
Vì vậy, đã xuất hiện nhiều tấm gương sáng, tiêu biểu cho học sinh và đồng
nghiệp noi theo.


- Ngân sách nhà nước chi cho sự nghiệp GD-ĐT hàng năm đều tăng, được
sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả.
Thật sự xem GD-ĐT là quốc sách hàng đầu, nên hàng năm UBND tỉnh tăng
cường đầu tư ngân sách cho các cấp học, ngành học. Từ năm 1993, sau khi được
giao quản lý ngân sách ngành, Sở GD-ĐT Quảng Ngãi đã tuân thủ đúng các quy
định về thu, chi ngân sách, bảo đảm yêu cầu hợp lý, công bằng, công khai trong
xây dựng kế hoạch và phân phối ngân sách toàn ngành, cố gắng đầu tư có hiệu quả
nguồn ngân sách được cấp cho yêu cầu dạy và học; công khai các chủ trương,
chính sách ưu đãi cho giáo viên và mục tiêu phát triển miền núi, hải đảo, vùng
nông thôn gặp khó khăn; cố gắng duy trì và tăng cường công tác XHHGD, vận
động các nguồn kinh phí đóng góp, hỗ trợ cho việc phát triển, nâng cấp trường lớp.
Tuy nhiên, do tỉnh còn nhiều khó khăn nên ngân sách đầu tư cho giáo dục của
tỉnh giao thường thấp hơn so với chỉ tiêu của Trung ương khoảng 10%, thu nhập
bình quân của nhân dân quá thấp 170 USD (1996), do đó mức huy động vốn trong
nhân dân còn quá ít, chủ trương phân cấp, quản lý ngân sách giáo dục của tỉnh
chưa nhất quán... nên ngành còn gặp nhiều khó khăn. Mặc dù ngân sách chi cho
GD-ĐT chiếm từ 32%- 45% ngân sách của tỉnh cụ thể là: Năm 1993 tỉnh cấp
29,551 tỷ đồng; năm 1994 là 47,116 tỷ đồng; năm 1995 là 82,592 tỷ đồng; năm
1996 là 97,874 tỷ đồng [58, tr.8]. Từ năm 1994 đến nay công tác tài chính có
những đổi thay tích cực, góp phần khá tốt cho sự nghiệp đổi mới GD-ĐT của tỉnh

theo xu hướng ngày càng tốt, nhưng thực tế nguồn ngân sách này chưa đáp ứng
được yêu cầu phát triển GD-ĐT tại địa phương. Vẫn còn một số vấn đề đã và đang
đặt ra là: Còn nhiều bất hợp lý trong chủ trương chung: học phí của sinh viên cao
đẳng, đại học quá cao, trong khi mức học bổng lại quá thấp, chưa có ý nghĩa
khuyến khích học tập; kinh phí chương trình mục tiêu còn qua nhiều khâu trung
gian nên triển khai thực hiện kế hoạch chậm; chính sách đối với cán bộ, giáo viên
công tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn còn nhiều bất cập; ngân sách


