Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

PHÁP LUẬT về TRÁCH NHIỆM của NGƯỜI ĐỨNG đầu các cơ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ nước của một số nước TRÊN THẾ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.54 KB, 11 trang )

. PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU CÁC CƠ
QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Xuất phát từ yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà
nước, hầu hết các nước trên thế giới đều quan tâm tới việc thiết kế bộ máy hành chính
nhà nước và xây dựng đội ngũ công chức hành chính theo hướng tinh gọn và chuyên
nghiệp. đặc biệt vấn đề trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính luôn
được quan tâm. Pháp luật các nước trên thế giới đều quy định về trách nhiệm của người
đứng đầu các cơ quan hành chính nhằm tạo cơ sở pháp lý cho người đứng đầu các cơ
quan hành chính thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định và
gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi khi vi phạm pháp luật trong thực thi công vụ. Các văn
bản pháp luật quy định về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN cũng rất đa dạng trên các
phương diện khác nhau.
1.4.1. Pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính
nhà nước Trung quốc
Trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN ở Trung quốc gắn với đặc điểm của hệ thống
công vụ Trung Quốc:
Đội ngũ công chức trong đó có NĐĐCCQHCNN không “ trung lập về chính trị”
mà phải phục tùng đường lối chính trị của Đảng. NĐĐCCQHCNN đều là Đảng viên
đảng Cộng sản. Công chức trong đó có người đứng đầu các cơ quan hành chính được coi
là “người đầy tớ của nhân dân”, lấy việc bảo vệ ngày càng tốt hơn lợi ích của đất nước và
toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân trở thành nguyên tắc hoạt động công vụ. ở Trung
Quốc, NĐĐCCQHCNN chịu sự quản lý của hai cơ quan: ban Tổ chức Trung ương Đảng
có vai trò quản lý bao trùm toàn bộ đội ngũ công chức nói chung và Bộ Nhân sự - cơ
quan chuyên trách của Chính phủ. Chế độ công chức của Trung Quốc nói chung và chế
độ đối với NĐĐCCQHCNN nói riêng vừa phải chịu sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác nhân sự, vừa phải duy trì sự quản lý dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật đối với
công chức và NĐĐCCQHCNN.
Năm 2006 Luật Công chức ra đời đánh dấu bước phát triển trong quá trình hoàn
thiện pháp luật về công chức nói chung và NĐĐCCQHCNN nói riêng đáp ứng yêu cầu
phát triển của Trung Quốc trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Việc cạnh tranh để bổ nhiệm
vào vị trí lãnh đạo đã được triển khai cả nước. Từ năm 2000 đến nay Trung Quốc đã triển




