MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Các rối loạn tâm thần (RLTT) là một trong những vấn đề y tế công cộng đang
được quan tâm vì nó gây ra những tổn thất đáng kể và tước đi nhiều khả năng ở người
lớn và trẻ em trên toàn thế giới. Các RLTT phổ biến như trầm cảm và lo âu là các
RLTT thường gặp trong cộng đồng, đặc biệt là ở phụ nữ. Một nghiên cứu ở Úc đã chỉ
ra cứ 1 trong 3 phụ nữ (khoảng 34,8%) báo cáo họ đã từng có rối loạn trầm cảm
và/hoặc lo âu ở một thời điểm nào đó trong cuộc đời. Trong các nền văn hóa truyền
thống phương Đông như ở Việt Nam, nơi mà người mẹ có vai trò quan trọng và chủ
yếu trong việc chăm sóc và nuôi dạy con cái trong gia đình, thì những thay đổi về sức
khỏe của người mẹ có tác động lớn đến những thay đổi về sức khỏe ở trẻ bao gồm cả
SKTT.
Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu tìm hiểu về mối tương quan giữa SKTT
của người mẹ với SKTT của trẻ em. Một nghiên cứu điều tra về tỷ lệ trầm cảm và lo
âu ở trẻ trước độ tuổi đi học và mối quan hệ giữa SKTT của trẻ và SKTT của người
mẹ cho thấy có mối tương quan đáng kể giữa SKTT của người mẹ với các vấn đề
trầm cảm và lo âu ở trẻ em. Các nghiên cứu cũng tìm hiểu về nguyên nhân và các yếu
tố ảnh hưởng đến mối liên hệ giữa SKTT của người mẹ và các vấn đề SKTT của trẻ
em. Trong nghiên cứu của mình, tác giả Cho Sun Mi (2006) đã tìm hiểu về tác động
của trầm cảm đối với hành vi làm cha mẹ ở phụ nữ Hàn Quốc. So với những người
mẹ không có trầm cảm, các người mẹ bị trầm cảm thường ít thể hiện những yêu
thương, ít hỗ trợ tình cảm và đáp ứng không nhất quán đối với các nhu cầu cảm xúc
và hàng ngày của trẻ. Khả năng đáp ứng của người mẹ đối với các nhu cầu hàng ngày
của trẻ có thể lý giải cho mối quan hệ giữa SKTT của mẹ và SKTT của trẻ. Các
nguyên nhân khác có thể ảnh hưởng hoặc tác động đến mối quan hệ này như các
nguồn hỗ trợ xã hội dành cho người mẹ và tình trạng bạo lực gia đình đối với người
mẹ. Một số nghiên cứu đã tìm hiểu về tác động của các hỗ trợ xã hội đối với vấn đề
SKTT cho thấy hỗ trợ xã hội có tác động bảo vệ đáng kể đối với việc hình thành và
duy trì các vấn đề SKTT. Trong khi hỗ trợ xã hội có tác động tích cực đối với SKTT
của phụ nữ thì việc bạo lực và lạm dụng đối với phụ nữ lại có tác động tiêu cực đến
SKTT của họ. Bạo lực đối với phụ nữ có mối tương quan đáng kể với các biểu hiện
của lo âu, trầm cảm và ý tưởng tự sát. Bạo lực đối với phụ nữ không chỉ tác động đến
bản thân người mẹ mà còn có ảnh hưởng tiêu cực tới sức khỏe và sự phát triển của trẻ
em. Việc người mẹ bị bạo lực thể chất có liên quan đến các triệu chứng trầm cảm sau
sinh, từ đó có liên quan đến các vấn đề hướng nội ở trẻ. Tác giả kết luận rằng người
mẹ bị bạo lực thể chất là yếu tố nguy cơ liên quan đến tình trạng SKTT kém, đó là
yếu tố dự báo cho các vấn đề hành vi của cha mẹ và vấn đề hướng nội ở trẻ sau này.
Tại Việt Nam, các nghiên cứu dịch tễ học đã chỉ ra rằng có một số lượng đáng
kể người dân chịu tác động bởi các vấn đề SKTT. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu cụ
thể nào tập trung vào mối quan hệ giữa SKTT của người mẹ và SKTT của trẻ cũng
như tìm hiểu về các yếu tố ảnh hưởng đến mối quan hệ này. Chỉ có một chương trình
SKTT cộng đồng là “Thực hiện mô hình chăm sóc SKTT và phục hồi chức năng dựa
vào cộng đồng tại Đà Nẵng và Khánh Hòa” tìm thấy mối liên hệ giữa SKTT của trẻ
1
em và người trưởng thành dựa vào dữ liệu thu thập tại thời điểm ban đầu của dự án,
đó là việc gia đình có người bị RLTT là một trong hai yếu tố góp phần tăng tỷ lệ mắc
các RLTT ở trẻ em.
Với thực trạng chưa có nhiều nghiên cứu tìm hiểu về mối quan hệ giữa SKTT
của người mẹ và SKTT của trẻ và các yếu tố ảnh hưởng đến mối quan hệ trên như
nguồn hỗ trợ xã hội và tình trạng bạo lực đối với phụ nữ, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu: “Tác động của hỗ trợ xã hội và bạo lực đối với phụ nữ đối với mối liên hệ
giữa SKTT của người mẹ và SKTT của trẻ”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm hiểu mối liên hệ giữa SKTT ở người mẹ
và SKTT ở trẻ từ 6 đến 18 tuổi, và xem xét các hỗ trợ xã hội cũng như vấn đề bạo lực
đối với phụ nữ tác động như thế nào đến mối quan hệ này.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với các nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu mối liên quan giữa SKTT của người mẹ và SKTT của trẻ.
- Tìm hiểu mối liên quan của hỗ trợ xã hội và tình trạng bạo lực đối với SKTT
của người mẹ.
- Xem xét các ảnh hưởng của các hỗ trợ xã hội và tình trạng bạo lực đến mối
quan hệ giữa SKTT của người mẹ và SKTT của trẻ.
4. Giả thuyết nghiên cứu
4.1. Giả thuyết 1
SKTT của người mẹ có tương quan thuận, trực tiếp với SKTT của trẻ như
SKTT của mẹ tốt thì SKTT của con cũng tốt.
4.2. Giả thuyết 2
SKTT của người mẹ có tương quan thuận, trực tiếp với các hỗ trợ xã hội như
mức hỗ trợ xã hội cho người mẹ cao thì SKTT của người mẹ sẽ tốt hơn.
4.3. Giả thuyết 3
SKTT của người mẹ có tương quan nghịch với tình trạng bạo lực như mức độ
bạo lực cao thì tình trạng SKTT kém
4.4. Giả thuyết 4
Những người mẹ nhận được hỗ trợ xã hội sẽ có SKTT tốt hơn so với những
người mẹ không nhận được hỗ trợ xã hội. Từ đó dẫn đến kết quả trẻ là con của người
mẹ nhận được hỗ trợ xã hội ít có vấn đề SKTT hơn trẻ là con của người mẹ không
nhận được hỗ trợ xã hội.
4.5. Giả thuyết 5
Những người mẹ bị bạo lực sẽ có SKTT kém hơn so với những người mẹ
không bị bạo lực. Từ đó dẫn đến kết quả trẻ là con của người mẹ bị bạo lực có nhiều
vấn đề SKTT hơn trẻ là con của người mẹ không bị baọ lực.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Chúng tôi tìm hiểu các nghiên cứu trên thế giới và trong nước đã thực hiện về
mối liên quan giữa SKTT của người mẹ và SKTT của trẻ, cũng như những tác động
của các hỗ trợ xã hội, bạo lực đối với phụ nữ đến mối quan hệ này.
5.2. Thu thập dữ liệu
2
Nghiên cứu này sử dụng một phần dữ liệu đã được thu thập trước đó và thu
thập mới các dữ liệu về tình trạng SKTT tâm thần của trẻ.
Dữ liệu đã thu thập trong dự án LIFE-DM:
Dự án LIFE-DM đã thu thập thông tin về phụ nữ nghèo có biểu hiện trầm cảm
tại 4 phường của thành phố Đà Nẵng. Các dữ liệu đã được thu thập bao gồm thông tin
về nhân khẩu học của đối tượng tham gia nghiên cứu, các hoạt động lao động kinh
doanh, các hoạt động tài chính, hoạt động chức năng, chất lượng cuộc sống, lòng tự
trọng, kiến thức về trầm cảm, kỳ thị liên quan đến trầm cảm, các biểu hiện của trầm
cảm và lo âu, các sự kiện sang chấn, tình trạng bạo lực gia đình, các hỗ trợ xã hội,
vốn xã hội, hành vi tìm kiếm các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, sự hài lòng của khách
hàng, các rào cản tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe… Trong nghiên cứu cho luận
văn này, chúng tôi đã nhận được sự đồng ý của dự án LIFE-DM sử dụng các dữ liệu
sau đây để phân tích: thông tin về nhân khẩu học của đối tượng tham gia nghiên cứu,
các biểu hiện của trầm cảm và lo âu, các sự kiện sang chấn, tình trạng bạo lực gia
đình, các hỗ trợ xã hội, và vốn xã hội.
Dữ liệu sẽ thu thập trong đề tài luận văn này:
Bên cạnh các dữ liệu về phụ nữ nghèo bị trầm cảm đã được thu thập trong
khuôn khổ chương trình LIFE-DM, đề tài nghiên cứu này của chúng tôi sử dụng công
cụ Child Behaviour Checklist (CBCL-VN) đã được chuẩn hóa cho người Việt Nam
để thu thập thông tin về tình trạng SKTT của trẻ trong độ tuổi 6 – 18 là con của
những phụ nữ này.
3
6. Độ tin cậy và độ hiệu lực của các thang đo
6.1. Độ tin cậy
Nghiên cứu của chúng tôi sử dụng các thang đo PHQ-9, GAD-7, CBCL-VN,
các hỗ trợ xã hội (MOS), và một số nội dung đánh giá tình trạng bạo lực ở người mẹ
(HARK) để thu thập dữ liệu.
Thang đo CBCL-VN được sử dụng rộng rãi trên thế giới để đo lường các vấn
đề cảm xúc và hành vi ở trẻ em và đã cho thấy có độ hiệu lực và độ tin cậy cao.
