Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Hình thức của giao dịch dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.79 KB, 20 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hình thức của giao dịch dân sự là phương tiện thể hiện nội dung của giao dịch.
Ngày nay, do tính chất của đối tượng giao dịch và nhu cầu quản lý của nhà nước
mà pháp luật dân sự có những yêu cầu khác nhau về hình thức của giao dịch. Đối
với các giao dịch đáp ứng cho nhu cầu vật chất và tinh thần hàng ngày của cuộc
sống và thông thường giá trị tài sản không lớn thì chỉ cần các bên thể hiện bằng lời
nói, có sự tự nguyện, thống nhất ý chí của các bên là giao dịch đó có hiệu lực . Song
có những loại giao dịch pháp luật bắt buộc hai bên phải thể hiện bằng văn bản và
còn có trường hợp phải có công chứng, chứng thực của cơ quan có thẩm quyền. Bộ
Luật Dân sự Việt Nam năm 2005 đã có những quy định cụ thể về vấn đề này,
nhưng trên thực tế vẫn có rất nhiều giao dịch bị vô hiệu do vi phạm quy định về
hình thức.
B. NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG:
1. Giao dịch dân sự:
1.1. Khái niệm
Khái niệm giao dịch dân sự được quy định trong Điều 121 Bộ luật
dân sự 2005:
“Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.”
1.2. Đặc điểm
Thứ nhất, phải thể hiện được ý chí của các bên tham gia. Khi tham gia
giao dịch chủ thể đều muốn đạt được mục đích nhất định nhằm thoả mãn
nhu cầu sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng. Để đạt được mục đích đó, các chủ thể
phải thể hiện được ý chí của mình.


Thứ hai,các bên tham gia giao dịch phải tự nguyện. Đây là sự phản ánh thống
nhất ý chí của các bên, vì vậy nó là một nguyên tắc quan trọng để thiết lập nên giao
dịch.
Thứ ba, chế tài trong giao dịch dân sự mang tính chất bắt buộc nhưng cũng rất


linh hoạt. Phần lớn, các nước trên thế giới hiện nay đều xây dựng các chế
định của giao dịch dân sự dựa trên nguyên tắc tự do thoả thuận, tự do cam
kết và xây dựng chế tài. Đây là nguyên tắc cơ bản của luật dân sự nói chung,
của giao dịch dân sự nói riêng.
Thứ tư , nội dung của giao dịch không được trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Bởi lẽ, pháp luật bên cạnh là cơ sở pháp lý, tạo điều kiện cho giao kết trở
thành hiện thực, còn phải đặt ra những quy phạm pháp luật khác bảo vệ lợi ích
chung của xã hội, trong đó có lợi ích của người tham gia.
2. Giao dịch dân sự vô hiệu và đặc điểm của giao dịch dân sự vô hiệu
2.1. Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu
Điều 122 BLDS 2005 quy định về các điều kiện có hiệu lực của Giao dịch dân
sự. Như vậy một giao dịch muốn phát sinh hiệu lực pháp lý thì phải thở mãn các
điều kiện này, nếu vi phạm một trong các điều kiện đó thì giao dịch có thể bị coi là
vô hiệu. Điều 127 BLDS 2005 quy định: “ Giao dịch dân sự không có một trong
các điều kiện được quy định tại điều 122 của Bộ luật Dân sự này thì vô hiệu”
Theo quy định tại Điều 127 BLDS 2005, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về
giao dịch dân sự vô hiệu như sau
Giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch dân sự không thỏa mãn một trong các
điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự do pháp luật quy định
Những quy định về sự vô hiệu của giao dịch dân sự là hết sức cần thiết, có
ý nghĩa quan trọng trong việc thiết lập trật tự kỷ cương xã hội; bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và Nhà nước; bảo đảm an toàn pháp lý cho


các chủ thể trong giao lưu dân sự. Ngoài ra, thông qua quy định về điêù kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự cũng như giao dịch dân sự vô hiệu, Nhà nước có thể
kiểm soát được các giao dịch dân sự nhất định nếu thấy cần thiết vì lợi ích của Nhà
nước, lợi ích công cộng
2.2. Đặc điểm chung của giao dịch dân sự vô hiệu
Đặc điểm của giao dịch dân sự vô hiệu là không đáp ứng các điều kiện theo