khai cho 40 vạn người dự thi (chiếm 30% tổng số công chức). Mỗi vị trí có tiêu chuẩn,
điều kiện đã được quy định. Bộ Nhân sự phải gương mẫu làm gương cho các Bộ khác
thực hiện. Điều này, một mặt vừa tránh được tình trạng sống lâu lên lão làng, vừa tránh
được tình trạng chạy chức, mặt khác, khuyến khích được sự vươn lên của công chức có
tài, bảo đảm tính tích cực tham gia hoạt động quản lý của công chức thực sự có năng lực.
Việc bổ nhiệm công chức vào chức trưởng phòng, phó phòng, vụ trưởng, phó vụ trưởng,
cục trưởng, phó cục trưởng đều phải thông qua thi, theo đó tất cả mọi người có đủ điều
kiện để tham gia thi tuyển ứng với từng chức vụ nhất định thì đều có thể tham gia thi
tuyển. Tuy nhiên, tuỳ từng chức vụ mà có thể lựa chọn các đối tượng dự thi là người
trong ngành hoặc ngoài ngành. Người dự thi ở cương vị cao hơn có thời gian giữ chức vụ
cũ ít nhất là 3 năm.
Một yếu tố quan trọng khác trong cải cách công vụ ở Trung quốc là chuyển đổi
truyền thống quản lý nhà nước từ chế độ nhân trị sang chế độ luật trị. Qui chế tạm thời
đòi hỏi: các cán bộ lãnh đạo nhà nước không được trực tiếp giám sát các thành viên trong
gia đình hoặc ngươì thân của mình, người trong cùng một gia đình hoặc nội tộc nên tránh
nắm giữ các cương vị lãnh đạo tại quê hương mình (chỉ đối với các cấp địa phương);
khuyến khích luân chuyển cán bộ lãnh đạo trong chính phủ hoặc giữa các cơ quan của
chính phủ, các viện hay các công ty quốc doanh. Các biện pháp trên đã được đưa ra với hi
vọng có thể ngăn chặn được chế độ gia đình trị, chế độ bảo trợ, tham ô và các hành vi sai
trái khác.
Theo quy định của Pháp luật Trung Quốc mức phải chịu trách nhiệm của quan
chức có thể được chia thành 4 cấp: Một là, TNHS, đây là hình thức chịu trách nhiệm
nặng nhất. Quan chức rơi vào cấp này có nghĩa là đã động đến luật hình sự; Hai là, trách
nhiệm hành chính, mặc dù hành vi của quan chức chưa động tới luật hình sự nhưng cũng
đã vi phạm luật hành chính có liên quan, chính vì thế mà phải gánh vác trách nhiệm hành
chính; Ba là, trách nhiệm chính trị hay còn gọi trách nhiệm kỉ luật, mặc dù quan chức
không vi phạm pháp luật nhưng đã vi phạm các quy định của điều lệ Đảng hoặc các quy
định của kỉ luật, phải chịu xử phạt về kỉ luật Đảng thậm chí bị bãi miễn chức vụ; Bốn là,

trách nhiệm đạo nghĩa, lương tri, mặc dù hành vi của quan chức chưa cấu thành nên ba
trường hợp nói trên nhưng do nhân viên, cấp dưới của quan chức đó không làm tròn phận
sự trong công việc hoặc có nhiều sai phạm trong công việc, gây bất bình trong nhân dân,
xuất phát từ đạo nghĩa mà quan chức đó chủ động từ chức - đây chính là nhận lỗi từ chức.


Tuy nhiên, hiện nay ở Trung Quốc, số các quan chức chủ động nhận lỗi từ chức không
phải là nhiều, đại đa số đều là bị ép từ chức do phải chịu áp lực của cấp trên.
Hiện nay, Trung Quốc đang khẩn trương hoàn thiện chế độ chất vấn trách nhiệm
quan chức, nhiều tỉnh, thành phố, địa phương của Trung Quốc đã có những quy định cụ
thể về “nhận lỗi từ chức”. Chẳng hạn như thành phố Thâm Quyến đã soạn thảo “Quy chế
phòng chống tội phạm lợi dụng chức quyền” và quy định hai trường hợp quan chức phải
nhận lỗi từ chức:
- Để cho cấp dưới hoặc người thân, họ hàng liên tục hoặc nhiều lần có những
hành vi vi phạm pháp luật, gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng thì sẽ phải chịu trách nhiệm
lãnh đạo;
- Biết rõ những hành vi vi phạm pháp luật của vợ, con hay cấp dưới nhưng không
can thiệp, gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng.
Ngòai ra, Quy chế này còn quy định, các quan chức đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo
lợi dụng chức quyền can thiệp hoặc nhúng tay vào việc đấu thầu, mời thầu các công trình
xây dựng, kinh doanh, chuyển nhượng quyền sử dụng đất để kiếm lời cho bản thân hoặc
người thân, tình tiết nghiêm trọng sẽ bị miễn chức, nếu tình tiết cấu thành mức phạm tội
sẽ căn cứ vào luật để truy cứu TNHS. Điều đáng nói là hầu hết các quan chức Trung
Quốc “nhận lỗi từ chức” đều là do để xảy ra các sự cố gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến
tính mạng của người dân. Tuy nhiên hiện nay “nhận lỗi từ chức” còn đang chỉ bó hẹp
trong lĩnh vực sự cố an toàn, dư luận Trung Quốc kêu gọi các quan chức lãnh đạo các
lĩnh vực khác cũng đều phải chấp hành quy định “nhận lỗi từ chức”.
1.4.2. Pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính
nhà nước Anh
Vương quốc Anh là một nền dân chủ nghị viện, vận hành theo chế độ quân chủ