Thang đo CBCL-VN đã được trường Đại học Giáo dục – ĐHQGHN chỉnh sửa và sử
dụng ở Việt Nam. Nghiên cứu dịch tễ học và các yếu tố nguy cơ đối với SKTT trẻ em
Việt Nam (Bahr và cộng sự, 2014) đã sử dụng thang đo CBCL-VN chuẩn hóa trên
1,314 cha mẹ ở 10 tỉnh của Việt Nam.
Mặc dù các thang đo PHQ-9, GAD-7 chưa được chuẩn hóa cho người Việt
Nam nhưng các thang đo trên đã được chỉnh sửa cho phù hợp với văn hóa và được sử
dụng rộng rãi tại các cơ sở y tế, các dự án, nghiên cứu về SKTT cộng đồng trên người
Việt Nam.
Các thang đo về hỗ trợ xã hội (MOS) và tình trạng bạo lực (HARK) dù chưa có
nghiên cứu tầm cỡ chuẩn hóa cho người Việt nhưng đã được chỉnh sửa phù hợp và
được sử dụng rộng rãi cho đích nghiên cứu về hỗ trợ xã hội và tình trạng bạo lực cho
phụ nữ ở Việt Nam.
6.2. Độ hiệu lực
Công cụ CBCL-VN được cho là phù hợp để đánh giá các vấn đề cảm xúc và
hành vi ở trẻ em từ 6 đến 18 tuổi. CBCL-VN bao gồm 112 câu hỏi để đánh giá cụ thể
các vấn đề hành vi và cảm xúc ở trẻ trong vòng 6 tháng qua. Cha mẹ hoặc người
chăm sóc sẽ đánh giá các vấn đề ở 3 mức độ (0=không đúng, 1=thỉnh thoảng đúng,
2=thường xuyên đúng).
Các công cụ PHQ-9 và GAD-7 được sử dụng để đánh giá các biểu hiện ban
đầu của trầm cảm và lo âu trong vòng 2 tuần qua. Bộ công cụ PHQ-9 có 9 câu hỏi, và
bộ GAD-7 có 7 câu hỏi được xây dựng dựa trên các tiêu chuẩn chẩn đoán của DSMIV cho trầm cảm và lo âu. Các câu hỏi đơn giản nhưng đủ tốt để phát hiện/sàng lọc
các biểu hiện trầm cảm và lo âu. Đối với PHQ-9, mức độ biểu hiện trầm cảm được
chia ra như sau: 10 – 14: mức độ nhẹ; 15 – 19: mức độ vừa; 20 – 27: mức độ nặng.
Đối với GAD-7, mức độ biểu hiện lo âu được chia ra như sau: 0 – 4: không có lo âu;
5 – 9: mức độ nhẹ; 10 – 14: mức độ trung bình; 15 – 21: mức độ nặng.
Các công cụ đánh giá hỗ trợ xã hội (MOS) và tình trạng bạo lực (HARK) có
thể giúp xác định các hình thức và nguồn hỗ trợ xã hội ban đầu và các hình thức phổ
biến của bạo lực. Công cụ MOS bao quát 4 hình thức hỗ trợ xã hội (hỗ trợ thông tin,
hỗ trợ vật chất, hỗ trợ cảm xúc và hỗ trợ tương tác xã hội). Đây là những khía cạnh
được cho là có liên quan đến các đầu ra về sức khỏe của những người mắc bệnh mạn
tính, bao gồm cả các RLTT. Công cụ MOS sử dụng 5 mức độ để đánh giá 1: không
bao giờ; 2: một chút thời gian; 3: thỉnh thoảng; 4: hầu hết thời gian; 5: luôn luôn. Bộ
công cụ HARK gồm 4 câu hỏi được cho là nhạy cảm và đặc hiệu để sàng lọc các hình
thức của bạo lực gia đình, đó là: bạo lực tinh thần; lo sợ bị bạo lực; bạo lực tình dục;
bạo lực về thể chất
7. Đạo đức nghiên cứu
4
- Nghiên cứu đã nộp hồ sơ lên hội đồng đạo đức của Bệnh viện Tâm thần Đà
Nẵng xem xét và phê duyệt. Đề cương nghiên cứu đã được được Hội đồng đạo
đức thông qua ngày 24 tháng 3 năm 2015.
- Thông báo đồng ý tham gia nghiên cứu: Nghiên cứu viên phát phiếu “Đồng ý
tham gia nghiên cứu” để khách thể nghiên cứu hiểu về mục đích, phương pháp
của nghiên cứu và ký xác nhận đồng ý tham gia nghiên cứu. Nghiên cứu viên
rà soát phiếu đồng ý tham gia nghiên cứu với các thành viên để đảm bảo họ
hiểu về nghiên cứu cũng như quyền hạn của họ khi tham gia nghiên cứu.
Khách thể nghiên cứu hiểu rằng họ có quyền từ chối tham gia nghiên cứu này
và điều đó không ảnh hưởng gì đến các hoạt động/dịch vụ mà dự án LIFE-DM
cung cấp cho họ.
- Trong trường hợp mà khách thể nghiên cứu cung cấp thông tin về người con có
triệu chứng tâm thần hoặc vấn đề hành vi nghiêm trọng, người mẹ được cung
cấp thông tin về tầm quan trọng của việc tìm kiếm sự trợ giúp cho người con
và các thông tin về phương pháp điều trị phù hợp hoặc nơi cung cấp các điều
trị này. Nếu người con có nguy cơ bị tổn thương, nghiên cứu viên khuyến
khích người mẹ tìm kiếm sự trợ giúp ngay lập tức và giới thiệu người mẹ đến
bệnh viện tâm thần để nhận sự hỗ trợ.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Có hàng triệu người trên thế giới bị ảnh hưởng bởi các rối loạn tâm thần. Trong
năm 2004, các rối loạn tâm thần chiếm 13% gánh nặng bệnh tật toàn cầu. Trong gánh
nặng bệnh tật, nếu chỉ tính riêng về tàn tật thì các RLTT chiếm 25.3% và 33.5% của
YLDs (Years lived with disability – số năm sống với tàn tật) ở các nước thu nhập
thấp và trung bình. Năm 2010, các RLTT và lạm dụng chất là nguyên nhân hàng đầu
của YLDs trên toàn thế giới, gánh nặng của các RLTT và lạm dụng chất đã tăng
37,6% trong giai đoạn 1990 – 2010. Có thể thấy vấn đề SKTT có ảnh hưởng rất lớn
đến chất lượng cuộc sống và ngày càng trở nên trầm trọng.
Trong các RLTT, trầm cảm và lo âu rất phổ biến và có tác động tiêu cực đến cả
phụ nữ và nam giới, trong đó phụ nữ chịu ảnh hưởng nhiều hơn do các đặc thù về văn
hóa xã hội. Tỷ lệ trầm cảm trong suốt cuộc đời ở nữ là 11,7%, còn nam giới là 5,6%.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, trầm cảm là một trong ba nguyên nhân hàng đầu của
gánh nặng bệnh tật toàn cầu năm 2004 [38].
Với tầm ảnh hưởng lớn và trên diện rộng của các vấn đề SKTT, các nhà nghiên
cứu trên thế giới đã và đang nỗ lực nghiên cứu tìm các bằng chứng để kêu gọi sự
quan tâm, đầu tư ở cấp quốc gia, khu vực và toàn cầu.
1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1 Nghiên cứu về mối liên quan giữa SKTT của người mẹ và SKTT của trẻ em
1.1.1.1 Nghiên cứu trên thế giới
Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm hiểu mối liên
quan giữa SKTT của người mẹ và SKTT của trẻ. Nghiên cứu “Mối quan hệ giữa sức
khỏe tâm thần người mẹ và tỷ lệ trầm cảm và lo âu ở trẻ trước độ tuổi đi học sau
5
chiến tranh ở dải Gaza” của tác giả Thabet Abdel Aziz Mousa và cộng sự, đã điều tra
về tỷ lệ trầm cảm và lo âu ở trẻ trước độ tuổi đi học và mối quan hệ với sức khỏe tâm
thần của người mẹ. 380 trẻ độ tuổi từ 4 đên 6 và mẹ của chúng đã được lựa chọn từ
các nhà trẻ ở dải Gaza. Trẻ được đánh giá thông qua báo cáo của mẹ về vấn đề trầm
cảm và lo âu, còn người mẹ được đánh giá bằng bảng hỏi sức khỏe GHQ, 28 câu. Kết
quả cho thấy có mối tương quan đáng kể giữa vấn đề sức khỏe tâm thần của người
mẹ với các vấn đề trầm cảm và lo âu ở trẻ.
1.1.1.2. Nghiên cứu ở Việt Nam
Tại Việt Nam, nghiên cứu trong lĩnh vực SKTT chưa nhiều và mới chỉ điều tra
tỷ lệ mắc của các rối loạn tâm thần trong cộng đồng. Các nghiên cứu dịch tễ học đã
chỉ ra rằng có một số lượng đáng kể người dân chịu tác động bởi các vấn đề SKTT.
Trần Văn Cường và cộng sự (2006) đã tìm hiểu về tỷ lệ của các RLTT phổ biến ở 7
tỉnh của Việt Nam và kết luận rằng tỷ lệ mắc các RLTT là 12,5%, tỷ lệ trầm cảm là
3,2%, tỷ lệ lo âu là 2,27% dân số. Theo Nguyễn Văn Siêm (2010) nghiên cứu tại xã
Quất Động, huyện Thường Tín, Hà Tây, tỷ lệ mắc rối loạn trầm cảm là 8,35% dân số
> 15 tuổi, tỷ lệ bệnh nhân nữ/nam là 5/1. Năm 2000, Trần Viết Nghị và cộng sự đã
điều tra dịch tễ 10 bệnh tâm thần tại phường Gia Sàng, thành phố Thái Nguyên cho
thấy tỷ lệ rối loạn trầm cảm là 2,6%, tỷ lệ rối loạn lo âu là 2,98%. Tác giả Đặng
Hoàng Minh, Bahr Weiss và Nguyễn Cao Minh (2013) tìm ra tỷ lệ 13,2% trẻ em có
vấn đề SKTT (bằng công cụ SDQ) và 11,9% (bằng công cụ CBCL-VN). Ở những trẻ
lớn hơn, có 10,7% trẻ có vấn đề SKTT (công cụ SDQ) và 12,4% (công cụ YSR). Như
vậy theo các kết quả nghiên cứu trên thì các RLTT là phổ biến trong cộng đồng và có
ảnh hưởng tiêu cực đến cả người lớn và trẻ em.