quy định của pháp luật. Khi giao dịch dân sự vô hiệu các bên tham gia phải gánh
chịu hậu quả pháplý nhất định có thể gây bất lợi về vật chất và tinh thần. Giao dịch
dân sự vô hiệu thường có đặc điểm sau:
+ Không đáp ứng một trong các điều kiện quy định của pháp luật đối với giao
dịch cóhiệu lực theo Điều 122 Bộ luật dân sự 2005
+ Các bên tham gia giao dịch dân sự phải chịu hậu quả pháp lý nhất định
như khi giao dịch dân sự vô hiệu quay lại trạng thái ban đầu, các bên tham gia
giao dịch hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận. Về mặt lý thuyết thì đó là sự tổn
thất của các bên vì họ đã không đạt được mục đích như đã mong muốn. Tuy
nhiên về mặt thực tế có trường hợp tuyên bố giao dịch vô hiệu có bên được
hưởng lợi, có bên bị thiệt hại. Đây là vấn đề phức tạp khi giải quyết hậu quả pháp
lý của giao dịch dân sự vô hiệu trên thực tế.
3. Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức
3.1 Hình thức của giao dịch dân sự là gì?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 122 BLDS 2005: “Hình thức giao dịch dân sự
là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định”
Hình thức giao dịch dân sự được quy định tại điều 124 BLDS 2005
- Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi
cụ thể.


- Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ
liệu được coi là giao dịch bằng văn bản .
- Trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện
bằng văn bản , phải có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép
thì phải tuân theo các quy định đó.
3.2 Khái niệm và đặc điểm của giao dịch dân sự vô hiệu về do không tuân
thủ hình thức
Theo quy định tại điều 130 BLDS 2005 thì: “ Trong trường hợp pháp luật quy
định hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các

bên không tuân theo thì yêu cầu của một bên hoặc các bên, tòa án, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức
của giao dịch trong một thời hạn, quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao
dịch vô hiệu”
Như vậy đối với các giao dịch dân sự mà pháp luật buộc các bên phải thông
qua một hình thức nhất định nhưng các bên lại không thông qua hình thức này thì
Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ ấn định một thời hạn để các bên
hoàn thành, quá thời hạn này mà các bên không hoàn thành thì giao dịch dân sự vô
hiệu. Chẳng hạn như trong việc xử lý hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu, Nghị quyết
số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán tòa án nhân dân
tối cao hường dẫn áp dụng pháp luật để giải quyết một số loại tranh chấp dân sự,
hôn nhân gia đình có hướng dẫn cụ thể về hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu do
không tuân thủ về mặt hình thức. Theo đó, đối với về hợp đồng mua bán nhà ở vô
hiệu do không tuân thủ về điều kiện hình thức của hợp đồng, khi có tranh chấp và
theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, tòa án ra quyết định buộc một bên hoặc


các bên phải đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thời hạn một tháng, kể từ
ngày tòa án thực hiện các thủ tục để hoàn thiện về hình thức hợp đồng. Nếu có một
bên đương sự vắng mặt thì thời hạn này tính từ ngày đương sự vắng mặt nhận được
quyết định của tòa.
Như chúng ta đã biết thì giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn
phương là phát sinh, thay dổi và chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự
Pháp luật Việt Nam quy định về hình thức của hợp đồng, nếu vi phạm hình
thức theo quy định của pháp luật thì hơpj dồng sẽ bị vô hiệu. Theo khoản 2, Điều
401, BLDS 2005 quy định
"2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng
văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân
theo các quy định đó.
Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ

trường hợp pháp luật có quy định khác."
Theo quy định của pháp luật, hợp đồng vi phạm hình thức (đối với hợp đồng
được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin
phép, thì phải tuận theo các quy định đó) không đương nhiên bị vô hiệu. Nó chỉ bị
tuyên bố vô hiêu khi một trong các bên hoặc người thứ ba yêu cầu Tòa án tuyên bố
hợp đồng đó vô hiệu do không tuân theo quy định về hình thức của hợp đồng.
Theo khoản 1, Điều 136, BLDS 2005 quy định
"1. Thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu được quy định
tại các điều từ Điều 130 đến Điều 134 của Bộ luật này là hai năm, kể từ ngày giao
dịch dân sự được xác lập."


Trong khi đó, hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức được
quy định tại điều 134, BLDS 2005, cũng thuộc vào trường hợp điều chỉnh của quy
định trên. Do đó, có thể hiểu rằng hợp đồng chỉ bị vô hiệu về hình thức, khi trong
thời hạn 2 năm kể từ ngày hợp đồng được xác lập mà một trong các bên hoặc
người thứ 3 yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đó vô hiệu. Quá thời hạn trên,
không ai có quyền khởi kiện yêu cầu hợp đồng tuyên bố vô hiệu về hình thức nữa,
đương nhiên nó vẫn có hiệu lực.
3.3 Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm về hình thức
Giao dịch dân sự vô hiệu sẽ có những hậu quả pháp lý nhất định do pháp luật
quy định. Việc xác định hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu căn cứ vào
mức độ vi phạm một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Ngoài
ra, yếu tố lỗi của chủ thể cũng có ảnh hưởng rất lớn tới việc xác định hậu quả pháp
lý của giao dịch dân sự vô hiệu.
Theo quy định tại khoản 1, điều 137 BLDS 2005 thì: “ Giao dịch dân sự vô
hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên
kể từ thời điểm xác lập”
Khi một giao dịch dân sự bị Toà án tuyên bố là vô hiệu do không tuân thủ về
hình thức thì các bên phải khôi phục lại tình trạng tài sản ban đầu, hoàn trả cho