lập hiến.
Nữ hoàng là nguyên thủ quốc gia, còn Thủ tướng - do Nữ hoàng bổ nhiệm - trên
thực tế là lãnh đạo chính trị ở Vương quốc Anh và đảm nhận cương vị người đứng đầu
Chính phủ Hoàng gia.
Là quốc gia xây dựng chế độ công vụ và công chức nhà nước sớm nhất và được
xem là đại diện cho chế độ công chức của các nước phương Tây. Pháp luật về trách


nhiệm của NĐĐCCQHCNN của Anh được xây dựng và thực thi gắn với những đặc thù
của thể chế nhà nước theo mô hình Quân chủ lập hiến.
Các quy định về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN xác định rất rõ trách nhiệm
của Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thị trưởng.
Hoạt động của Chính phủ Anh do các bộ triển khai, những bộ trưởng cao cấp mà
điều hành các bộ thường được gọi là quốc vụ khanh. Các bộ trưởng chịu trách nhiệm
trước Thủ tướng về hoạt động của bộ mình.Các thứ trưởng chịu trách nhiệm về từng lĩnh
vực hoạt động cụ thể của một bộ và có trách nhiệm báo cáo trước bộ trưởng.
Thị trưởng được bầu trực tiếp vì vậy trách nhiệm của Thị trưởng được quy định
chặt chẽ bảo đảm Thị trưởng là người điều hành chính quyền địa phương và chịu trách
nhiệm trước cử tri.
Pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính của Anh
cũng giống như các nước có nền hành chính phát triển là đề cao trách nhiệm cá nhân của
người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước. Chế định từ chức được quy định rõ ràng
và có cơ chế thực thi hiệu quả trên thực tế
1.4.3. Pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính
nhà nước Hoa Kỳ
Chế độ Tổng thống của nước Mỹ là một trong những mô hình đề cao trách nhiệm
cá nhân người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước. Nhiệm vụ hàng đầu của Tổng
thống được quy định trong Hiến pháp là bảo vệ Hiến Pháp và thực thi luật pháp do Quốc
hội ban hành. Để gánh vác trách nhiệm này, tổng thống chủ trì ngành hành pháp của
chính quyền liên bang - một tổ chức rộng lớn gồm tới bốn triệu người, trong đó có một

triệu quân nhân tại ngũ. Ngoài ra tổng thống còn có những quyền quan trọng về lập pháp
và tư pháp. Trong bản thân ngành hành pháp, tổng thống có những quyền hạn rộng lớn để
điều hành công việc quốc gia và các hoạt động của chính quyền liên bang. Tổng thống có
thể ban hành các quy định, quy chế và chỉ thị, được gọi là những chế tại hành pháp, có
hiệu lực bắt buộc của luật pháp đối với các cơ quan liên bang mà không cần có sự tán
thành của Quốc hội. Là tổng chỉ huy của các lực lượng vũ trang Hợp chủng quốc Hoa
Kỳ, tổng thống cũng có thể huy động các đơn vị Cận vệ quốc gia của bang phục vụ cho
liên bang. Trong thời gian chiến tranh hay trong tình trạng khẩn cấp quốc gia, Quốc hội