Tuy nhiên chưa có nghiên cứu, đề tài khoa học nào tìm hiểu về mối liên quan
giữa SKTT của người mẹ và SKTT của trẻ. Chỉ có duy nhất một chương trình SKTT
cộng đồng là “Thực hiện mô hình chăm sóc SKTT và phục hồi chức năng dựa vào
cộng đồng tại Đà Nẵng và Khánh Hòa” của Quỹ Cựu chiến binh Mỹ (VVAF) tìm
thấy mối liên hệ giữa SKTT của trẻ em và người trưởng thành dựa vào dữ liệu thu
thập tại thời điểm ban đầu của dự án, đó là việc trong gia đình có người bị RLTT và
khiếm khuyết về chức năng thì có ảnh hưởng lớn đến SKTT ở trẻ.
1.1.2. Nghiên cứu về tác động của hỗ trợ xã hội đối với SKTT của phụ nữ
1.1.2.1. Nghiên cứu trên thế giới
Mối liên hệ giữa hệ giữa hỗ trợ xã hội và SKTT của phụ nữ là một chủ đề quan
trọng và thú vị, đã được các nhà nghiên cứu trên thế giới thực hiện như nghiên cứu
của tác giả Reid Keishia và cộng sự, tìm hiểu mối liên hệ giữa hỗ trợ xã hội, căng
thẳng và trầm cảm sau sinh ở người mẹ. Nghiên cứu chỉ ra rằng những hỗ trợ về vật
chất và tinh thần từ người chồng là yếu tố bảo vệ phụ nữ khỏi nguy cơ trầm cảm sau
sinh. Các hỗ trợ từ bạn bè và gia đình của người phụ nữ có tác dụng giảm thiểu các
tác động của căng thẳng. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng những người hỗ trợ khác nhau
trong mạng lưới xã hội của phụ nữ cũng rất quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh cấu
trúc gia đình, sự hỗ trợ từ chồng là yếu tố bảo vệ đáng kể cho hôn nhân
1.1.2.1. Nghiên cứu ở Việt Nam
Tại Việt Nam, chúng tôi không tìm được nhiều nghiên cứu chuyên về hỗ trợ xã
hội đối với SKTT của phụ nữ. Nhóm tác giả Leggett Amanda và cộng sự có đăng tải
6
nghiên cứu “Ảnh hưởng của hỗ trợ xã hội và sức khỏe đến các triệu chứng trầm cảm
và lo âu trên nhóm người cao tuổi Việt Nam” trên tạp chí Sức khỏe tâm thần và Tuổi
già, năm 2012. Nghiên cứu tìm hiểu về tần suất và sự tương quan của 2 nhóm triệu
chứng trầm cảm và lo âu ở 600 người từ 55 tuổi trở lên trên địa bàn Đà Nẵng. Kết
quả nghiên cứu cho thấy người cao tuổi có biểu hiện trầm cảm và lo âu rất cao, đặc
biệt là những phụ nữ học vấn thấp hoặc có khó khăn về tài chính. Tình trạng sức khỏe
khi về già, sự hỗ trợ về vật chất và tinh thần là các yếu tố dự báo các triệu chứng
trầm cảm và lo âu. Nghiên cứu gợi ý cần lồng ghép việc sàng lọc các vấn đề SKTT
cho người cao tuổi trong hệ thống chăm sóc sức khỏe Việt Nam và chú ý đến các yếu
tố liên quan với trầm cảm và lo âu như khó khăn về tài chính, các vấn đề sức khỏe,
thiếu các hỗ trợ tinh thần để giảm thiểu các triệu chứng của trầm cảm và lo âu.
1.1.3. Nghiên cứu về tác động của tình trạng bạo lực đối với phụ nữ đối với SKTT
của phụ nữ và trẻ em
1.1.3.1. Nghiên cứu trên thế giới
Vấn đề bạo lực đối với phụ nữ đã được các nhà xã hội học, y tế công cộng trên
thế giới tìm hiểu sâu sắc, cặn kẽ. Liên quan đến SKTT, nhiều tác giả cũng đã nghiên
cứu vấn đề này như Ribeiro Wagner và cộng sự đã tiến hành một cuộc rà soát các
nghiên cứu về việc bị bạo lực và các vấn đề SKTT ở các nước thu nhập thấp và thu
nhập trung bình, năm 2009. Mục tiêu của nghiên cứu là tìm kiếm các bằng chứng
dịch tễ học về tỷ lệ bị bạo lực và mối quan hệ với các vấn đề SKTT ở các nước thu
nhập thấp và trung bình. Kết quả cho thấy, vấn đề bạo lực đối với phụ nữ là khá phổ
biến và có liên quan đáng kể đến các vấn đề SKTT. Đối với trẻ em, tương quan giữa
bạo lực với các vấn đề hướng ngoại, ý định tự tử và lạm dụng tình dục là cao nhất.
Đối với phụ nữ, có sự tương quan giữa các triệu chứng trầm cảm/lo âu với bạo lực
tinh thần và bạo lực tình dục. Trong cộng đồng dân cư nói chung, tỷ lệ rối loạn stress
sau sang chấn (PTSD) tương quan cao với bạo lực tình dục, bắt cóc, và tiếp xúc liên
tục với các sự kiện căng thẳng. Bạo lực cũng liên quan đến các rối loạn tâm thần phổ
biến
1.1.3.1. Nghiên cứu ở Việt Nam
Tại Việt Nam, đã có nhiều nghiên cứu xã hội học về chủ đề bạo lực gia đình
như các hình thức bạo lực, nguyên nhân của bạo lực, hậu quả của bạo lực… đối với
phụ nữ. Tuy nhiên, các hậu quả về mặt SKTT còn chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng,
bài bản. Một số nghiên cứu tiêu biểu như nghiên cứu của tác giả Đỗ Ngọc Khanh –
Viện Tâm lý học, tìm hiểu về các niềm tin văn hóa, vấn đề bạo lực đối và SKTT của
phụ nữ Việt Nam, năm 2013. Mục đích của nghiên cứu là đánh giá mối liên quan
giữa tình trạng bạo lực, các triệu chứng SKTT và các niềm tin văn hóa ở phụ nữ Việt
Nam. Kết quả nghiên cứu này cũng nhất quán với các kết quả nghiên cứu của các tác
giả trên thế giới, rằng bạo lực đối với phụ nữ có mối tương quan đáng kể đối với các
triệu chứng lo âu, trầm cảm và ý tưởng tự sát.
1.2. Một số vấn đề lý luận
1.2.1. Sức khỏe tâm thần
Theo WHO, SKTT được định nghĩa là “trạng thái lành mạnh mà trong đó cá
nhân nhận ra những năng lực của chính mình để có thể đương đầu với các stress
7
thông thường của cuộc sống, có thể làm việc năng suất và hiệu quả và có thể tạo ra
những đóng góp cho chính cộng đồng của mình”
1.2.2. Rối loạn tâm thần
Trái ngược với tình trạng SKTT lành mạnh là các RLTT. Theo WHO, RLTT
bao gồm một loạt các vấn đề với các triệu chứng khác nhau. Tuy nhiên các triệu
chứng thường đặc trưng bởi sự kết hợp của các suy nghĩ, cảm xúc, hành vi, và các
mối quan hệ kỳ lạ.
1.2.3. Hỗ trợ xã hội
Hỗ trợ xã hội được định nghĩa là các nguồn lực bao gồm hỗ trợ vật chất, tâm lý
xã hội và hỗ trợ thông tin, được cung cấp bởi người này cho người khác để giúp họ
đối phó với các căng thẳng trong cuộc sống.
1.2.4. Tình trạng bạo lực đối với phụ nữ
Liên Hiệp Quốc định nghĩa bạo lực đối với phụ nữ là bất kỳ hành động nào dẫn
đến các tổn thương về thể chất, tinh thần, tình dục hoặc gây ra đau khổ cho phụ nữ
xảy ra ở nơi công cộng hay trong cuộc sống riêng tư.
1.2.5. SKTT và các vấn đề liên quan
1.2.5.1. SKTT và các vấn đề kinh tế xã hội
Đói nghèo là một trong những yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất đến SKTT. Ở các
nước đã và đang phát triển thì đói nghèo vừa là nguyên nhân, vừa là hậu quả của các
RLTT. Các nhóm đối tượng có hoàn cảnh khó khăn phải đối mặt với gánh nặng về
khả năng dễ bị tổn thương bởi RLTT. Các nhóm này bao gồm phụ nữ, trẻ em.
1.2.5.2. SKTT và vấn đề giới
Một đánh giá của WHO chỉ ra rằng: “Sức khỏe phụ nữ không thể tách khỏi địa
vị của họ trong xã hội. Sức khỏe phụ nữ được hưởng lợi từ sự bình đẳng bị tác động
bởi kỳ thị”. Vấn đề giới ảnh hưởng đến tình trạng SKTT ở mọi mức độ - cá nhân,
nhóm và môi trường.
CHƯƠNG 2
TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Chọn mẫu nghiên cứu
Chúng tôi chọn tất cả 92 phụ nữ nghèo bị trầm cảm từ mức độ nhẹ đến trung
bình tham gia vào dự án LIFE-DM tại 4 phường: Hòa Minh, Hòa Cường Nam, Hòa
Cường Bắc, Hòa Hiệp Bắc của Thành phố Đà Nẵng. Các phụ nữ này có ít nhất một
con trong độ tuổi từ 6 đến 18. Các phụ nữ này trả lời các câu hỏi trong bảng CBCLVN-VN về một người con của họ. Nếu trường hợp phụ nữ có nhiều hơn một con
trong độ tuổi 6 - 18 thì người mẹ được hướng dẫn để chọn một trẻ mà có chữ đầu tiên
trong tên gọi của trẻ xuất hiện trước trong bảng chữ cái A,B,C.
2.2. Địa bàn nghiên cứu:
Phường Hòa Minh, Hòa Hiệp Bắc – Quận Liên Chiểu và phường Hòa Cường
Nam, Hòa Cường Bắc – Quận Hải Châu của Thành phố Đà Nẵng
2.3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
2.3.1. Khách thể nghiên cứu
8
92 phụ nữ nghèo, có biểu hiện trầm cảm mức độ nhẹ và trung bình, độ tuổi từ
18 đến 55, tham gia trong chương trình “Lồng ghép sinh kế để quản lý trầm cảm hiệu
quả” (LIFE-DM) 4 phường là: Hòa Minh, Hòa Cường Nam, Hòa Cường Bắc và Hòa
Hiệp Nam của thành phố Đà Nẵng.