chi cho đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm CSVC, phương tiện dạy và học chưa bảo
đảm được yêu cầu phát triển mạnh mẽ GD-ĐT của tỉnh như mong muốn: Chưa
chấm dứt được lớp học ca 3, phòng thực hành, thí nghiệm, thư viện vừa thiếu vừa
lạc hậu (01/29 phòng thí nghiệm đạt chuẩn...); tốc độ xây mới tuy nhanh từ 142
phòng học 1993 tăng lên 243 phòng học năm 1995, nhưng chưa thể bù đắp cho
tình trạng hư hỏng (chủ yếu do thiên tai và quá hạn sử dụng). Vì thế, hiệu quả đóng
góp cho yêu cầu nâng cao chất lượng dạy- học từ phía CSVC kyừ thuaọt của địa
phương vẫn còn nhiều hạn chế, cần được quan tâm đầu tư nhiều hơn [58, tr.11].
- Công tác xã hội hóa giáo dục từng bước được thực hiện tốt.
Chấp hành Chỉ thị của Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo và công đoàn
ngành đã có Công văn số 09 hướng dẫn Đại hội giáo dục các cấp. Và thực hiện
cuộc vận động “Kỷ cương-Tình thương- Trách nhiệm”. Từ đây cuộc vận động xã
hội hóa giáo dục đã đi vào chiều sâu nhận thức và trách nhiệm của từng xã,
phường, cơ quan, xí nghiệp, các đoàn thể, ban, ngành. Phong trào toàn dân chăm lo
xây dựng, phát triển sự nghiệp GD-ĐT được duy trì và phát huy tác dụng tích cực:
- YÙ thức trách nhiệm của toàn xã hội được nâng cao.
- Công tác dân chủ hóa nhà trường phát triển tốt.
- Đóng góp xây dựng cơ sở trường, lớp phát triển mạnh mẽ ở mọi bậc học,
ngành học: đưa trẻ em cấp I đến trường đạt 98%; công tác xóa mù chữ-phổ cập
giáo dục tiểu học tiến triển tốt đạt 73%; nhiều địa phương, ban ngành, cơ quan, xí
nghiệp, đoàn thể đã có học bổng, quỹ hỗ trợ tài năng trẻ. Tổng số tiền quỹ khuyến học

là 450 triệu đồng, và 15 tỷ đồng đóng góp để xây dựng CSVC phục vụ cho nhiệm vụ
dạy và học; hạn chế học sinh bỏ học, lưu ban, chỉ còn 5% (năm học 1995-1996), cả
tỉnh có 18 lớp học tình thương.
- Kỷ luật kỷ cương trong nhà trường đã tạo điều kiện cho giảng dạy và học
tập. Đạo đức học sinh được nâng cao. Số học sinh có đạo đức khá, giỏi chiếm 3035% trong nhà trường.


- Hàng năm tỷ lệ học sinh lên lớp khá cao: PTTH trên 95%; THCS trên 92%.
Đặc biệt bậc tiểu học tỷ lệ tốt nghiệp là 98,5%.
- Hình thành 05 trung tâm GDTX, 07 trung tâm hướng nghiệp - dạy nghề, 07
trường chuyên, 07 trường bán công và hàng trăm lớp chọn. Đồng thời góp phần
từng bước xóa bỏ trường học, lớp 3 ca và nhiều lớp học tranh tre, nứa lá, dột nát...
ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Chính biết phối hợp với các tổ chức
đoàn thể, các ban ngành khác trong tỉnh và Hội cha mẹ học sinh trong từng cơ quan,
đơn vị trường, lớp cho nên môi trường GD-ĐT trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đã được lành mạnh hóa; kỷ cương, nề nếp trong học đường từng bước được xác lập,
nhà trường từng bước gắn liền với gia đình và xã hội.
Xã hội hóa giáo dục là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, là
động lực phát triển mạnh mẽ nền giáo dục XHCN, là cơ sở để nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Nếu trong những năm 1986-1990, sự nghiệp GD-ĐT tỉnh Quảng Ngãi đánh
giá là “Được duy trì, có một số mặt ổn định và phát triển”, chỉ trong 3 năm từ 1991
đến 1993, với những thành tích trên được Tỉnh ủy Quảng Ngãi khẳng định rằng:
“Trong những năm qua, mặc dù không ít khó khăn, nhưng sự nghiệp giáo dục - đào
tạo tỉnh đã đạt được những thành tích đáng kể, đã ngăn chặn sự sa sút, từng bước
ổn định và phát triển” [20, tr.23].
Để tiếp tục đưa sự nghiệp GD-ĐT tỉnh lên một bước mới, đáp ứng yêu cầu
chung sự nghiệp đổi mới đất nước theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khoá VII)
của Đảng. Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (11/1993) đã
đề ra các mục tiêu sau:
Một là, đẩy mạnh xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học cho trẻ em và cho