có thể trao cho tổng thống những quyền hạn thậm chí còn rộng hơn nữa để điều hành nền
kinh tế quốc dân và bảo vệ an ninh của Hợp chủng quốc.
Một trong những đặc điểm nổi bật của các quy định pháp luật về trách nhiệm
của Tổng thống - người đứng đầu ngành hành pháp là Tổng thống có quyền bổ nhiệm
người đứng đầu tất cả các bộ và các cơ quan hành pháp, cùng hàng trăm quan chức
khác, việc bổ nhiệm bộ trưởng được Thượng viện phê chuẩn.
Các quy định đảm bảo cho việc điều hành của Tổng thống tập trung, thống nhất
và trách nhiệm cao của Tổng thống đối với việc quản lý điều hành trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình.
Các bộ trưởng chịu trách nhiệm trước người bổ nhiệm - Tổng thống. Tương đồng
với pháp luật các nước có nền hành chính phát triển, chế định từ chức cũng được quy
định rõ ràng và có cơ chế thực thi trên thực tế đối với người đứng đầu cơ quan hành chính
nhà nước Mỹ.
Mỹ là một quốc gia đô thị hóa cao độ, với khoảng 80% dân số hiện sống ở khu
vực đô thị, vì vậy chính quyền các thành phố hết sức quan trọng trong bộ máy nhà nước
Mỹ. Mô hình Thị trưởng là mô hình đề cao trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu cơ
quan hành chính nhà nước được áp dụng ở Mỹ.Công việc điều hành các thành phố lớn ở
Mỹ vô cùng phức tạp. Chỉ nói riêng về mặt dân số, thành phố New York có số dân lớn
hơn 41 trong 50 bang. Người ta thường nói rằng sau chức vụ tổng thống, vị trí lãnh đạo
khó khăn nhất đất nước là vị trí thị trưởng thành phố New York.

Các loại hình chính quyền thành phố trên toàn quốc khác nhau rất nhiều. Tuy
nhiên, hầu như tất cả các chính quyền đều có một loại hội đồng trung tâm nào đó do cử tri
lựa chọn bầu ra, và một quan chức điều hành được sự hỗ trợ của những người đứng đầu
các sở (ban, ngành) để giải quyết các vấn đề của thành phố.
Có ba dạng tổng quát của chính quyền thành phố: thị trưởng - hội đồng, ủy ban và
nhà quản lý thành phố. Đây là những hình thái thuần tuý; nhiều thành phố đã phát triển
một mô hình kết hợp hai hay ba hình thái đó. Tuy được thiết kế theo mô hình nào thì việc
đề cao trách nhiệm cá nhân người đứng đầu và việc giám sát đối với người đứng đầu
được quy định rất rõ nét.
Thị trưởng - Hội đồng: Đây là hình thái lâu đời nhất của chính quyền thành phố
tại Hợp chủng quốc, và cho tới đầu thế kỷ XX, nó được hầu hết các thành phố ở Mỹ áp


dụng. Cơ cấu của nó tương tự cơ cấu của chính quyền bang và quốc gia, với một thị
trưởng đắc cử là người đứng đầu ngành hành pháp, và một hội đồng được bầu ra, đại diện
cho các vùng lân cận, hình thành nên ngành lập pháp. Thị trưởng bổ nhiệm những người
đứng đầu các sở của thành phố và các quan chức khác, đôi khi với sự phê chuẩn của hội
đồng. Thị trưởng có quyền phủ quyết các sắc lệnh của thành phố và thường xuyên chịu
trách nhiệm chuẩn bị ngân sách của thành phố. Hội đồng thành phố phê chuẩn các sắc
lệnh, các luật lệ của thành phố, ấn định thuế suất trên tài sản và phân chia ngân sách giữa
các ngành khác nhau của thành phố.
Uỷ ban: Hình thái này kết hợp hai chức năng lập pháp và hành pháp trong một
nhóm quan chức, thường là ba người hay nhiều hơn, được bầu ra trên phạm vi toàn
thành phố. Mỗi ủy viên của Ủy ban này giám sát hoạt động của một hay nhiều sở của
thành phố. Một người được chỉ định là người đứng đầu của tổ chức này và thường được
gọi là thị trưởng, mặc dù quyền lực của thị trưởng chỉ tương đương quyền của các ủy
viên đồng nhiệm khác trong ủy ban.
Nhà quản lý thành phố: Nhà quản lý thành phố là một sự đáp ứng đối với tình
trạng ngày càng phức tạp của các vấn đề đô thị đòi hỏi có sự tinh thông về quản lý mà
thường không có được ở các quan chức được bầu chọn. Giải pháp cho vấn đề đó là ủy