2.3.2. Đối tượng nghiên cứu
Mối liên quan giữa SKTT của người mẹ và SKTT của trẻ, và xem xét các hỗ
trợ xã hội, tình trạng bạo lực đối với phụ nữ ảnh hưởng đến mối quan hệ này như thế
nào.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Với đề tài này, chúng tôi tiến hành đọc, phân tích, tổng hợp các tài liệu bằng
tiếng Anh và tiếng Việt có liên quan đến chủ đề mối liên hệ giữa SKTT của người mẹ
và SKTT của trẻ, đồng thời các nghiên cứu về ảnh hưởng của hỗ trợ xã hội và tình
trạng bạo lực đối với phụ nữ đến SKTT của người mẹ và SKTT của trẻ từ các nghiên
cứu, các luận văn, luận án tiến sĩ trong thư viện điện tử của trường Đại học
Vanderbil, Hoa Kỳ, trong sách, báo, tạp chí, trên một số trang web chuyên ngành.
2.4.2. Phương pháp thu thập dữ liệu
Dữ liệu đã thu thập trong dự án LIFE-DM: (3/2014 – 8/2015)
Dự án LIFE-DM đã thu thập thông tin về phụ nữ nghèo có biểu hiện trầm cảm
tại 4 phường là: Hòa Minh, Hòa Cường Nam, Hòa Cường Bắc và Hòa Hiệp Nam của
thành phố Đà Nẵng. Các dữ liệu đã được thu thập bao gồm thông tin về nhân khẩu
học của đối tượng tham gia nghiên cứu, các hoạt động lao động kinh doanh, các hoạt
động tài chính, hoạt động chức năng, chất lượng cuộc sống, lòng tự trọng, kiến thức
về trầm cảm, kỳ thị liên quan đến trầm cảm, các biểu hiện của trầm cảm và lo âu, các
sự kiện sang chấn, tình trạng bạo lực gia đình, các hỗ trợ xã hội, vốn xã hội, hành vi
tìm kiếm các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, sự hài lòng của khách hàng, các rào cản tiếp
cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe…
Dữ liệu thu thập trong đề tài luận văn này: (5 – 7/2015)
Bên cạnh các dữ liệu về phụ nữ nghèo bị trầm cảm đã được thu thập trong
khuôn khổ chương trình LIFE-DM, đề tài nghiên cứu này của chúng tôi sẽ sử dụng
công cụ Child Behaviour Checklist (CBCL-VN-VN) đã được chuẩn hóa cho người
Việt Nam để thu thập thông tin về tình trạng SKTT của trẻ trong độ tuổi 6 – 18 là con
của những phụ nữ này.
2.4.3. Phân tích dữ liệu
Chúng tôi sử dụng phần mềm SPSS 22.0 để xử lý kết quả.
9
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm của các người mẹ tham gia nghiên cứu
3.1.1. Đặc điểm nhân khẩu học
Bảng 3.1. Đặc điểm nhân khẩu học của các người mẹ tham gia nghiên cứu.
Thông tin nhân khẩu
Nhóm
Số lượng (N) Tỷ lệ (%)
Tuổi
Địa chỉ
Học vấn
Hôn nhân
Nghề nghiệp
18 – 30
10
10,9
31 – 43
43
46,7
44 – 55
39
42,4
Hòa Cường Bắc
21
22,8
Hòa Cường Nam
23
25,0
Hòa Hiệp Nam
18
19,5
Hòa Minh
30
32,6
Không biết chữ
7
7,6
Học tiểu học
7
7,6
Học hết tiểu học
3
3,3
Học dở THCS
24
26,1
Học hết THCS
28
30,4
Học dở THPT
5
5,4
Học hết THPT
14
15,2
Trung cấp/CĐ/ĐH
4
4,3
Độc thân
2
2,2
Đã lập gia đình
68
73,9
Ly dị, ly thân
13
14,1
Góa
9
9,8
Không làm việc
10
10,9
Công chức nhà nước
1
1,1
Buôn bán nhỏ
37
40,2
Làm thợ có tay nghề
7
(may, đan, thêu)
Dịch vụ (cửa hàng cắt
3
tóc, gội đầu, đấm bóp)
Lao động đơn giản 12
10
7,6
3,3
13,0
(người nấu ăn, người dọn
dẹp nhà người giữ trẻ)
Khác
Thu nhập gia đình 0 – 2,000,000
VND (trong vòng 3 2,000,001 – 4,000,000
tháng qua)
> 4,000,000
Số con trong độ tuổi 6 1
– 18
2
3
22
13
21,7
14,1
41
44,6
38
41,3
47
51,1
36
39,1
9
9,8
Theo bảng 3.1 thông tin về nhân khẩu học, chúng ta thấy đa số người mẹ tham
gia nghiên cứu ở trong độ tuổi 31 – 45, chiếm 46,7%. Trình độ học vấn phần lớn hết
trung học cơ sở với số lượng 28 người, chiếm 30,4%. Đa số các người mẹ đang sống
cùng gia đình và làm nghề buôn bán nhỏ để mưu sinh (37 người, chiếm 40,2%).
Trung bình thu nhập của cả gia đình (nguồn thu từ tất cả các thành viên trong gia
đình, chứ không chỉ riêng từ người mẹ) trong vòng 3 tháng qua là từ 2,000,000 đến
4,000,000 đồng. Đa số người mẹ tham gia nghiên cứu có 1 con trong độ tuổi từ 6 đến
18, số lượng là 47 người chiếm 51,1%. Các người mẹ được phân bổ khá đồng đều ở
cả 4 địa bản nghiên cứu là các phường Hòa Minh, Hòa Cường Nam, Hòa Hiệp Nam,
Hòa Cường Bắc.
3.1.2. Đặc điểm về tình trạng SKTT của người mẹ tại thời điểm ban đầu
Trong số 92 phụ nữ tham gia vào nghiên cứu, chỉ có 85 người tiếp tục tham gia
chương trình LIFE-DM ở thời điểm sau 6 tháng. 7 trường hợp bỏ dở chương trình
sau khi phỏng vấn ban đầu.
Bảng 3.2. Điểm trung bình và độ lệch chuẩn của PHQ-9 và GAD-7 của người
mẹ ở thời điểm ban đầu.
Điểm trung bình Độ lệch chuẩn
(mean)
(SD)
PHQ-9
14,25
3,834
GAD-7
9,74
3,415
Điểm trung bình của PHQ-9 và GAD-7 ở người mẹ tham gia nghiên cứu lần
lượt là 14,25 và 9,74. Theo kết quả phân loại sơ bộ của các thang đo (được sử dụng
trong chương trình LIFE-DM) thì PHQ-9 = 14,25 thì nằm trong ranh giới của mức độ
trầm cảm nhẹ (10 – 14) và mức độ trầm cảm trung bình (15 – 19), GAD-7 = 9,74 nằm
giao nhau giữa mức độ lo âu nhẹ (4 – 9) và trung bình (10 – 14). Như vậy, tại thời
điểm ban đầu, người mẹ tham gia nghiên cứu có các biểu hiện trầm cảm và lo âu khá
rõ ràng.
Mức độ biểu hiện trầm cảm và lo âu của các người mẹ ở thời điểm ban đầu như
sau:
11
Bảng 3.3. Phân loại mức độ biểu hiện trầm cảm và lo âu của người mẹ ở thời
điểm ban đầu.
Mức độ
Biểu hiện trầm cảm
Biểu hiện lo âu
Không có
Số
(N)
6
Nguy cơ
lượng Tỷ lệ %
6,5
Số lượng Tỷ lệ %
(N)
4
4,3
46
50
38
41,3
Mức độ nhẹ
30
32,6
42
45,7
Mức độ trung bình
9
9,8
7
7,6
Đa số các người mẹ có nguy cơ bị trầm cảm, có 46 người, chiếm 50%. Ở mức
độ trầm cảm nhẹ có 30 người, chiếm 32,6%. Mức độ trầm cảm trung bình có 9 người,
chiếm 9,8%. Số phụ nữ có nguy cơ bị lo âu là 38 người, chiếm 41,3%. Số người lo âu
ở mức độ nhẹ là 42 người, chiếm 45,7%. Số người lo âu ở mức độ trung bình là 7,
chiếm 7,6%. Như vậy có thể thấy các người mẹ tham gia nghiên cứu có nguy cơ bị
trầm cảm, lo âu và tỷ lệ mắc trầm cảm, lo âu ở mức độ nhẹ là khá cao.
3.1.3. Đặc điểm về tình trạng SKTT của người mẹ tại thời điểm sau 6 tháng so với
thời điểm đánh giá ban đầu
Bảng 3.4. Điểm trung bình và độ lệch chuẩn của PHQ-9 và GAD-7 của người mẹ ở
thời điểm sau 6 tháng..
Điểm trung bình Độ lệch chuẩn
(mean)
(SD)
PHQ-9
6,51
5,398
GAD-7
4,2
3,814
Điểm trung bình của PHQ-9 và GAD-7 của người mẹ ở thời điểm sau 6 tháng
lần lượt là 6,51 và 4,2. Ở giai đoạn này, tình trạng SKTT của phụ nữ đã có chuyển
biến do họ nhận được các can thiệp từ chương trình LIFE-DM như sinh hoạt nhóm
bệnh nhân trầm cảm, hỗ trợ phát triển sinh kế...
Mức độ biểu hiện trầm cảm và lo âu của người mẹ ở thời điểm sau 6 tháng như
sau:
Bảng 3.5. Phân loại mức độ biểu hiện trầm cảm và lo âu của người mẹ ở thời
điểm sau 6 tháng.
Mức độ
Biểu hiện trầm cảm
Biểu hiện lo âu
Không có
Số
(N)
39
Nguy cơ
Mức độ nhẹ
42,4
Số
(N)
48
14
15,2
29
31,5
25
27,2
7
7,6
7,6
0
0
Mức độ trung bình 7
lượng Tỷ lệ %
12
lượng Tỷ lệ %
52,2
Ở thời điểm sau 6 tháng, có 39 người mẹ không còn biểu hiện trầm cảm, chiếm
42,4%, số người có nguy cơ mắc trầm cảm còn 14, chiếm 15,2%. Ở mức độ trầm cảm
nhẹ có 25 người chiếm 25,2%. Số người mẹ không còn biểu hiện lo âu là 48, chiếm
52,2%, số còn nguy cơ lo âu là 29 người, chiếm 31,5%, số lo âu ở mức độ nhẹ là 7,
chiếm 7,6%. Ta có thể thấy tại thời điểm sau 6 tháng, số lượng và tỷ lệ trầm cảm và
lo âu có xu hướng giảm so với thời điểm ban đầu.