nhau những gì đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì hoàn trả lại
bằng tiền. Điều đó có nghĩa là:
Nếu giao dịch đó chưa được thực hiện thì các bên không được thực hiện
Nếu giao dịch đó đã được thực hiện một phần thì các bên phải dừng ngay việc
thực hiện, không được tiếp tục thực hiện phần còn lại của giao dịch dân sự và có
nghĩa vụ hoàn trả cho những lợi ích vật chất đã nhận được của nhau. Nếu đối
tượng của giao dịch không còn trên thực tế thì các bên phải hoàn trả cho nhau bằng


tiền tương đương với giá trị của lợi ích vật chất mà mình đã nhận được trên cơ sở
tình trạng thực tế tài sản vào ngày giao dịch đựợc xác lập.
Nếu giao dịch đó đã thực hiện xong thì các bên phải hoàn trả cho nhau những
lợi ích vật chất mà các bên đã nhận được hoặc hoàn trả cho nhau một số tiền tương
đương với giá trị của lợi ích vật chất mà mình đã nhận được nếu như lợi ích vật
chất đó không còn trên thực tế.
Vì giao dịch dân sự vi phạm về mặt hình thức là giao dịch vô hiệu toàn bộ nên
chúng ta cần lưu ý một số điểm:
Giá trị tài sản được xác định dựa trên tình trạng thực tế của tài sản đó vào thời
điểm xác lập giao dịch dân sự.
Nếu đối tượng hoàn trả là vật, thì việc hoàn trả được xác định là hoàn trả bao
gồm cả vật chính và vật phụ.
Nếu người hoàn trả ngay tình thì có quyền giữ lại hoa lợi, lợi tức phát sinh từ
tài sản trước ngày có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.
Phần chênh lệch do giá trị tài sản tăng lên hay giảm đi so với giá trị ban đầu
của vật cũng phải được hoàn trả trừ trường hợp chênh lệch giảm đi về giá trị tài sản
là do hao mòn tự nhiên trong quá trình sử dụng. Bên có lỗi gây ra sự vô hiệu về
hình thức của giao dịch dân sự không thể viện vào sự vô hiệu của giao dịch dân sự
để xin bồi hoàn mà trái lại bên có lỗi còn phải bồi thường thiệt hại xảy ra do lỗi của
họ cho phía bên kia của giao dịch dân sự. Thông thường giao dịch bị tòa án tuyên
vô hiệu về mặt hình thức là do lỗi của các bên tham gia giao dịch.

3.4 Vấn đề bảo vệ người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu do vi
phạm về hình thức.
Giao dịch dân sự được xác lập giữa các chủ thể nhằm thỏa mãn quyền và lợi
ích của mình.Tuy nhiên, trong giao dịch dân sự, nhiều trường hợp không chỉ có
quan hệ đơn thuần giữa các chủ thể tham gia giao dịch sự mà còn liên quan đến
người thứ ba. Chú ý “ người thứ ba” ở đây chỉ là người liên quan đến giao dịch dân


sự vô hiệu về hình thức chứ không phải là một bên giao dịch dân sự vô hiệu. Khi
bảo vệ quyền lợi của người thứ ba khi giao dịch dân sự vô hiệu cần lưu ý hai
trường hợp sau:
Trường hợp thứ nhất: Giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức nhưng tài sản giao
dịch này là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng
một giao dịch khác do người thứ ba ngay tình thì giao dịch đó vẫn có hiệu lực
Trường hợp thứ hai: Tài sản giao dịch là bất động sản hoặc là động sản phải
đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ
ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba
ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người
mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài
sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định
bị hủy, sửa.
4. Thời hạn yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm quy
định về hình thức
Thời hiệu hai năm: Theo khoản 1 Điều 136 BLDS 2005, thời hiệu yêu cầu Tòa án
tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu đối với các giao dịch: Giao dịch dân sự vô hiệu
do người chưa thành niên , người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện, giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn,
đe dọa, giả tạo, giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là
hai năm kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập. Sau thời gian hai năm nếu bên có
quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự này là vô hiệu mà không thực hiện

thì quyền này sẽ tự chấm dứt. Quy định này của pháp luật ngoài những lý do về mặt
thời hiệu nó còn có một lý do khác đó là pháp luật không thể và cũng không có
nghĩa vụ bảo vệ người có quyền mà khi người đó cũng không quna tâm nhiều đến
quyền của mình