người lớn, khuyến khích mọi người đi học để nâng cao dân trí. Phấn đấu toàn tỉnh
đạt chuẩn xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học trước năm 1998. Đến năm 2000, tất


cả các xã, phường thị xã Quảng Ngãi và các thị trấn đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục
cấp II. Phát triển mạnh giáo dục miền núi, hải đảo và vùng khó khăn. Đến năm 2000,
tất cả cán bộ từ huyện đến tỉnh đều phải có trình độ văn hóa PTTH hoặc BTVH trung
học trở lên và biết sử dụng một ngoại ngữ thông dụng.
Hai là, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng người giỏi, cung cấp cán bộ cho một
số ngành mũi nhọn, tạo điều kiện cho học sinh có năng khiếu được tiếp tục học lên,
nắm bắt được tiến bộ của KH-CN phục vụ các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của tỉnh.
Ba là, chú trọng giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
nội dung nhân văn và bản sắc văn hóa dân tộc. Không ngừng nâng cao chất lượng
và hiệu quả GD-ĐT, kết hợp tốt học với hành, học tập gắn liền với lao động sản
xuất, thực nghiệm và nghiên cứu khoa học, gắn nhà trường với xã hội. Đẩy mạnh
giáo dục pháp luật, đạo đức, thẩm mỹ, thể chất, dân số, môi trường, tin học và
ngoại ngữ,...
Bốn là, đa dạng hóa hình thức, nội dung đào tạo chuyên nghiệp. Mở rộng đào
tạo nghề, phổ cập nghề, đào tạo lại và bồi dưỡng thường xuyên cho người lao động
phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Bảo đảm phần lớn học sinh cuối
cấp II, cấp III không có điều kiện học lên đều được học nghề. Tăng nhanh số học
sinh vào học ở bậc cao đẳng, đại học.
Nghị quyết Tỉnh ủy đã đề ra một số biện pháp cơ bản nhằm thực hiện 4 mục tiêu
trên là: Thực hiện tốt hơn nữa công tác XHHGD nhằm nâng cao trách nhiệm của các
cấp ủy đảng và chính quyền các cấp, của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân,
các tổ chức kinh tế - xã hội, mọi gia đình và mọi người đối với sự nghiệp GD-ĐT.
Triển khai thực hiện có hiệu quả việc xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, huy
động tối đa số cháu 5 tuổi vào mẫu giáo và trẻ em trong độ tuổi vào lớp 1, giảm tỷ lệ
học sinh lưu ban, bỏ học ở tiểu học... Trên cơ sở những quy định chung của Nhà nước, Hội đồng nhân dân và UBND tỉnh có những chính sách học bổng và chính sách