3.2. Đặc điểm của trẻ từ là con của các người mẹ tham gia nghiên cứu.
3.2.1. Đặc điểm nhân khẩu học của trẻ
Bảng 3.6. Thông tin chung về trẻ là con của các người mẹ tham gia nghiên cứu.
Thông tin chung
Nhóm
Số lượng (N) Tỷ lệ %
Tuổi
Giới tính
Là con thứ
Học vấn
6–9
31
33,7
10 – 14
39
42,4
15 – 18
22
23,9
Nam
52
56,5
Nữ
40
43,5
1
45
48,9
2
41
44,6
3
4
4,3
4
2
2,2
Không đi học
2
2,2
Đang học tiểu học
43
46,7
Đang học THCS
34
37,0
Đang học THPT
12
13,0
Trung cấp/cao đẳng
1
1,1
Theo bảng trên, tại thời điểm sau 6 tháng, trẻ là con của các người mẹ tham gia
nghiên cứu chủ yếu trong độ 10 – 14, chiếm 42,4%, trẻ trai chiếm 56,5%, trẻ gái
chiếm 43,5%, đa số là con thứ nhất trong gia đình. Hầu hết, các trẻ đang học tiểu học
hoặc trung học cơ sở, tổng cộng là 83,7%.
3.2.2. Đặc điểm về tình trạng SKTT của trẻ
Vấn đề SKTT của trẻ được đánh giá theo các thang đo trong công cụ CBCLVN-VN và thu được kết quả như sau:
Bảng 3.7. Điểm trung bình các vấn đề SKTT ở trẻ trong vòng 6 tháng qua theo
thang đo CBCL-VN-VN
Tình trạng SKTT của trẻ
Điểm TB Độ
lệch
(mean)
chuẩn (SD)
Nhóm triệu chứng trầm cảm lo âu
1,05
1,763
Nhóm triệu chứng thu mình
0,9
1,301
13
Nhóm các vấn đề than phiền về cơ thể
0,84
1,416
Nhóm các vấn đề xã hội
1,97
2,057
Nhóm các vấn đề tư duy
0,59
1,039
Nhóm các vấn đề chú ý
2,41
2,73
Nhóm các hành vi không vâng lời
0,88
1,349
Nhóm các hành vi gây hấn
1,89
2,146
Nhóm các vấn đề về tính dục
0,03
0,179
Theo bảng 3.7, ta thấy vấn đề SKTT ở trẻ là con của những người mẹ tham gia
nghiên cứu dao động từ 0,03 (các vấn đề về tình dục) cho đến 2,41 (các vấn đề tập
trung chú ý). Điểm trung bình lớn nhất là 2,41 ở thang đo tập trung chú ý.
3.3. Mối liên hệ giữa SKTT của người mẹ và SKTT của trẻ
3.3.1. Mối liên hệ giữa tình trạng SKTT của người mẹ ở thời điểm ban đầu với các
vấn đề SKTT của trẻ.
Tìm hiểu về mối tương quan giữa tình trạng SKTT của người mẹ và SKTT của
trẻ thu được kết quả như sau:
Bảng 3.8. Tương quan giữa tình trạng SKTT của người mẹ ở thời điểm ban đầu với
tình trạng SKTT của trẻ.
Các biểu hiện lo âu ở người mẹ
Các vấn đề SKTT ở trẻ Hệ số tương quan (r) Giá trị P
Lo âu, trầm cảm
0,132
0,213
Thu mình trầm cảm
0,022
0,835
Than phiền cơ thể
0,140
0,185
Các vấn đề xã hội
0,148
0,161
Các vấn đề tư duy
-0,002
0,982
Các vấn đề chú ý
0,255*
0,015
Không vâng lời
0,282**
0,007
Hành vi gây hấn
0,292**
0,005
Các vấn đề tình dục
-0,022
0,837
Tổng các vấn đề
0,227*
0,030
Bảng 3.8 cho biết các biểu hiện lo âu ở người mẹ có tương quan với các vấn đề
chú ý, không vâng lời, hành vi gây hấn và tổng các vấn đề SKTT có ý nghĩa thống kê.
Người mẹ càng có nhiều biểu hiện lo âu thì trẻ có xu hướng giảm tập trung chú ý,
không vâng lời, tăng các hành vi gây hấn nhiều hơn.
3.3.2. Mối liên hệ giữa tình trạng SKTT của người mẹ ở thời điểm sau 6 tháng với
các vấn đề SKTT của trẻ.
Khi tìm hiểu về mối tương quan giữa SKTT của người mẹ ở thời điểm sau 6
tháng và SKTT của trẻ thì chúng tôi không thấy sự tương quan đáng kể nào giữa có ý
nghĩa thống kê. Kết quả như trên phản ánh tình trạng SKTT của trẻ chịu ảnh hưởng
bởi các vấn đề SKTT của người mẹ từ trước đó chứ không phải các vấn đề SKTT của
người mẹ ở thời điểm sau 6 tháng. Điều này củng cố cho việc đo lường các biểu hiện
SKTT ở trẻ trong vòng 6 tháng qua ở thang đo CBCL-VN là phù hợp và tình trạng
SKTT của người mẹ có thể coi là yếu tố dự báo cho vấn đề SKTT của trẻ.
14
3.4. Các hỗ trợ xã hội và tình trạng bạo lực đối với phụ nữ
3.4.1. Các hỗ trợ xã hội dành cho phụ nữ tại thời điểm ban đầu
Bảng 3.9. Các hỗ trợ xã hội dành cho các người mẹ
Hình thức hỗ trợ Được giúp Được giãi Được
Được
việc nhà bày
các cung cấp giúp đỡ
khi bị ốm khó khăn các thông khi
ốm
tin
cần phải nằm
Mức độ
thiết
một chỗ
N
%
N
%
N
%
N %
Không lúc nào
21
22,8 8
8,7 12
13,0 8
8,7
Một chút thời gian 27
Thỉnh thoảng
18
Đưa đến
bác
sỹ
khám
bệnh
N
%
7
7,6
29,3 42
45,7 42
45,7 44
47,8
33
35,9
19,6 21
22,8 19
20,7 17
18,5
25
27,2
Hầu hết thời gian
26
28,3 21
22,8 19
20,7 22 23,9 25
27,2
Theo bảng 3.9, các hỗ trợ xã hội dành cho các người mẹ có biểu hiện trầm cảm
và lo âu ở thời điểm ban đầu phổ biến ở mức độ “một chút thời gian”, đặc biệt chỉ khi
bị ốm phải nằm một chỗ mới được giúp đỡ, nhưng không phải lần nào cũng vậy. Tỷ
lệ các người mẹ không nhận được bất kỳ hỗ trợ xã hội nào dao động từ 7,6% (được
đưa đi bác sỹ khám bệnh) đến 22,8% (được làm giúp việc nhà khi ốm).
Khi được khỏi về nguồn hỗ trợ cho các đối tượng tham gia nghiên cứu trong
tháng qua thì chúng tôi thu được kết quả như sau:
Bảng 3.10. Nguồn hỗ trợ xã hội cho người mẹ tham gia nghiên cứu
Nguồn hỗ trợ
N
%
HPN phường
34
37
Hội chữ thập đỏ, nhóm hỗ trợ…
1
1,1
Các thành viên trong gia đình
32
34,8
Hàng xóm
31
33,7
Bạn bè
23
25
Chính quyền
3
3,3
Tổ chức từ thiện
2
2,2
Theo thông tin về nguồn cung cấp hỗ trợ xã hội cho các người mẹ ở thời điểm
ban đầu thì Hội phụ nữ phường được đề cập nhiều nhất, chiếm 37%, sau đó là hỗ trợ
từ các thành viên trong gia đình, chiếm 34,8%, tiếp theo là hàng xóm, bạn bè. Có 3
người mẹ nhận được hỗ trợ từ chính quyền, 2 người mẹ được hỗ trợ từ tổ chức từ
thiện trong tháng qua. Như vậy, có thể thấy Hội phụ nữ phường, gia đình và hàng
xóm là yếu tố hỗ trợ đối với các người mẹ khi họ gặp khó khăn trong cuộc sống, cũng
như là yếu tố bảo vệ giúp họ vượt qua các căng thẳng.
3.4.2. Các hỗ trợ xã hội dành cho các người mẹ tại thời điểm sau 6 tháng
Bảng 3.11. Các hỗ trợ xã hội dành cho phụ nữ ở thời điểm sau 6 tháng.
Hỗ trợ
Được giúp Được giãi Được
Được
Đưa đến
việc nhà bày
các cung cấp giúp đỡ bác
sỹ
15
khi bị ốm
khó khăn
%
các thông
tin
cần
thiết
N
%
khi
ốm khám
phải nằm bệnh
một chỗ
N %
N
%
N
%
N
11
12
9
9,8
9
4
Mức độ
Không lúc nào
Một chút thời
30
gian
Thỉnh thoảng
31
Hầu hết thời gian 12
9,8
4,3
6
6,5
32,6 29
31,5 27
29,3 33
35,9
25
27,2
33,7 33
35,9 31
33,7 35
38
33
35,9
13
14,1 17
18,5 13
14,1
21
22,8
13
Luôn luôn
1
1,1 1
1,1
Theo bảng 3.11, tại thời điểm sau 6 tháng, các hỗ trợ xã hội dành cho người mẹ
đã có sự thay đổi từ mức độ “một chút thời gian” đến mức độ “thỉnh thoảng”. Cao
nhất là giúp đưa đi bác sỹ khám bệnh, sau đó là ốm phải nằm một chỗ.