5. Ví dụ thực tế về giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm quy định về hình thức
Ngày 23/4/1996, anh Đặng Xuân Bằng nhận chuyển nhượng của ông Ngô Đức
Hiền 1 thửa đất có kích thước 112,5m2 với giá 13 triệu đồng. Thửa đất này nằm ở
đội 5, thôn Đại Lan, xã Duyên Hà, Thanh Trì, Hà Nội. Hai bên đã viết giấy chuyển
nhượng, anh Bằng đã trả đủ tiền, nhận quản lý và sử dụng đất.
Ngày 27/3/2002, anh Bằng đã thỏa thuận chuyển nhượng thửa đất trên cho anh
Phạm Văn Triển với số tiền 30 triệu đồng. Anh Triển đã trả trước 10 triệu đồng và
thống nhất khi nào hai bên làm xong giấy tờ sẽ trả nốt tiền và giao đất.
Tháng 5/2003, Anh Bằng lại chuyển nhượng thửa đất nói trên cho vợ chồng bà
Vũ Thị Thu Hà và ông Đặng Bá Thường với số tiền 30 triệu đồng.
Tháng 7/2003 anh Triển đề nghị UBND xã Duyên Hà giải quyết nhưng không
có kết quả.
Tháng 2/2008, anh Triển khởi kiện đề nghị Tòa án hủy hợp đồng giữa anh và
anh Bằng, buộc anh Bằng trả lại 10 triệu đồng và bồi thường thiệt hại.
Anh Bằng thừa nhận “ Giấy biên nhận” chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
anh và anh Triển do anh viết và đã nhận 10 triệu đồng nhưng đó là tiền đặt cọc.
Nay anh Bằng chấp nhận trả lại 10triệu đồng nhưng không chấp nhận bồi thường.
Theo biên bản định giá thì mảnh đất nằm trong ngách hẻm nhỏ và trong vùng
thoát lũ của khu vực, thuộc vị trí số 4 xã Duyên Hà, giá tại thời điểm xét xử là
900.000 đồng/ m2.
=>Vì giao dịch giữa anh Đặng Xuân Bằng và ông Phạm Đức Triển bằng “ giấy
biên nhận” bị tòa án tuyên bố vô hiệu do vi phạm quy định về hình thức.
Theo điều 122 Bộ luật dân sự 2005, điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự,
có thể nhận thấy rằng, giao dịch dân sự giữa anh Bằng và anh Triển là giao dịch

được xác lập giữa những người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, mục đích và nội


dung của giao dịch hợp pháp, hai bên đều hoàn toàn tự nguyện khi tham gia giao
dịch. Tuy nhiên, trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể
hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì
phải tuân theo các quy định đó (khoản 2 Điều 401 BLDS). Luật Đất đai 2003 có
quy định cụ thể hơn: hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có chứng
nhận của công chứng nhà nước, trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất của hộ gia đình, cá nhân thì được lựa chọn hình thức chứng nhận của
công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
nơi có đất (điều127). Như vậy, giao dịch giữa anh Triển và anh Bằng chưa có
chứng thực nên vô hiệu vì vi phạm về mặt hình thức.
Hậu quả pháp lý mà giao dịch giữa anh Bằng và ông Triển như sau:
Diện tích của thửa đất mà anh Bằng thỏa thuận chuyển nhượng cho anh Triển là
112,5m2 với giá 30 triệu đồng. Anh Triển đã trả trước cho anh Bằng 10 triệu đồng,
tương ứng với 1/3 giá trị của hợp đồng, tức 37,5m2 đất. Tại thời điểm xét xử sơ
thẩm, 1m2 đất có giá 900.000 đồng, 37,5m2 đất tương đương với 33.750.000đồng.
Nếu trừ đi số tiền gốc thì thiệt hại thực tế phải là 23.750.000đồng. Tuy nhiên anh
Triển cũng có lỗi khi không cùng anh Bằng hoàn thành hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất hoặc không thực hiện đến nơi đến chốn, dẫn tới giao dịch dân
sự vô hiệu, anh Triển cũng phải chịu hậu quả 30%, tức 7.125.000 đồng. Như vậy,
anh Bằng phải trả anh Triển 10 triệu đồng và bôi thường thiệt hại cho anh Triển
16.625.000đồng. Tổng cộng là 26.625.000đồng (hai mươi sáu triệu sáu trăm hai
mươi lăm ngàn đồng).
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT, THỰC TIỄN ÁP
DỤNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIAO
DỊCH DÂN SỰ KHÔNG THỦ VỀ HÌNH THỨC
1. Thực trạng và thực tiễn áp dụng