miễn giảm học phí đối với những học sinh giỏi có hoàn cảnh khó khăn, học sinh con
em gia đình chính sách và gia đình nghèo, nghiêm cấm và xử lý nghiêm khắc việc tuỳ
tiện đặt ra các khoản thu ngoài quy định đối với học sinh. Tổ chức sắp xếp xong mạng
lưới trường học vào đầu năm học 1994-1995 nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, sử dụng
hợp lý CSVC và năng lực đội ngũ giáo viên; hình thành và phát triển hệ thống GDTX
nhằm tạo cơ hội làm thỏa mãn nhu cầu học tập suốt đời cho mọi thành viên trong xã
hội. Củng cố các trường bán công, dân lập, tư thục hiện có để nhân dân yên tâm gửi
con em đến trường. Tiếp tục đầu tư, củng cố trường Lê Khiết để thực sự là trường
trọng điểm chất lượng cấp II, III của tỉnh; mỗi địa phương có kế hoạch xây dựng trường chuyên hoặc trường trọng điểm chất lượng và trường phổ thông có lớp chọn ở
từng khối lớp. Tận dụng tiềm lực của các trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp dạy nghề hiện có của địa phương và Trung ương trên địa bàn tỉnh để đào tạo ra nguồn
nhân lực dồi dào, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Trong đó,
coi trọng việc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ công nhân và lao động nhằm tăng tỷ lệ
công nhân đưụùc đào tạo; tăng tỷ lệ lao động kỹ thuật trong đội ngũ lao động xã hội;
đặc biệt coi trọng đào tạo nghề cho học sinh cấp II và cấp III. Bảo đảm ngân sách cho
sự nghiệp GD-ĐT, động viên sự đóng góp của các tổ chức và nhân dân, huy động các
nguồn kinh phí từ chương trình định canh- định cư, các chương trình mục tiêu của
ngành Lao động- Thương binh- Xã hội, ngành Y tế có liên quan đến GD-ĐT; huy
động sự tài trợ của các tổ chức quốc tế, các nhà hảo tâm trong và ngoài nước; sửa đổi
quy định về quản lý thu, chi học phí theo hướng đưa vào ngân sách; tranh thủ tiếp
nhận nguồn kinh phí từ các chương trình mục tiêu của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tập
trung chống xuống cấp CSVC trường học, tạo điều kiện tốt hơn cho dạy và học.
Chăm lo công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ, năng lực sư phạm, đạo đức và đời
sống của giáo viên và cán bộ quản lý bằng những chế độ, chính sách ưu đãi phù hợp.
Đồng thời thường xuyên tiến hành đánh giá, phân loại, sàng lọc cán bộ, giáo viên.


Củng cố và sắp xếp hợp lý bộ máy quản lý ngành GD-ĐT theo hướng phân cấp quản
lý, kết hợp quản lý ngành với quản lý theo lãnh thổ, dân chủ hoá. Kiện toàn tổ chức và
hoạt động của thanh tra GD-ĐT, tăng cường chức năng quản lý nhà nước về các hoạt

động GD-ĐT trong toàn tỉnh.
Tác dụng của công tác XHHGD là rất lớn, là động lực phát triển nền giáo dục
XHCN, là cơ sở để nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
- Hoạt động kiểm tra, thanh tra giáo dục cũng được chú trọng ở các cấp học,
ngành học.
Xác định đúng vai trò, chức năng của công tác kiểm tra, thanh tra, đến năm
1995, UBND tỉnh đã bổ nhiệm 83 thanh tra giáo dục cấp tỉnh và 160 thanh tra cấp
huyện. Hầu hết các thanh tra viên đều là giáo viên dạy giỏi, cán bộ quản lý có kinh
nghiệm. Hàng năm, Sở GD-ĐT chỉ đạo tập trung thanh tra chuyên môn, thanh tra
quản lý trên các lĩnh vực: thực hiện Luật Phổ cập giáo dục Tiểu học; quản lý chỉ
đạo hành chính và chuyên môn; quản lý và đào tạo tại các trường trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề; quản lý và sử dụng ngân sách; thi tuyển sinh, thi tốt nghiệp;
dạy thêm ngoài giờ và các trường hợp có đơn thư tố cáo, khiếu nại. Nhờ làm tốt
công tác kiểm tra, thanh tra nhằm phát huy nhân tố tích cực ngăn chặn và xử lý các
sai phạm, góp phần thúc đẩy các cá nhân và tập thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Đây là một công việc cần thiết của các cấp quản lý. Vì vậy, trật tự, kỷ cương của
ngành từng bước được ổn định, môi trường GD-ĐT giữ được lành mạnh, nề nếp
chất lượng dạy và học có chuyển biến tích cực.
- Công tác thi đua khen thưởng phát huy tác dụng tốt.
60 năm trôi qua kể từ ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, đó cũng là
cái mốc bắt đầu của sự nghiệp GD-ĐT tỉnh Quảng Ngãi. 60 năm là một chặng
đường dài, những gì thầy và trò Quảng Ngãi làm được không phải là nhỏ, đó là
một thành tựu to lớn của sự nghiệp “trăm năm trồng người”, là công sức không của
riêng ai. Những thành tựu ngày hôm nay có được là sự kết tinh của truyền thống