Khi được khỏi về nguồn hỗ trợ cho các đối tượng tham gia nghiên cứu trong 3
tháng qua thì chúng tôi thu được kết quả như sau:
Bảng 3.12. Nguồn hỗ trợ xã hội cho người mẹ tham gia nghiên cứu ở thời điểm
sau 6 tháng
Nguồn hỗ trợ
N
%
HPN phường
36
39.1
Hội chữ thập đỏ, nhóm trầm cảm LIFE-DM, nhóm hỗ trợ… 7
7,6
Các thành viên trong gia đình
43
46.7
Hàng xóm
42
45.7
Bạn bè
37
40.2
Chính quyền
4
4.3
Tổ chức từ thiện
3
3.3
Tại thời điểm sau 6 tháng, nguồn cung cấp hỗ trợ xã hội cho các người mẹ chủ
yếu từ các thành viên trong gia đình, sau đó là hàng xóm, bạn bè. Chỉ có từ 3 đến 4
người mẹ nhận được hỗ trợ từ các tổ chức từ thiện và chính quyền trong vòng 3 tháng
qua. Như vậy, có thể thấy gia đình và hàng xóm là yếu tố hỗ trợ đối với phụ nữ khi
họ gặp khó khăn trong cuộc sống, cũng như là yếu tố bảo vệ giúp họ vượt qua các
căng thẳng.
3.4.3. Tình trạng bạo lực đối với phụ nữ tại thời điểm ban đầu
Tình trạng bạo lực đối với phụ nữ được hỏi với những chị đang sống với
chồng, người yêu hoặc tình. Kết quả cho thấy:
Bảng 3.13. Tình trạng bạo lực đối với phụ nữ tại thời điểm ban đầu
Hình thức bạo lực
Có
%
Không
%
Bị bạo lực tinh thần trong 6 tháng qua 20
29.4
48
52,2
Lo sợ chồng/bạn tình làm gì đó tổn 17
25.0
51
55,4
thương đến mình trong năm qua.
Bị bạo lực tình dục bởi chồng/bạn 3
4.4
65
70,7
tình trong năm qua
16
Bị bạo lực thể chất bởi chồng hoặc 14
20.6
54
58,7
bạn tình trong năm qua
Theo kết quả thu được, thì số trường hợp bị bạo lực tinh thần trong 6 tháng qua
là 20 người, chiếm 29,4%. Số trường hợp lo lắng về việc bị bạo lực là 17 người
chiếm 25%, số bị bạo lực về thể chất là 14 người, chiếm 20,6%. Có 3 người báo cáo
bị bạo lực tình dục, chiếm 4,4%.
3.4.4. Tình trạng bạo lực đối với người mẹ tại thời điểm sau 6 tháng
Tình trạng bạo lực đối với người mẹ được hỏi với những người đang sống với
chồng, người yêu hoặc tình. Kết quả cho thấy:
Bảng 3.14. Tình trạng bạo lực đối với người mẹ tại thời điểm sau 6 tháng
Hình thức bạo lực
Có
%
Không %
Bị bạo lực tinh thần trong 3 tháng qua
11
12
49
53,3
Lo sợ chồng/bạn tình làm gì đó tổn thương 7
7,6
53
57,6
đến mình trong năm qua.
Bị bạo lực tình dục bởi chồng/bạn tình trong 5
5,4
55
59,8
năm qua
Bị bạo lực thể chất bởi chồng hoặc bạn tình 5
5,4
55
59,8
trong năm qua
Theo kết quả thu được, thì số trường hợp bị bạo lực tinh thần trong 3 tháng qua
là 11 người, chiếm 12%. Số trường hợp lo lắng về việc bị bạo lực, hoặc đã bị bạo lực
thể chất, đã bị bạo lực tình dục trong năm vừa qua lần lượt là 7, 5, 5 với tỷ lệ tương
ứng là 7,6%, 5,4% và 5,4%.
3.5. Mối tương quan giữa các hỗ trợ xã hội và tình trạng SKTT của người mẹ
3.5.1. Mối tương quan giữa hỗ trợ xã hội và tình trạng SKTT của người mẹ tại thời
điểm ban đầu
Khi tìm hiểu về mối tương quan giữa các hỗ trợ xã hội và vấn đề SKTT của
các người mẹ, chúng tôi thu được kết quả như sau:
Bảng 3.15. Mối tương quan giữa hỗ trợ xã hội và SKTT của người mẹ ở thời
điểm ban đầu.
Các hỗ trợ xã hội
Hệ số tương quan (r) Giá trị P
Các biểu hiện trầm cảm
-0,093
>0,05
Các biểu hiện lo âu
-0,166
>0,05
Mức độ ảnh hưởng của lo âu
-0,154
>0,05
Theo bảng 3.15 về mối tương quan giữa các hỗ trợ xã hội và tình trạng SKTT ở
người mẹ ở thời điểm ban đầu thì các hỗ trợ xã hội không tương quan với các vấn đề
SKTT của người mẹ.
3.5.2. Mối tương quan giữa hỗ trợ xã hội và tình trạng SKTT của người mẹ tại thời
điểm sau 6 tháng.
Khi tìm hiểu về mối tương quan giữa các hỗ trợ xã hội và vấn đề SKTT của
người mẹ ở thời điểm sau 6 tháng, chúng tôi thu được kết quả như sau:
Bảng 3.16. Mối tương quan giữa hỗ trợ xã hội và SKTT của người mẹ ở thời
điểm sau 6 tháng
17
Các hỗ trợ xã hội
Hệ số tương quan (r) Giá trị P
Các biểu hiện trầm cảm
-0,661
< 0,01
Các biểu hiện lo âu
-0,543
< 0,01
Ý tưởng tự sát
-0,321
< 0,01
Mức độ ảnh hưởng của trầm cảm -0,403
< 0,01
Mức độ ảnh hưởng của lo âu
-0,304
< 0,05
Theo bảng 3.16 về mối tương quan giữa các hỗ trợ xã hội và vấn đề SKTT ở
người mẹ thì các hỗ trợ xã hội có mối tương quan nghịch và đáng kể (P<0,01) với các
vấn đề SKTT của người mẹ, cụ thể là phụ nữ càng nhận nhiều hỗ trợ xã hội từ các
nguồn khác nhau thì càng ít biểu hiện trầm cảm, càng ít biểu hiện lo âu, càng ít ý
tưởng chết là giải pháp tốt cho mình, càng ít bị ảnh hưởng bởi trầm cảm và lo âu đến
các hoạt động cuộc sống thường ngày của họ. Như vậy, tại thời điểm sau 6 tháng các
hỗ trợ xã hội, đặc biệt là các hỗ trợ từ các thành viên trong gia đình và bạn bè, hàng
xóm (như kết quả trình bày trên bảng 3.9) là các yếu tố bảo vệ phụ nữ khỏi các vấn
đề SKTT phổ biến như trầm cảm và lo âu.
3.6. Mối tương quan giữa tình trạng bạo lực đối với SKTT của người mẹ
3.6.1. Mối tương quan giữa tình trạng bạo lực và SKTT của người mẹ thời điểm ban
đầu
Khi nghiên cứu về mối tương quan giữa tình trạng bạo lực và SKTT của người
mẹ bằng Paired Samples T test, chúng tôi nhận được kết quả như sau:
Bảng 3.17. Tương quan giữa tình trạng bạo lực và SKTT của người mẹ tại thời điểm
ban đầu.
t
Giá trị P
Tình trạng bạo lực – trầm cảm
-16,801 < 0,01
Tình trạng bạo lực – lo âu
-17,016 < 0,01
Tình trạng bạo lực – ảnh hưởng của trầm cảm -26,609 < 0,01
Tình trạng bạo lực – ảnh hưởng của lo âu
-14,629 < 0,01
Tình trạng bạo lực – ý tưởng tự sát
-34,993 < 0,01
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tình trạng SKTT giữa người mẹ bị bạo
lực và người mẹ không bị bạo lực. Những người mẹ bị bạo lực trong 6 tháng qua có
nhiều biểu hiện trầm cảm, lo âu, ý tưởng tự sát, mức độ ảnh hưởng của trầm cảm, lo
âu nhiều hơn so với những người mẹ không bị bạo lực.
Khi so sánh điểm trung bình PHQ-9 và GAD-7 của người mẹ bị bạo lực và
người mẹ không bị bạo lực ở thời điểm ban đầu, chúng tôi có kết quả như sau:
Bảng 3.18. Tình trạng SKTT của người mẹ được bị bạo lực so với người mẹ
không bị bạo lực tại thời điểm ban đầu.
Người
mẹ Người mẹ bị bất kỳ
không bị bạo lực hình thức bạo lực nào
Điểm TB PHQ-9
13,4
14,86
Điểm TB GAD-7
9,13
10,27
Theo bảng trên, người mẹ không bị bạo lực có điểm trung bình PHQ-9 và
GAD-7 lần lượt là 13,4 và 9,13. Những người mẹ bị bất kỳ một hình thức bạo lực nào
18
có điểm trung bình PHQ-9 và GAD-7 lần lượt là 14,86 và 10,27. Như vậy những
người mẹ không bị bạo lực ít có biểu hiện trầm cảm, lo âu hơn những người mẹ bị
bạo lực.
3.6.2. Mối tương quan giữa tình trạng bạo lực và SKTT của người mẹ ở thời điểm
sau 6 tháng
Khi nghiên cứu về mối tương quan giữa tình trạng bạo lực và SKTT của người
mẹ sau 6 tháng bằng Paired Samples T test, chúng tôi nhận được kết quả như sau:
Bảng 3.19. Tương quan giữa tình trạng bạo lực và SKTT của người mẹ ở thời
điểm sau 6 tháng.
T
Giá trị P
Tình trạng bạo lực – trầm cảm
-10,957 < 0,01
Tình trạng bạo lực – lo âu
-9,824
< 0,01
Tình trạng bạo lực – ý tưởng tự sát
1,619
> 0,01
Tình trạng bạo lực – ảnh hưởng của trầm cảm -11,430 < 0,01
Tình trạng bạo lực – ảnh hưởng của lo âu
-11,619 < 0,01
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tình trạng SKTT giữa người mẹ bị bạo
lực và người mẹ không bị bạo lực. Những người mẹ bị bạo lực trong có nhiều biểu
hiện trầm cảm, lo âu, mức độ ảnh hưởng của trầm cảm, lo âu nhiều hơn so với những
người mẹ không bị bạo lực. Kết quả này nhất quán với kết quả phân tích ở thời điểm
ban đầu.
Khi so sánh điểm trung bình PHQ-9 và GAD-7 của người mẹ bị bạo lực và
người mẹ không bị bạo lực ở thời điểm sau 6 tháng, chúng tôi có kết quả như sau:
Bảng 3.20. Tình trạng SKTT của người mẹ được bị bạo lực so với người mẹ
không bị bạo lực tại thời điểm sau 6 tháng.