thác hầu hết quyền hành pháp, bao gồm việc cưỡng chế thực thi pháp luật và việc cung
cấp các dịch vụ, cho một nhà quản lý thành phố có tính chuyên nghiệp, có kinh nghiệm
và được đào tạo cẩn thận.
Phương án nhà quản lý thành phố đã ngày càng được nhiều thành phố chấp nhận.
Theo phương án này, một hội đồng nhỏ được bầu ra để soạn thảo các sắc lệnh cũng như
hệ chính sách của thành phố, nhưng hội đồng này sẽ thuê một nhà quản lý hành chính
được trả lương, còn gọi là nhà quản lý thành phố, để thực thi các quyết định của hội
đồng. Nhà quản lý lập ra ngân sách thành phố và giám sát hầu hết các sở. Nhiệm kỳ của
nhà quản lý phụ thuộc vào sự tín nhiệm của hội đồng.
1.4.4. Pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính
nhà nước Nhật Bản
Chế độ công chức của Nhật Bản trong đó có chế độ trách nhiệm của
NĐĐCCQHCNN được xây dựng muộn hơn các nước tư bản phương Tây. Thang 10 năm
1947, Chính phủ Nhật Bản đặt ra Luật công chức nhà nước. Sau đó Quốc hội và Nội các


lại lần lượt ban bố Luật tổ chức hành chính nhà nước (7.1948); và Điều lệ riêng về giáo
dục công chức (1.1949); Luật lương bổng của viên chức nói chung (4.1950); Luật công
chức địa phương (12. 1950); Pháp lệnh liên quan đến việc đối xử với các công chức trong
nền công vụ làm việc cho các tổ chức quốc tế (12.1970); Điều khoản bổ sung của Luật
công vụ quốc gia về hệ thống giới hạn tuổi đối với quan chức chính phủ (6. 1981). Tháng
5. 1992 hệ thống làm việc năm ngày trong tuần đối với công chức nhà nước có hiệu lực.
Cơ quan Nhân sự đã quy định nhiều quy tắc cụ thể quy định chế độ đối với công chức nói
chung và người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước nói riêng, hình thành mọt chế độ
công chức hiện đại đồng bộ và khá hoàn chỉnh, trong đó vấn đề trách nhiệm trong thi
hành công vụ của công chức được xác định hết sức chặt chẽ.
Một trong những đặc điểm nổi bật của nền công vụ Nhật Bản là trách nhiệm trong
nền công vụ nói chung và trong từng tổ chức cụ thể của công chức được xác định rõ. Mỗi
công chức trong đó có công chức lãnh đạo phải đặt mình trong hệ thống công vụ nói
chung và phải có ý thức phối hợp liên ngành, liên bộ.

Trong các năm từ 1981 đến 1994 đã có 172 luật liên quan đến cải cách quản lý
hành chính được thông qua.Tháng 10-1996, Nhật Bản thành lập Hội đồng Cải cách hành
chính và cải cách cơ cấu để tiến hành nghiên cứu, soạn thảo một báo cáo để trình lên
Chính phủ. Hơn một năm sau, tháng 12-1997, bản báo cáo cuối cùng của Hội đồng đã
hoàn tất và được Chính phủ thông qua. Dựa vào kết quả khảo sát, nghiên cứu trên, tháng
6-1998, Nhật Bản đã ban hành một đạo luật (cơ bản) về cải cách cơ cấu Chính phủ Trung
ương và lập ra Ban Chỉ đạo Cải cách cơ cấu Chính phủ Trung ương. Trên cơ sở Luật Cải
cách Chính phủ, Nhật Bản đã ban hành liên tiếp 17 luật về tổ chức, hoạt động của các cơ
quan trung ương và cơ quan hành chính độc lập (7-1999), 61 luật quy định vai trò, chức
năng của các bộ và các cơ quan mới dự kiến sẽ thành lập (12-1999) và 90 nghị định của
Chính phủ về tổ chức bên trong của các bộ, các hội đồng và các tổ chức khác (5-2000).
Sau gần 4 năm tiến hành từng bước những công việc trên, một bộ luật cơ bản, các luật
khác và nhiều văn bản dưới luật về cải cách hành chính và cơ cấu của Nhật Bản đã lần
lượt được ban hành và tất cả bắt đầu có hiệu lực từ ngày 6-1-2001. Với việc ban hành
một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật như vậy, cuộc cải cách hành chính và cơ
cấu tại Nhật Bản, về cơ bản được xem là thành công. Các tổ chức lâm thời được lập ra để
làm nhiệm vụ cải cách đã hoàn thành công việc và đã giải tán.