Thực tiễn cho thấy hàng năm Tòa án giải quyết một số lượng khá lớn tranh
chấp dân sự liên quan đến giao dịch, trong đó tranh chấp về giao dịch vô hiệu
chiếm tỷ lệ không nhỏ. Hình thức của hợp đồng, trong một số trường hợp cụ thể
và thường là trong những trường hợp mà giá trị của hợp đồng lớn hoặc rất lớn
(mua bán nhà ở chẳng hạn, pháp luật dân sự quy định là điều kiện bắt buộc để hợp
đồng dân sự đó có hiệu lực). Từ một quy định của pháp luật nặng về “hình thức”
và trong nhiều trường hợp bất cập với thực tiễn như vậy, đã và đang tạo ra không ít
sự “tuỳ nghi” trong đường lối xét xử và cách phán xử của Toà án. Sự bất cập, hạn
chế kể trên thực tế cũng đang cho phép một trong các bên đương sự đang lợi dụng
tính “hình thức” của pháp luật để từ chối thực hiện nghĩa vụ hợp đồng vì như thế sẽ
có lợi hơn nhiều. Cách giải quyết đó, về nhận thức chủ quan, người Thẩm phán
cũng biết rằng, nó đã không phản ánh đúng bản chất của sự việc và đã đi ngược lại
với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, đã không bảo vệ được quyền, lợi
ích chính đáng, hợp pháp của công dân. Tính “hình thức” trong một số phán quyết
giao dịch dân sự vô hiệu của Toà án khi giải quyết tranh chấp có nguyên nhân sâu
xa từ tính “hình thức” trong quy định về “điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân
sự” của Bộ luật Dân sự 2005
Điều 134 BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp pháp luật quy định hình
thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân
theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch
trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu”
Theo quy định này hình thức của giao dịch là một điều kiện bắt buộc để giao
dịch đó có hiệu lực trong những trường hợp băt buộc. Nếu không tuân thủ hình
thức do luât định thì có thể bị tuyên bố vô hiệu. Có những quan điểm cho rằng,
việc quy định như vậy là nhà nước đã can thiệp quá sâu vào giao dịch và xâm


phạm tới nguyên tắc tự do thỏa thuận của các bên khi tham gia giao dịch, làm cản

trở ý chí tự do của các bên
Có quan điểm lại cho rằng, không nên quy định hình thức là điều kiện có hiệu
lực của giao dịch, thậm chí nên bỏ quy định về hình thức. Quan điểm này coi nhẹ
hình thức của giao dịch là điều kiện có hiệu lực của giao dịch. Việc coi yếu tố hình
thức không là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong nhiều trường hợp có thể
dẫn đến việc thiếu căn cứ để bảo vệ quyền lợi của các bên yếu thế hơn trong quan
hệ giao dịch, thiếu chứng cứ để chứng minh sự tồn tại của giao dịch, khó đảm bảo
trật tự công cộng cũng như an toàn pháp lý cho các bên và người thứ ba. Do đó,
đây là vấn đề hiện đang nảy sinh nhiều bất cập và bị lợi dụng. Bởi nếu một bên
không thiện chí hoặc không trung thực có thể yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vô
hiệu với lý do là giao dịch không tuân thủ về hình thức nhằm thu lợi cá nhân. Nếu
vậy phải chăng quy định này đã ủng hộ cho sự bội ước gây ảnh hưởng xấu đến việc
thực hiên giao dịch
Tùy theo tính chất của đối tượng giao dịch và nhu cầu quản lý của nhà nước mà
pháp luật dân sự có những yêu cầu khác nhau về hình thức của giao dịch. Đối với
các giao dịch đáp ứng cho nhu cầu vật chất và tinh thần hàng ngày của cuộc sống
và thông thường giá trị tài sản không lớn thì chỉ cần các bên thể hiện bằng lời nói,
có sự tự nguyện, thống nhất ý chí của các bên là giao dịch đó có hiệu lực. Tuy
nhiên, có loại giao dịch không đòi hỏi phải có sự thống nhất ý chí của hai bên mà
chỉ cần 1 bên bày tỏ ý chí bằng lời nói hoặc bằng hành vi cụ thể ví dụ như viết di
chúc. Song có những loại giao dịch pháp luật bắt buộc hai bên phải thể hiện bằng
văn bản và còn có trường hợp phải có công chứng, chứng thực của cơ quan có
thẩm quyền khác. Theo quy định tại khoản 2 Điều 122 Bộ luật Dân sự năm 2005
thì chỉ trong những trường hợp có quy định của pháp luật về loại giao dịch nào đó
phải tuân theo những hình thức nhất định và hình thức đó là điều kiện có hiệu lực


của giao dịch thì hình thức của giao dịch mới trở thành một điều kiện bắt buộc để
giao dịch đó có hiệu lực. Có hai quan điểm khác nhau về vấn đề này:
Quan điểm thứ nhất cho rằng khi pháp luật đã quy định hình thức của giao