Người
mẹ Người mẹ bị bất kỳ
không bị bạo lực hình thức bạo lực nào
Điểm TB PHQ-9
6,59
8,27
Điểm TB GAD-7
3,77
5,09
Theo bảng trên, người mẹ không bị bạo lực có điểm trung bình PHQ-9 và
GAD-7 lần lượt là 6,59 và 3,77. Những người mẹ bị bất kỳ một hình thức bạo lực nào
có điểm trung bình PHQ-9 và GAD-7 lần lượt là 8,27 và 5,09. Như vậy những người
mẹ không bị bạo lực ít có biểu hiện trầm cảm, lo âu hơn những người mẹ bị bạo lực.
Kết quả này nhất quán với kết quả ở thời điểm ban đầu.
3.7. So sánh tình trạng SKTT của người mẹ được nhận hỗ trợ xã hội với người
mẹ không được nhận hỗ trợ xã hội.
3.7.1. Tình trạng SKTT của người mẹ được nhận hỗ trợ xã hội và người mẹ không
được nhận hỗ trợ xã hội ở thời điểm ban đầu
Bảng 3.21. Tình trạng SKTT của người mẹ được nhận hỗ trợ xã hội và người mẹ
không được nhận hỗ trợ xã hội ở thời điểm ban đầu
Nhận được đầy Không nhận được
đủ hỗ trợ xã hội bất kỳ hỗ trợ xã
hội nào
Điểm TB PHQ-9
14,26
21
19
Điểm TB GAD-7
9,84
14
Theo kết quả từ bảng trên, người mẹ nhận được đầy đủ các hỗ trợ xã hội có
điểm trung bình PHQ-9 và GAD-7 lần lượt là 14,26 và 9,84. Còn điểm trung bình
PHQ-9 và GAD-7 của người mẹ không nhận được bất kỳ hỗ trợ xã hội nào lần lượt là
21 và 14. Như vậy những người mẹ nhận được hỗ trợ xã hội ít có biểu hiện trầm cảm,
lo âu hơn so với những người mẹ không nhận được bất kỳ hỗ trợ xã hội nào.
3.7.2. Tình trạng SKTT của người mẹ được nhận hỗ trợ xã hội và người mẹ không
được nhận hỗ trợ xã hội ở thời điểm sau 6 tháng
Bảng 3.22. Tình trạng SKTT của người mẹ được nhận hỗ trợ xã hội và người mẹ
không được nhận hỗ trợ xã hội ở thời điểm sau 6 tháng
Nhận được đầy Không nhận được
đủ hỗ trợ xã hội bất kỳ hỗ trợ xã
hội nào
Điểm TB PHQ-9
5,65
10
Điểm TB GAD-7
3,78
8
Theo kết quả từ bảng trên, người mẹ nhận được đầy đủ các hỗ trợ xã hội có
điểm trung bình PHQ-9 và GAD-7 lần lượt là 5,65 và 3,78. Còn điểm trung bình
PHQ-9 và GAD-7 của người mẹ không nhận được bất kỳ hỗ trợ xã hội nào lần lượt là
10 và 8. Như vậy những người mẹ nhận được hỗ trợ xã hội ít có biểu hiện trầm cảm,
lo âu hơn so với những người mẹ không nhận được bất kỳ hỗ trợ xã hội nào. Kết quả
này nhất quán với kết quả tại thời điểm ban đầu.
3.8. So sánh tình trạng SKTT của trẻ là con của người mẹ ở các nhóm nhận
được hỗ trợ xã hội và không nhận được hỗ trợ xã hội, nhóm người mẹ bị bạo
lực và người mẹ không bị bạo lực.
3.8.1. Tình trạng SKTT của trẻ là con của người mẹ được nhận hỗ trợ xã hội và trẻ là
con của người mẹ không được nhận hỗ trợ xã hội
Bảng 3.23. Tình trạng SKTT của trẻ là con của người mẹ được nhận hỗ trợ xã hội và
trẻ là con của người mẹ không được nhận hỗ trợ xã hội
Là con của Là con của người
SKTT ở trẻ
người mẹ nhận mẹ không nhận
được đầy đủ hỗ được bất kỳ hỗ trợ
trợ xã hội
xã hội nào
Điểm trung bình của 10,92
14
tổng các vấn đề SKTT
ở trẻ
Theo bảng trên, điểm trung bình của tổng các vấn đề SKTT ở trẻ là con của
người mẹ nhận được đầy đủ các hỗ trợ xã hội là 10,92, còn điểm trung bình của tổng
các vấn đề SKTT ở trẻ là con của những người mẹ không nhận được bất kỳ hỗ trợ xã
hội nòa là 14. Như vậy, trẻ là con của người mẹ nhận được hỗ trợ xã hội có ít vấn đề
SKTT hơn trẻ là con của người mẹ không nhận được bất kỳ hỗ trợ xã hội nào.
3.8.2. Tình trạng SKTT của trẻ là con của người mẹ bị bạo lực với trẻ là con của
người mẹ không bị bạo lực.
Bảng 3.24. Tình trạng SKTT của trẻ là con của người mẹ bị bạo lực với trẻ là con
của người mẹ không bị bạo lực.
20
Là con của Là con của người mẹ
SKTT ở trẻ
người mẹ không bị bất kỳ hình thức
bị bạo lực
bạo lực nào
Điểm trung bình của 10,48
10,32
tổng các vấn đề SKTT
ở trẻ
Theo bảng trên, điểm trung bình của tổng các vấn đề SKTT ở trẻ là con của
người mẹ không bị bạo lực là 10,48. Điểm trung bình của tổng các vấn đề SKTT ở trẻ
là con của người mẹ bị bất kỳ một hình thức bạo lực nào là 10,32.
4. Bàn luận về kết quả nghiên cứu
Các nghiên cứu trên thế giới đã cho thấy vấn đề SKTT ở người mẹ và SKTT ở
trẻ em có liên quan với nhau và chịu tác động của nhiều yếu tố như kinh tế xã hội [6]
và tình trạng bạo lực gia đình. Các hỗ trợ xã hội có tác động trực tiếp, tích cực đối với
tình trạng sức khỏe và được coi như là yếu tố điều chỉnh các hậu quả gây do các căng
thẳng tâm lý xã hội, thực thể đối với vấn đề thể chất và tinh thần của mỗi cá nhân
[31], còn bạo lực gia đình là yếu tố nguy cơ làm tăng khả năng mắc các RLTT ở phụ
nữ và ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của trẻ em [18].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có sự liên quan giữa SKTT của trẻ
và tình trạng SKTT của người mẹ 6 tháng trước đó. Cụ thể là mức độ biểu hiện lo âu
của người mẹ (ở thời điểm 6 tháng trước) có tương quan các vấn đề về tập trung chú
ý, không vâng lời, hành vi gây hấn ở trẻ. Mức độ biểu hiện lo âu ở người mẹ càng cao
thì trẻ càng có nhiều vấn đề nêu trên. Kết quả của nghiên cứu này nhất quán với các
kết quả nghiên cứu của Catherine và cộng sự [9] và kết quả đánh giá điều tra ban đầu
của Trần Đức Thạch trong chương trình SKTT cộng đồng tại Đà Nẵng và Khánh Hòa
của VVAF [29, tr 2.] rằng SKTT của người mẹ là yếu tố nguy cơ và có thể dự báo
các vấn đề SKTT ở trẻ em. Sự liên quan SKTT mẹ - con này, một lần nữa, phản ánh
đặc điểm văn hóa của gia đình Việt Nam rằng người mẹ có vai trò hết sức quan trọng
trong việc gần gũi, chăm sóc, nuôi dậy trẻ em trong gia đình. Vì có mối liên hệ chặt
chẽ như vậy nên ta có thể hiểu được bất kỳ sự thay đổi nào trong tình trạng sức khỏe
của người mẹ đều ảnh hưởng ít nhiều đến sức khỏe của con. Kết quả này sẽ giúp ích
cho việc xây dựng chiến lược dự phòng và nâng cao tình trạng SKTT ở trẻ thông qua
việc cải thiện tình trạng SKTT ở người mẹ.
Cũng theo kết quả nghiên cứu này, SKTT của người mẹ có liên quan với các
hỗ trợ xã hội. Người mẹ càng nhận nhiều hỗ trợ xã hội thì càng ít biểu hiện trầm cảm,
lo âu, ít ý tưởng tự tử và ít bị ảnh hưởng bởi trầm cảm, lo âu đến cuộc sống thường
ngày của họ. Người mẹ nhận đầy đủ hỗ trợ hỗ trợ xã hội có ít vấn đề SKTT hơn
người mẹ không nhận được bất kỳ hỗ trợ xã hội nào. Kết quả này cũng nhất quán với
kết quả nghiên cứu của William W. Dressler [34, tr 39 - 48] cũng như các tác giả
khác trên thế giới rằng những phụ nữ nhận được hỗ trợ từ người thân trong gia đình ít
có biểu hiện trầm cảm hơn. Như vậy, các hỗ trợ xã hội, đặc biệt là các hỗ trợ từ người
chồng và các thành viên trong gia đình, bạn bè, hàng xóm là các yếu tố bảo vệ người
mẹ khỏi các vấn đề SKTT phổ biến. Điều này đã củng cố rằng SKTT không chỉ là
vấn đề riêng của ngành y tế, mà còn là mối quan tâm của cộng đồng, xã hội vì muốn
21
cải thiện tình trạng SKTT cho phụ nữ thì hệ thống hỗ trợ xã hội cũng cần được cải
thiện theo để đáp ứng nhu cầu đó.
Tuy nhiên, mối liên hệ giữa sự thay đổi tình trạng SKTT của người mẹ và các
hỗ trợ xã hội cần được nghiên cứu sâu hơn bằng các dự án quy mô hơn. Việc giảm
các biểu hiện về trầm cảm, lo âu ở người mẹ tham gia nghiên cứu này có thể do tăng
các hỗ trợ xã hội (từ các dịch vụ của dự án LIFE-DM) hoặc do tình trạng SKTT của
người mẹ được cải thiện (do tác động của dự án LIFE-DM) dẫn đến việc cho phép họ
tìm kiếm hoặc trải nghiệm các hỗ trợ xã hội nhiều hơn. Bản chất của mối quan hệ này
cần được nghiên cứu thêm trong thời gian tới.