giàu lòng yêu nước, sự đấu tranh kiên cường, lao động cần cù, sáng tạo và hiếu học
của mảnh đất “Địa linh, Nhân kiệt”, cộng với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của
Đảng bộ tỉnh.
Với những tiến bộ vượt bậc và tinh thần vượt khó, hoàn thành xuất sắc nhiệm

vụ được giao qua các thời kỳ, ngành GD-ĐT Quảng Ngãi đã được Nhà nước và các
Bộ, ngành Trung ương và địa phương ghi nhận bằng những phần thưởng cao quý:
Nhà nước tặng 01 Huân chương Độc lập hạng Ba; 03 Huân chương Lao động
hạng Nhất, 05 Huân chương Lao động hạng Nhì, 09 Huân chương Lao động hạng
Ba; 04 Cờ luân lưu của Chính phủ; 1.635 Huy chương vì sự nghiệp Giáo dục;
2.472 Bằng khen, 2.657 Giấy khen và công nhận hàng trăm trường tiên tiến xuất
sắc, hơn 600 tập thể lao động giỏi; 06 giáo viên được phong tặng danh hiệu Nhà
giáo ưu tú; hàng trăm chiến sĩ thi đua và hàng ngàn giáo viên đạt danh hiệu dạy
giỏi các cấp.
Tóm lại, qua 5 năm 1991-1996, quán triệt những quan điểm chỉ đạo của Đảng,
sự nghiệp GD-ĐT tỉnh Quảng Ngãi đã đạt được những thành tích sau:
- Sự nghiệp GD-ĐT nước ta nói chung và tỉnh Quảng ngãi nói riêng tuy còn
nhiều khó khăn, song đội ngũ giáo viên và học sinh vẫn luôn ổn định, phát triển
theo đúng định hướng XHCN, tin tưởng tuyệt đối vào sự nghiệp đổi mới toàn diện
đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, kiên quyết đấu tranh, hạn chế tối đa
những biểu hiện tiêu cực trong nhà trường.
- Nhiều năm học triển khai, thực hiện dân chủ hoá, “Kỷ cương- Tình thương Trách nhiệm”. Ngành đã tổ chức việc thăm dò, bổ nhiệm cán bộ quản lý, sàng lọc,
tuyển chọn đội ngũ giáo viên, từng bước nâng cao chất lượng dạy và học. Gần
11.000 cán bộ, thầy cô giáo toàn ngành, phần lớn “yêu nghề, mến trẻ”, biết khắc
phục khó khăn, vượt qua thử thách và phấn đấu vì sự nghiệp “trồng người”, bảo
đảm vững chắc cho sự phát triển nền giáo dục cách mạng của tỉnh. Những thành
tựu lớn nhất của nền giáo dục tỉnh Quảng Ngãi là góp phần nâng cao dân trí. Từ


một tỉnh có hơn 95% dân số mù chữ trong thời Pháp thuộc và hơn 80% dân số mù
chữ trước mùa xuân năm 1975, đến năm 1996 có hơn 90% dân số biết chữ, đại bộ
phận nhân dân có trình độ học vấn từ tiểu học trở lên và trở thành một trong những
tỉnh có nền học vấn phát triển tương đối cao trong vùng và trong cả nước. Đồng
thời, ngành giáo dục chuyên nghiệp đã đào tạo hàng vạn cán bộ khoa học kỹ thuật,
cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật có bậc thợ cao, tay nghề giỏi, có phẩm chất đạo