Mục tiêu cải cách của Nhật Bản là xây dựng một chính phủ có bộ máy gọn nhẹ,
hiệu quả; hoạch định được những chính sách mang tầm chiến lược, toàn diện để đáp ứng
với sự thay đổi thường xuyên của tình hình; có những quan điểm linh hoạt, mềm dẻo để
quản lý tốt những vấn đề khẩn cấp, bất thường và có những quan điểm rõ ràng, thể hiện
tinh thần trách nhiệm cao đối với nhân dân.
Nội dung cơ bản của cải cách cơ cấu ở Nhật Bản là tăng cường sự lãnh đạo của
Thủ tướng và Nội các; tổ chức lại các bộ theo hướng giảm số lượng các bộ, tăng cường
vai trò tập trung quyền lực cho Thủ tướng; xây dựng hệ thống các cơ quan hành chính
độc lập.
Phương pháp thực hiện cải cách là quy định rõ phạm vi thẩm quyền của các bộ và
thiết kế những thủ tục chặt chẽ để phối hợp công tác giữa các bộ; thiết lập một hệ thống

tổ chức để đánh giá giá trị, đánh giá chính sách và đặc biệt là xây dựng các bộ phận thông
tin mạnh; tách bộ phận kế hoạch, hoạch định chính sách khỏi các cơ quan có chức năng
tổ chức, thực hiện và tư nhân hóa những công việc có thể tư nhân hóa được.
Để xác định trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN Nhật Bản đã xác định những quan
điểm chỉ đạo và nguyên tắc cơ bản làm căn cứ cho việc sắp xếp, thành lập các bộ mới và
xây dựng cơ chế phối hợp giữa các bộ là, tách chức năng soạn thảo chính sách và lập kế
hoạch khỏi chức năng thực hiện chính sách; tăng cường sự hợp tác giữa các bộ phận soạn
thảo và thực thi chính sách của Chính phủ trên cơ sở xác định rõ trách nhiệm của từng
bên và thiết lập bộ phận để đánh giá chính sách. Một trong những nguyên tắc thành lập
bộ mới ở Nhật bản đó là xác định rõ trách nhiệm từng Bộ và người đứng đầu các Trên cơ
sở những quan điểm, nguyên tắc đó, bộ máy Chính phủ ở trung ương hiện nay đã được
thu gọn đáng kể, từ 23 bộ và một văn phòng xuống còn 12 bộ và một văn phòng.
Các quy định pháp luật về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước Nhật Bản hiện
nay tăng cường quyền lực cũng như làm rõ trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ đối với
các Bộ. Thủ tướng có thể khởi xướng các chính sách và thông qua Ban Thư ký Nội các
cùng Văn phòng Nội các (với vai trò, vị trí đã được nâng lên và chính sách cho phép thu
hút, điều động nhân tài từ các bộ) để hình thành các chính sách đó và tăng cường bổ
nhiệm các chức vụ chính trị tại các bộ. Đây là những biện pháp nhằm tập trung quyền
lãnh đạo, tăng cường vai trò của Thủ tướng. Trước đây, các chính sách nói chung được đề
xuất từ các bộ, đến nay những chính sách quan trọng có tầm chiến lược chủ yếu sẽ được