Trong kết quả của nghiên cứu này, tình trạng SKTT của người mẹ còn liên
quan đến tình trạng bạo lực. Cụ thể là các biểu hiện của trầm cảm, lo âu, mức độ ảnh
hưởng của trầm cảm, lo âu, ý tưởng tự sát ở người mẹ có liên quan đến tình trạng bạo
lực. Người mẹ bị bạo lực có nhiều vấn đề SKTT hơn so với người mẹ không bị bạo
lực. Kết quả này nhất quán với các kết quả nghiên cứu của Ann L. Coker [5, tr 465476] và nghiên cứu của Đỗ Ngọc Khanh [11, tr 149-163] rằng tình trạng bạo lực gây
ra những ảnh hưởng nặng nề về thể chất và tâm thần cho phụ nữ nạn nhân. Như vậy,
bạo lực là yếu tố nguy cơ làm tăng khả năng mắc các RLTT cho phụ nữ. Từ đây, ta
có thể thấy tình trạng bạo lực đối với người mẹ sẽ có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián
tiếp đến tình trạng SKTT của trẻ thông qua mối tương tác mẹ - con. Vì vậy, để xây
dựng một môi trường an toàn, lành mạnh cho sự phát triển đầy đủ của trẻ em bao
gồm cả phát triển về SKTT thì chúng ta cần chú ý đến yếu tố bạo lực trong gia đình.
Do có mối tương quan giữa SKTT của người mẹ và SKTT của trẻ, nên trẻ là
con của những người mẹ nhận được hỗ trợ xã hội có ít vấn đề SKTT hơn so với trẻ là
con của những người mẹ không nhận được bất kỳ hỗ trợ xã hội nào. Tuy nhiên, tình
trạng SKTT ở trẻ là con của những người mẹ bị bạo lực khác như thế nào so với trẻ là
con của người mẹ không bị bạo lực cần nghiên cứu sâu hơn với cỡ mẫu lớn hơn.
Trong phạm vi nghiên cứu này, do những hạn chế của nghiên cứu nên chúng tôi
không có đủ bằng chứng để chứng minh cho giả thuyết rằng trẻ là con của những
người mẹ không bị bạo lực thì ít có các vấn đề SKTT hơn trẻ là con của những người
mẹ bị bạo lực.
5. Hạn chế của đề tài
Hạn chế đầu tiên là khách thể nghiên cứu được sàng lọc trầm cảm và lo âu bởi
các công cụ PHQ-9 và GAD-7 ở cộng đồng bởi nhân viên y tế cộng đồng, không
chuyên về SKTT. Các công cụ này đã được chỉnh sửa và được sử dụng rộng rãi ở
Việt Nam trong lĩnh vực nghiên cứu và thực hành lâm sàng. Tuy nhiên các công cụ
này chưa được chuẩn hóa bởi các nghiên cứu quy mô lớn. Do chưa được chuẩn hóa,
chúng tôi không thể biết được giá trị trung bình và độ lệch chuẩn của các thang đo
dẫn đến việc khó khăn để lý giải điểm số của các khách thể, VD khó để biết số điểm
cụ thể đánh giá mức độ trầm cảm nhẹ, trung bình, nặng cho người Việt. Vì vậy,
nghiên cứu sử dụng công cụ PHQ-9 và GAD-7 như các biến liên tục đại diện cho
các biểu hiện của trầm cảm và lo âu. Tuy không biết mức độ thực sự của trầm
cảm/lo âu nhẹ, trung bình, nặng nhưng ít nhất chúng tôi có thể thấy điểm số trầm
cảm/lo âu có liên quan như thế nào với các biến khác trong nghiên cứu.
22
Hạn chế thứ hai của nghiên cứu là cỡ mẫu không đủ lớn để có thể đủ đại diện
cho việc tìm hiểu các mối quan hệ khác nhau bên cạnh mối quan hệ giữa SKTT của
người mẹ và SKTT của trẻ. Chỉ có một số ít phụ nữ trong nghiên cứu báo cáo rằng
họ đã từng trải qua bạo lực gia đình. Các nghiên cứu trước đây về tình trạng bạo lực
gia đình ở Việt Nam và trên thế giới chỉ ra rằng tỷ lệ bạo lực đối với phụ nữ khá
cao. Trong nghiên cứu này, chỉ có một số ít báo cáo về tình trạng bạo lực gia đình,
có thể do các nguyên nhân như phụ nữ không muốn chia sẻ, coi bạo lực là vấn đề
của riêng cá nhân mình, phụ nữ không có kiến thức về bạo lực…
Hạn chế thứ ba là nghiên cứu này đo lường các vấn đề cảm xúc và hành vi ở
trẻ bằng công cụ CBCL-VN-VN do cha mẹ báo cáo. Đây là công cụ đo lường đã
được sử dụng rộng rãi trên thế giới và đã chứng minh là có độ hiệu lực và độ tin cậy
cao. Tuy nhiên, cha mẹ có thể báo cáo không chính xác các vấn đề cảm xúc hành vi
của trẻ so với thực tế do không nắm chắc các biểu hiện ở trẻ hoặc do bị ảnh hưởng
bởi tình trạng trầm cảm, lo âu dẫn đến việc cho điểm không chính xác. Cần sử dụng
thêm các nguồn thông tin khác nhau về tình trạng SKTT của trẻ như trẻ tự báo cáo,
quan sát hành vi của trẻ, phỏng vấn lâm sàng có cấu trúc để củng cố các dữ liệu thu
thập được.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
SKTT của người mẹ, cụ thể là các biểu hiện lo âu ở người mẹ có liên chặt chẽ
với các vấn đề trung chú ý, không vâng lời, hành vi gây hấn ở trẻ. Mức độ biểu hiện
lo âu ở người mẹ càng cao thì trẻ càng có nhiều vấn đề về chú ý, không vâng lời và
hành vi gây hấn.
Các hỗ trợ xã hội liên quan chặt chẽ với tình trạng SKTT của người mẹ. Cụ thể
là phụ nữ càng nhận nhiều hỗ trợ xã hội từ các nguồn khác nhau thì càng ít biểu hiện
trầm cảm, càng ít biểu hiện lo âu, càng ít ý tưởng chết là giải pháp tốt cho mình, càng
ít bị ảnh hưởng bởi trầm cảm và lo âu đến các hoạt động cuộc sống thường ngày.
Người mẹ nhận được hỗ trợ xã hội thì có ít vấn đề SKTT hơn so với người mẹ không
nhận được các hỗ trợ xã hội.
Tình trạng bạo lực có liên quan đến SKTT của người mẹ. Cụ thể người mẹ bị
bạo lực có nhiều biểu hiện trầm cảm, lo âu, ý tưởng tự sát, mức độ ảnh hưởng của
trầm cảm, lo âu lớn hơn so với người mẹ không bị bạo lực. Người mẹ bị bạo lực có
nhiều vấn đề SKTT hơn so với người mẹ không bị bạo lực.
Trẻ là con của những người mẹ nhận được hỗ trợ xã hội có ít vấn đề SKTT hơn
so với trẻ là con của những người mẹ không nhận được bất kỳ hỗ trợ xã hội nào.
2. Khuyến nghị
Sức khỏe của người mẹ là một mối quan tâm lớn của xã hội. Khi người mẹ có
vấn đề về SKTT, họ phải trải qua những căng thẳng đáng kể trong cuộc sống và khó
hoàn thành công việc cũng như chăm sóc gia đình. Các vấn đề SKTT ở người mẹ
cũng dẫn đến các nguy cơ mắc các vấn đề về cảm xúc, xã hội cho con của họ, từ đó
có thể gây cản trở đến việc phát triển toàn diện, việc học tập cũng như các quan hệ
bạn bè của trẻ. Do đó, việc tìm ra các giải pháp để cải thiện SKTT của người mẹ là
điều quan trọng. Một trong những giải pháp đó là nâng cao nhận thức và kỹ năng của
23
phụ nữ trong cộng đồng về các vấn đề SKTT như trầm cảm và lo âu thông qua các
mô hình quản lý SKTT dựa vào cộng đồng (như của dự án LIFE-DM) để phụ nữ hiểu
và quản lý tốt hơn tình trạng SKTT của mình và cải thiện chất lượng cuộc sống. Từ
đó hạn chế được các ảnh hưởng tiêu cực đến tình trạng SKTT của trẻ.
Một yếu tố quan trọng khác đối với SKTT của người mẹ là các hỗ trợ xã hội.
Người mẹ nhận được hỗ trợ xã hội từ gia đình, bạn bè và cộng đồng thì có ít vấn đề
SKTT hơn và có xu hướng thành công hơn trong công việc cũng như trong gia đình.
Các giải pháp cần tập trung để tăng cường các hỗ trợ xã hội từ nhiều nguồn khác
nhau cho người mẹ, đặc biệt huy động sự tham gia hỗ trợ của các thành viên trong gia
đình như người chồng để phụ nữ được tăng các hỗ trợ và giảm các mâu thuẫn trong
gia đình, từ đó phụ nữ vượt qua được những giai đoạn khó khăn để có thể đương đầu
với những căng thẳng trong cuộc sống. Các chương trình tại cộng đồng cần phát huy
vai trò của các tổ chức, đoàn thể như Hội phụ nữ, cơ sở chăm sóc sức khỏe ban đầu…
trong việc hỗ trợ các nhu cầu kinh tế, xã hội và y tế cho phụ nữ.
Thực tế là tình trạng bạo lực đối với phụ nữ có tác động rất tiêu cực đến tình
trạng sức khỏe của họ. Người mẹ bị bạo lực gia đình có nhiều vấn đề SKTT, căng
thẳng, khó khăn trong cuộc sống và các hoạt động chức năng hơn. Các chương trình
phát triển cộng đồng cần nâng cao kiến thức về sự nguy hiểm của tình trạng bạo lực
đối với phụ nữ. Cả nam giới và phụ nữ trong cộng đồng cần biết về các hậu quả tiêu
cực của tình trạng bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em, và học hỏi các kỹ năng để ngăn
chặn tình trạng bạo lực gia đình cũng như tìm kiếm sự trợ giúp. Cần tăng cường phối
kết hợp giữa các cơ sở y tế, công an, hội phụ nữ để giải quyết, đối phó và dự phòng
vấn đề bạo lực đối với phụ nữ trong cộng đồng.
24