đức tốt, ý thức kỷ luật cao, có quyết tâm lớn, cần cù, sáng tạo luôn phấn đấu vì sự
nghiệp đổi mới toàn diện quê hương, đất nước.
Những thành tựu trên của ngành GD-ĐT tỉnh Quảng Ngãi bắt nguồn từ
những nguyên nhân cơ bản sau:
- Đảng bộ và các cấp chính quyền thường xuyên quán triệt sâu sắc và vận
dụng đường lối phát triển GD-ĐT của Đảng, Nhà nước phù hợp với hoàn cảnh cụ
thể của tỉnh. Trong quá trình tổ chức, triển khai thực hiện, Đảng bộ đã tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời bằng những biện pháp, chính sách cụ thể có
tính khả thi, nhằm tập trung và huy động mọi khả năng để ưu tiên cho phát triển
nguồn nhân lực - nhân tố quan trọng nhất dể phát triển kinh tế- xã hội.
- Sở GD-ĐT đã có nhiều tiến bộ trong việc tích cực, chủ động tham mưu cho
UBND tỉnh đề ra những văn bản pháp quy nhằm thể chế hóa Nghị quyết Trung
ương, Nghị quyết Tỉnh ủy về phát triển GD-ĐT và trong lĩnh vực quản lý ngành.
- Đại bộ phận cán bộ quản lý, giáo viên tuy còn nhiều khó khăn về đời sống và điều
kiện làm việc, nhất là ở vùng núi xa xôi, hẻo lánh nhưng đã hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao bằng cả lương tâm và trách nhiệm cho sự nghiệp cao cả.
- Cùng với cả nước, nền kinh tế địa phương tiếp tục phát triển. An ninh chính
trị ổn định. Chương trình xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm góp phần giảm
bớt hộ đói và từng bước nâng cao đời sống nhân dân lao động. Lòng tin của các
tầng lớp nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới do Đảng ta đề xướng và lãnh đạo,


ngày càng cao. Truyền thống hiếu học trong cán bộ đảng viên và nhân dân trong
tỉnh được duy trì và phát huy mạnh mẽ.
Bên cạnh những thành tích to lớn đã đạt được, ngành GD-ĐT tỉnh Quảng
Ngãi còn những hạn chế sau:
- Các ngành học, quy mô có tăng nhưng chưa thực sự thích nghi với sự
chuyển biến của xã hội, của nền kinh tế thị trường. Giáo dục mầm non chậm phát
triển, năm 1991 huy động được 28,9% số cháu vào nhà trẻ, năm 1996 đạt 45%
(33.035 cháu). Tình trạng học sinh lưu ban, bỏ học còn nhiều, nhất là học sinh ở

vùng sâu, vùng xa, và học sinh tiểu học: năm học 1991-1992 học sinh lưu ban là
8.733, chiếm 6,0% và bỏ học là 13.439, chiếm 9,0%; năm học 1993-1994 học sinh
lưu ban là 13.281, chiếm 8,4% và bỏ học là7.046, chiếm 4,6%; năm học 1995-1996
học sinh lưu ban là 8.860, chiếm 5,7% và bỏ học là 4.745, chiếm 3,0% [58, tr.3-4].
Quy mô đào tạo chuyên nghiệp - dạy nghề còn nhỏ bé, chưa đáp ứng được nhu cầu
phổ cập nghề nghiệp, tạo công ăn việc làm cho thanh niên.
- Tiến độ thực hiện xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học ở miền núi còn
chậm, Nhà nước, địa phương chưa có chính sách thoả đáng đối với phát triển giáo
dục ở miền núi và hải đảo.
- Nhận thức của xã hội và các cấp, các ngành có chuyển biến, song chưa đáp
ứng được yêu cầu của Nghị quyết Trung ương 4 (khoá VII) “Giáo dục là quốc sách
hàng đầu”; ngân sách đầu tư cho giáo dục còn thấp so với nhu cầu thực tế phát triển
GD-ĐT của tỉnh trong 5 năm qua. Cơ chế quản lý ngân sách chưa phù hợp, ngành
GD-ĐT chưa phát huy và chủ động, trong việc điều hành sử dụng kinh phí thường
xuyên và kinh phí chương trình mục tiêu.
- Cơ sở vật chất trường lớp còn nghèo nàn, lạc hậu, chưa xóa được lớp học ca
3, phòng học tạm bợ, tranh tre, nứa lá còn nhiều, nhiều trường chưa có thư viện,
phòng thí nghiệm để hoạt động dạy và học.