dịch là một điều kiện bắt buộc thì khi các bên vi phạm điều kiện về hình thức thì
giao dịch sẽ vô hiệu. Trong trường hợp này nếu các bên không yêu cầu Toà án
tuyên bố giao dịch đó vô hiệu về hình thức Toà án cũng có quyền tuyên bố giao
dịch đó vô hiệu, có như vậy mới bảo đảm được yêu cầu quản lý của Nhà nước và
sự nghiêm minh của pháp luật. Bởi chính khoản 2 Điều 124 đã quy định rõ là
“Trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng
văn bản, phải có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải
tuân theo các quy định đó”. Đây là một quy định mệnh lệnh dứt khoát, bắt buộc
chứ không phải là một quy định tuỳ nghi. Hơn nữa Điều 127 Bộ luật Dân sự cũng
quy định: “giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại
Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu”. Như vậy ba điều kiện về nội dung là điều
kiện cần và điều kiện về hình thức là điều kiện đủ để cho một giao dịch dân sự có
hiệu lực pháp luật. Do đó, không có lý do gì khi giao dịch đã vi phạm điều kiện
này mà Toà án phải chờ một bên hoặc các bên có yêu cầu mới tuyên bố giao dịch
vô hiệu, còn đương sự không có yêu cầu thì không xem xét là không hợp lý, không
phù hợp với tinh thần, lời văn của điều luật.
Quan điểm thứ hai cho rằng các quy định tại Điều 122, khoản 2 Điều 124,
Điều 127 Bộ luật Dân sự là những quy định chung, mang tính nguyên tắc, không
nhất thiết giao vi phạm điều kiện về hình thức là vô hiệu. Tại khoản 2 điều 124
BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải
được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin
phép thì phải tuân theo quy định đó”. Nhưng cũng chính tại đoạn hai khoản 2 Điều


401 BLDS cũng đã quy định: “hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi
phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Vậy hiểu quy định này như thế nào? nếu theo quan điểm một thì khi pháp luật
đã quy định một loại giao dịch nào đó phải tuân theo một hình thức nhất định mà vi
phạm điều kiện về hình thức đều vô hiệu thì quy định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 401
Bộ luật Dân sự sẽ trở thành vô nghĩa. Việc quy định nhập nhằng như vậy gây khó

khăn cho người đọc về vấn đề vô hiệu giaoa dịch dân sự do không tuân thủ về hình
thức
Tuy nhiên, có một số nhà làm luật lại không tán thành hai quan điểm trên, mặc
dù cũng cảm thấy quy định tại đoạn hai khoản 2 Điều 401 Bộ luật Dân sự dễ gây
cảm giác như có mâu thuẫn với các quy định tại khoản 2 Điều 122, Điều 127, Điều
134 và Điều 136 Bộ luật Dân sự dẫn đến có cách hiểu khác nhau. Nếu như Bộ luật
Dân sự năm 1995 coi vi phạm điều kiện về hình thức là rất nghiêm trọng giống như
với giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã
hội và giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo, như khoản 2 Điều 145 Bộ luật Dân sự
năm 1995 đã quy định: “2- Đối với các giao dịch dân sự được quy định tại Điều
137, Điều 138 và Điều 139 của Bộ luật này, thì thời gian yêu cầu Toà án tuyên bố
giao dịch vô hiệu không bị hạn chế”. Như vậy, bất cứ lúc nào các bên đương sự
cũng có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều
kiện về hình thức; còn theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 thì các giao
dịch dân sự vi phạm điều kiện về hình thức không phải đương nhiên vô hiệu. Dù
giao dịch dân sự có vi phạm điều kiện về hình thức mà các bên không khởi kiện
yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức thì Toà án không
xem xét; nếu trường hợp đương sự yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu do vi
phạm về hình thức thì theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Dân sự, thời gian tuyên
bố giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm về hình thức chỉ có hai năm kể từ ngày


giao dịch dân sự được xác lập, quá thời hạn này đương sự mới yêu cầu thì Toà án
không chấp nhận yêu cầu đó. Theo quy định tại Điều 121 Bộ luật Dân sự thì giao
dịch dân sự là hợp đồng dân sự, nên các vụ án về hợp đồng dân sự đương nhiên áp
dụng Điều 136 Bộ luật Dân sự.
Vấn đề cuối cùng liên quan đến các trường hợp vô hiệu do vi phạm điều kiện
về hình thức của giao dịch dân sự liên quan đến quy định tại Điều 139 BLDS. Điều
139 BLDS quy định: “Trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự vô
hiệu, nếu không được thể hiện bằng văn bản, không được Công chứng nhà nước