đề xuất từ Thủ tướng. Trước đây, không có chính trị gia trong hệ thống hành chính, nay
trung bình mỗi bộ có 5 chức vụ chính trị: một số thứ trưởng được chọn trong số các đại
biểu Quốc hội và được chỉ định vào Văn phòng Nội các và các bộ, có vị trí dưới bộ
trưởng và trên các thứ trưởng phụ trách hành chính, có quyền thay bộ trưởng và chịu một
phần trách nhiệm quan trọng của bộ. Một hệ thống các trợ lý chính trị của bộ trưởng cũng
đã được chỉ định vào các bộ tham gia hoạch định chính sách và những công việc liên
quan đến chính trị. Một trong những điểm nổi bật của cải cách hành chính Nhật Bản là đề
cao vai trò, trách nhiệm của Phủ Nội các, Ban Thư ký nội các. Đây là mô hình bảo đảm

trách nhiệm của Thủ tướng đặc biệt là trách nhiệm điều hành Chính phủ.
Bộ máy Chính phủ Nhật bản gồm 12 Bộ, bộ máy còn lại của Chính phủ Nhật Bản
đặt tại Phủ Nội các do Thủ tướng trực tiếp chỉ đạo. Phủ Nội các có hai cơ quan khác
nhau: Ban Thư ký Nội các và Văn phòng Nội các đều có chức năng giúp việc cho Thủ
tướng, quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó Văn phòng Nội các là cơ quan hỗ trợ hành
chính cho Ban Thư ký Nội các. Ngoài ra, tại đây còn có các cơ quan khác như Cục Pháp
chế Nội các và Hội đồng An ninh Nhật Bản. Ban Thư ký Nội các là cơ quan hoạch định
và điều phối có quyền lực để hỗ trợ trực tiếp cho Thủ tướng: hoạch định các chính sách
cơ bản để quản lý đất nước; chịu trách nhiệm về chương trình nghị sự của Nội các và
những vấn đề chung liên quan đến Nội các; phối hợp và lồng ghép các biện pháp quản lý
của các bộ; thu thập, điều tra những thông tin liên quan đến chính sách quan trọng của
Nội các. Chức năng hoạch định chính sách và điều phối toàn diện của Ban Thư ký nội các
đã thực sự được củng cố nhờ sự cải cách về tổ chức.
Văn phòng Nội các là cơ quan hành chính có vai trò kép. Một mặt, có trách nhiệm
hỗ trợ cho Nội các (trong vai trò này, Văn phòng Nội các có vị trí cao hơn so với các bộ);
mặt khác, Văn phòng Nội các được xếp ngang các bộ trong việc tiếp nhận, xử lý các vấn
đề của các cơ quan trong bộ máy hành chính. Văn phòng Nội các có nhiều hội đồng
chuyên môn như Hội đồng chính sách kinh tế và tài chính; Hội đồng nghệ thuật, khoa học
và công nghệ; Hội đồng bình đẳng giới; Hội đồng phòng chống thiên tai; ủy ban năng
lượng nguyên tử và một cơ quan đặc biệt phụ trách những vấn đề của Hoàng gia. Ngoài
ra, Văn phòng Nội các còn có một số cơ quan độc lập như: Cục Phòng vệ, ủy ban an toàn
công cộng quốc gia, Cơ quan giám sát tài chính (thanh tra, giám sát mọi vấn đề về tài
chính), Cục Nhân sự quốc gia. Văn phòng Nội các là cơ quan phối hợp toàn diện về chính


sách kinh tế, tài chính; nghệ thuật và khoa học - công nghệ; phòng chống thiên tai; bình
đẳng giới, phát triển vùng Ô-ki-na-oa và Hô-kai-đô...
Trong việc ban hành các quyết định quản lý, chức năng soạn thảo các văn bản quy
phạm pháp luật chủ yếu thuộc về các bộ, Văn phòng Nội các và Ban Thư ký Nội các
(thực tế, 90% các dự thảo luật do các cơ quan này đề xuất, soạn thảo; 10% còn lại do các