- Đội ngũ giáo viên còn thiếu, chưa đồng bộ, trình độ năng lực còn hạn chế so
với yêu cầu ngày càng cao của chất lượng giáo dục. Giáo dục miền núi, vùng nông
thôn vẫn còn nhiều khó khăn bất cập, đời sống của một bộ phận giáo viên, công
chức của ngành chưa thoát khỏi sự nghèo khó vì tổng thu nhập chưa tương xứng
với công việc và còn thấp so với nhiều ngành nghề khác... cho nên có một số chưa
yên tâm công tác.
- Việc quản lý của các cấp từ sở đến trường chưa theo kịp với yêu cầu mới,
nhiệm vụ mới: chậm đổi mới phương pháp dạy và học, còn hiện tượng trì trệ, lúng
túng ở một số khâu, một số công việc nên hiệu quả chưa cao. Nguồn thông tin
ngược từ dưới cơ sở lên thường chậm, nhiều khi không chính xác, gây không ít khó

khăn cho công tác lãnh đạo, quản lý của ngành.
Hạn chế trên của ngành GD-ĐT tỉnh Quảng Ngãi baột nguồn từ những
nguyên nhân sau:
- Một số cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng, và một số Ban, Ngành
trong tỉnh chưa được quán triệt đầy đủ, nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò và tầm quan
trọng của sự nghiệp GD-ĐT, tạo ra nguồn lực trực tiếp để phát triển kinh tế - xã hội
trong thời kỳ đổi mới đất nước. Do đó, thiếu tập trung lãnh đạo và chỉ đạo, chậm đề ra
các chủ trương, giải pháp hữu hiệu thúc đẩy sự nghiệp GD-ĐT phát triển tại địa
phương, đơn vị và của ngành.
- Ngân sách nhà nước chi cho sự nghiệp GD-ĐT của tỉnh tuy có tăng, năm
sau cao hơn năm trước: năm 1993 là 29.551 tỷ đồng, năm 1994 là 47.116 tỷ đồng
và năm 1996 là 97.874 tỷ đồng, nhưng thực tế chỉ đủ trả lương và các chế độ phụ
cấp theo lương; còn ngân sách dành cho các khoản chi khác rất ít như mua sắm đồ
dùng dạy học, thiết bị thí nghiệm - thực hành, sửa chữa nhỏ... Trong khi các nguồn
lực huy động khác trong nhân dân, trong các tổ chức kinh tế - xã hội trên địa bàn
tỉnh còn quá ít.


- Vì kinh tế của tỉnh phát triển chậm; thu ngân sách của tỉnh hàng năm quá
thấp, bình quân thu nhập quốc dân trên đầu người là 160 USD/năm, đời sống của
đại bộ phận nhân dân còn quá khó khăn, nhất là nhân dân ở 58/171 xã thuộc vùng
miền núi, hải đảo, lại thường xuyên chịu hậu quả nặng nề thiên tai... nên những
điều kiện bảo đảm cho người dân đi học chưa thật vững chắc, ngân sách địa
phương đầu tư cho GD-ĐT còn nhiều hạn chế, công tác XHHGD gặp khó khăn.
Để sự nghiệp GD-ĐT tiếp tục có những chuyển biến mới trong thời kỳ mới,
Đảng bộ, nhân dân, mà trực tiếp là ngành GD-ĐT tỉnh Quảng Ngãi cần chủ động tích
cực và có những giải pháp khả thi, mạnh mẽ hơn nữa nhằm phát huy những thành tích
đã đạt được và khắc phục nhanh những hạn chế, yếu kém.




×