chứng nhận, không được chứng thực, đăng ký hoặc cho phép, thì theo yêu cầu của
một hoặc các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc
các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời
hạn đó mà không thực hiện, thì giao dịch vô hiệu. Bên có lỗi làm cho giao dịch vô
hiệu phải bồi thường thiệt hại”.Trên thực tế đang tồn tại hai quan điểm trái ngược
nhau về vấn đề này. Quan điểm thứ nhất cho rằng đây thuộc trường hợp giao dịch
dân sự vô hiệu tương đối bởi những lý do: Giao dịch vô hiệu “theo yêu cầu của
một hoặc các bên”
Giao dịch chỉ bị coi là vô hiệu khi quá thời hạn Toà án buộc thực hiện các quy
định về hình thức mà các bên vẫn không thực hiện các quy định đó. Lý do thứ nhất
là không hợp lý, bởi vì “yêu cầu của một hoặc các bên” ở đây không phải là yêu
cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, mà là yêu cầu cho phép các bên có
thể sửa chữa những sai phạm về hình thức của giao dịch, hoàn thiện các thủ tục về
hình thức mà pháp luật quy định, nhằm mục đích làm cho giao dịch trở nên có hiệu
lực. Từ đó suy ra lý do thứ hai cũng không mang tính thuyết phục. Bởi lẽ khi hết
thời hạn đó mà các bên không thực hiện các quy định về hình thức thì khi đó giao
dịch vẫn bị coi là vô hiệu (chứ không được hiểu là chỉ khi đó giao dịch mới vô
hiệu), các bên phải thực hiện các nghĩa vụ là hậu quả của giao dịch vô hiệu.


Quan điểm thứ hai, và cũng là quan điểm mang tính đúng đắn hơn, cho rằng giao
dịch dân sự vô hiệu do vi phạm các quy định về hình thức là thuộc trường hợp vô
hiệu tuyệt đối. Bởi lẽ các trường hợp giao dịch phải tuân thủ theo hình thức nhất
định được pháp luật quy định rất cụ thể và mang tính chất bắt buộc đối với các bên
của giao dịch. Cũng chính vì tính chất vô hiệu tuyệt đối mà pháp luật không hạn
chế thời gian yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu (Khoản 2 Điều 145
BLDS). Còn đối với các trường hợp vô hiệu tương đối thì thời hạn khởi kiện được
quy định là 1 năm (khoản 1 Điều 145 BLDS). Khoản 5 Điều 403 BLDS khẳng
định thêm một lần nữa quan điểm này khi quy định rằng đối với các hợp đồng phải
có chứng nhận của Công chứng nhà nước, chứng thực, đăng ký hoặc xin phép, thì

chỉ có hiệu lực từ thời điểm được chứng nhận, chứng thực, đăng ký hoặc cho phép.
Điều đó có nghĩa rằng khi các bên chưa thực hiện các quy định về hình thức văn
bản có công chứng, chứng nhận, chứng thực hoặc đăng ký thì hợp đồng chưa có
hiệu lực pháp luật.
2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do vi
phạm về hình thức
2.1. Loại bỏ vấn đề không tuân thủ về hình thức là điều kiện tuyên bố giao
dịch vô hiệu
Trong Bộ luật Dân sự năm 2005, chúng ta quy định hình thức là điều kiện bắt
buộc trong một số loại giao dịch dân sự nhất định là không hợp lý. Bởi lẽ, hình thức
giao dịch chỉ là sự thể hiện ý chí của các bên khi tham gia giao dịch dân sự; còn việc
công chứng Nhà nước chứng nhận hay chứng thực, đăng ký hoặc cho phép của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền thực chất là xác nhận sự kiện pháp lý giữa các bên.
Khi có tranh chấp xảy ra, Tòa án là cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không
có sự kiện này.


Như vậy, có thể khẳng định rằng với quy định như Điều 134 Bộ luật dân sự năm
2005 không thiết thực trong quá trình giải quyết hợp đồng dân sự vô hiệu.
.2.2.Sửa đổi điều kiện về hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực
của giao dịch.
Quy định này hiện nay đang gây nhiều tranh cãi và thực tế không bảo vệ được
lợi ích hợp pháp của những người ngay tình, đôi khi tạo ra kẽ hở cho một số đối
tượng lợi dụng để yêu cầu tuyên bố giao dân sự vô hiệu nhằm phục vụ các lợi ích,
mục đích cá nhân một bên chủ thể.
Theo quy định tại Điều 134 Bộ luật Dân sự 2005 "Trong trường hợp pháp luật
quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các
bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Tòa án, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức
của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch

vô hiệu". Quy định này trên thực tế chỉ có ý nghĩa trong trường hợp cả hai bên chủ
thể của giao dịch đều có thiện chí mong muốn tiếp tục thực hiện giao dịch. Tuy
nhiên, trường hợp này hầu như khó có thể xảy ra, bởi việc tuyên bố vô hiệu là do
yêu cầu của một trong các bên, do đó, khi họ đã nộp đơn yêu cầu tuyên bố vô hiệu
có nghĩa là họ mong muốn giao dịch đó không được tiếp tục thực hiện nữa.
Theo đó, chúng ta cần bổ sung quy định tại điều 134 BLDS 2005 theo hướng
xác định rõ: khi các bên có thảo thuận hoặc pháp luật có quy định hình thức là điều
kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì tùy trường hợp mà tòa án xem xét để công
nhận hoặc tuyên bố giao dịch đó vô hiệu , nếu xét thấy cần thiết, công bằng và có
căn cứ
Thứ hai, cần bổ sung các tiêu chuẩn cụ thể để tòa án có căn cứ pháp lý xem xét,
công nhận hiệu lực của giao dịch dân sự nếu giao dịch đó đã được các bên xác lập,


thực hiện trên thực tế một cách ngay tình, công bằng, để các điều kiện giao dịch có
hiệu lực nhưng hình thức không đúng quy định.Cụ thể như sau:
+ Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền công nhận hiệu lực của GDDS trong
trường hợp giao dịch vi phạm về hình thức mà các bên có bằng chứng hợp pháp
khác chứng minh sự tồn tại của giao dịch, đã chuyển giao cho nhau một phần hoặc
toàn bộ đối tượng giao dịch, đã thanh toán một phần hoặc toàn bộ số tiền cần thanh
toán, nếu tuyên bố giao dịch vô hiệu sẽ gây hại nghiêm trọng cho một hoặc các bên
+ Trong trường hợp hiệu lực của giao dịch được công nhận mà các bên chưa
thực hiện hoàn tất nghĩa vụ chuyển giao vật thì phải tiếp tục trả khoản tiền còn
thiếu, theo tỷ lệ tương ứng tính theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác.
Thứ ba, cần bổ sung quy định về căn cứ để tòa án tuyên giao dịch vô hiệu về
hình thức: Nếu giao dịch dân sự được xác lập không đúng hình thức do các bên
thỏa thuận hoặc pháp luật quy định như trên thì theo yêu cầu của các bên, tòa án
hoặc cơ quan có thẩm quyền khác tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết
hậu quả của giao dịch vô hiệu theo điều 137 BLDS. Việc tuyên bố giao dịch dân sự

vô hiệu được xem như là giải pháp cuối cùng, trong trường hợp giao dịch không có
đủ điều kiện cần thiết để được công nhận hiệu lực.
C. KẾT BÀI
Việc đặt ra vấn đề giao dịch dân sự vô hiệu về mặt hình thức có ý nghĩa quan
trọng trong việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên tham gia xác lập
giao dịch dân sự cũng như việc thực hiện giao dịch dân sự trên thực tế. Ngoài ra,
quy định này còn đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia giao dịch và quyền lợi
cho người thứ ba ngay tình./


MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ…………………………………………………………………1
B. NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG…………………………………………………………1
1. Giao dịch dân sự là gì?....................................................................................1
2. Giao dịch dân sự vô hiệu ………………………………………………………..2
2.1 Khái niệm……………………………………………………………………………...2
2.2 Đặc điểm của giao dịch dân sự vô hiệu……………………………………….........2
3. Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức……………3
3.1 Hình thức giao dịch dân sự là gì?......................................................................3
3.2 Khái niệm và đặc điểm của giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức……………4
3.3 Hậu quả pháp lý của GDDS vô hiệu về do vi phạm hình thức…………………4
3.4 Bảo vệ người thứ ba ngay tình khi GDDS vô hiệu do vi phạm về hình thức…..6
4. Thời hạn yêu cầu tòa án tuyên bố GDDS vô hiệu do vi phạm hình thức……..8
5. Ví dụ thực tế về giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm hình thức……………….9
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT, THỰC TIỄN ÁP
DỤNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GDDS
KHÔNG THỦ VỀ HÌNH THỨC
1. Thực trạng và thực tiễn áp dụng……………………………………………10
2. Phương hướng hoàn thiện…………………………………………………..16

C. KẾT BÀI……………………………………………………………………..18
Danh mục tài liệu tham khảo


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Giáo trình
1.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập I và II, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2009.

2. Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập 1, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội, 2009
B. Văn bản luật
Luật Dân sự Việt Nam 2005
C. Tài liệu
1.Bàn về điều kiện hình thức của giao dịch theo quy định của Bộ Luật Dân sự
2005,www.luatviet.org
2. Về chế định giao dịch dân sự vô hiệu trong Bộ Luật Dân sự năm 2005,
thongtinphapluat.vn
3. Hình thức của giao dịch dân sự, danluat.thuvienphapluat.vn
D. Wepsite
1. Chinhphu.vn
2. Thuvienphapluat.vn
3. Thongtinphapluatdansu.vn



×