đại biểu Quốc hội đề xuất và soạn thảo). Chức năng thẩm định văn bản quy phạm pháp
luật được thực hiện tập trung, chủ yếu thuộc về Cục Pháp chế Nội các (Cục này là một cơ
quan độc lập, đặt tại Phủ Nội các, do người có chức vụ tương đương Bộ trưởng nhưng
không phải là chính trị gia đứng đầu) và Ban Thư ký Nội các. Bộ Tư pháp không có chức
năng thẩm định các văn bản luật, trừ những nội dung liên quan đến lĩnh vực quản lý của
bộ. Quy trình xây dựng và trình, ban hành các văn bản luật được quy định chặt chẽ, bao
gồm nhiều bước rất cụ thể:
Bước 1, các văn bản dự thảo luật do các bộ soạn thảo sẽ được chuyển tới Cục
Pháp chế Nội các để thẩm tra, nghiên cứu, lấy ý kiến các cơ quan liên quan và trình lên
Ban Thư ký Nội các.
Bước 2, Ban Thư ký Nội các xem xét các văn bản dự thảo đó và có quyền quyết
định việc trình Nội các hoặc đình lại. Bộ trưởng chủ trì việc dự thảo luật phải có tờ trình
Thủ tướng, xin trình bày dự luật trước Nội các và đích thân trình bày trước Nội các. Nếu
được 100% thành viên Nội các nhất trí, dự thảo được thông qua sẽ được trình Quốc hội.
Bước 3, Hội nghị toàn thể của Quốc hội thông qua dự án luật. Trong trường hợp
có vấn đề cần xem xét thêm, dự thảo sẽ được chuyển đến ủy ban chuyên trách của Quốc
hội để thẩm định và đích thân Bộ trưởng sẽ phải giải thích trước ủy ban này. Dự luật
được ủy ban chuyên trách của Quốc hội bỏ phiếu nhất trí sẽ được đưa ra Hội nghị toàn
thể của Quốc hội một lần nữa để thông qua.
Bước 4, mỗi dự thảo luật đều phải thông qua hai Viện (không quan trọng thứ tự
trước sau) là Thượng viện và Hạ viện với quy trình giống nhau.
Bước 5, thực hiện các thủ tục để ban hành.
Quy trình xây dựng, ban hành các văn bản dưới luật (Nghị định của Nội các để
hướng dẫn thi hành luật, Thông tư của bộ để hướng dẫn thực hiện nghị định) cũng có
những quy định tương tự. Nghị định do các bộ soạn thảo, chuyển qua Cục Pháp chế Nội


các để thẩm định và thông qua Ban Thư ký Nội các, trình lên Nội các. Thông tư do các
bộ trưởng tự quyết theo những chỉ dẫn của nghị định.
1.4.5. Những giá trị tham khảo cho hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của

người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước Việt Nam
Qua nghiên cứu pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính
của một số nước cho thấy rằng.
Một, đa phần các nước trên thế giới đều xác định pháp luật về trách nhiệm của
người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước là một chế định, một bộ phận quan trọng
trong Luật công vụ, công chức, Luật Đạo đức công vụ.
Luật pháp các nước thường quy định cụ thể về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN
trong các văn bản pháp luật theo từng đối tượng, vị trí, cơ quan (Thủ tướng, Bộ trưởng,
Vụ trưởng, Cục trưởng, Trưởng phòng...)
Hai, về tuyển chọn người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước nhiều nước thực
hiện bằng phương thức thi tuyển công khai (trừ Thủ tướng). Ví dụ như Trung quốc từ
năm 2000 đã thí điểm thi tuyển các chức danh Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng. Pháp luật các
nước có quy định thẩm quyền cấp trưởng được chọn cấp phó.
Ba, pháp luật về trách nhiệm đứng đầu của nhiều nước đều coi trọng và qui định
khá cụ thể về trách nhiệm chính trị, trách nhiệm đạo đức của người đứng đầu.
Bốn, các nước đều qui định khá cụ thể cơ chế kiểm tra, giám sát về thực hiện chức
năng, nhiệm vụ... lãnh đạo, quản lý của người đứng đầu.
Năm, Việc thực hiện trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN gắn với việc tổ chức và
hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước theo các nguyên tắc công khai, dân chủ và
minh bạch, theo đó việc giao vị trí đứng đầu cơ quan hành chính cho một cá nhân được
thực hiện theo nguyên tắc cạnh tranh (thông qua thi tuyển) và các cơ chế bổ nhiệm mang
tính minh bạch.



×