Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Thực trạng và giải pháp về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm của bánh trung thu ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.32 KB, 15 trang )

CHƯƠNG 1
MỞ ĐẦU
1.1.Đặt vấn đề
Thực phẩm rất quan trọng đối với cuộc sống của tất cả mọi người
trong xã hội. Việc bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) chính là
giải pháp nhằm nâng cao sức khỏe, phòng chống bệnh tật và góp phần nâng cao
chất lượng dân số của mỗi quốc gia.
Từ lâu, tết Trung thu là một trong những ngày lễ truyền thống của dân tộc
Việt Nam. Trong thói quen văn hóa người Việt, bánh trung thu là một phần tất yếu
của ngày lễ. Không chỉ vậy nó còn được dùng làm quà tặng với ý nghĩa hạnh
phúc, sum hợp và đoàn viên. Tuy nhiên, do đặc điểm về nhu cầu không ổn định, số
lượng các nhà cung cấp và sản xuất bánh lại rất nhiều việc đảm bảo an toàn vệ
sinh thực phẩm đối với các loại bánh trung thu đang tiêu thụ trên thị trường là một
thách thức lớn đối với các cơ quan chức năng và là vấn đề quan tâm của toàn xã
hội. Theo Kế hoạch của Thường trực Ban chỉ đạo liên ngành Trung ương về
VSATTP về việc triển khai thanh tra, kiểm tra liên ngành về an toàn thực phẩm
trong dịp Tết Trung thu năm 2015 thì các đơn vị chức năng thuộc các Bộ: Y tế,
Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Công thương thành lập 6 đoàn thanh tra,
kiểm tra liên ngành, tiến hành thanh tra tại 12 tỉnh, thành phố trọng điểm để đảm
bảo người dân đón Tết trung thu trong an toàn và tiết kiệm. Từ đó có thể thấy thị
trường bánh trung thu vào mỗi dịp Tết đều rất sôi nổi nhưng rất phức tạp. Không
chỉ những cơ sở làm bánh tự phát tại nhà mà các thương hiệu nổi tiếng như Kinh
Đô, Bibica, Đồng Khánh cũng phải đối mặt với việc sản phẩm bị làm giả, hoán đổi
nhãn mác, suy giảm chất lượng… Điều này đã gây nên những lo ngại trong dư
luận xã hội, không chỉ tác động tiêu cực đến sức khỏe và niềm tin của người tiêu
dùng mà còn ảnh hưởng không tốt đến nét đẹp truyền thống trong văn hóa Lễ hội
của Việt Nam. Chính vì thế, nhóm chúng tôi thực hiện đề tài: “Thực trạng và giải
pháp về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm của bánh trung thu ở Việt Nam”
để trình bày những thực trạng hiện tại về vấn đề an toàn thực phẩm đối với bánh
trung thu từ đó nhằm đề xuất các giải pháp để hạn chế những rủi ro và nâng cao
chất lượng của bánh trung thu để bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng và niềm tin của


khách hàng đối với hàng hóa Việt.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài


1.2.1 Mục tiêu chung
Đề tài nhằm phản ánh thực trạng về chất lượng và vấn đề vệ sinh an toàn
thực phẩm của bánh trung thu hiện nay, cũng như mối lo ngại của người tiêu dùng
trước tình hình các cơ sở sản xuất bánh tràn lan, không có giấy phép kinh doanh,
đa số là các cơ sở tự phát. Từ đó đề xuất giải pháp để góp phần đảm bảo sức khỏe
của người tiêu dùng và thông điệp đến mỗi cá nhân có ý thức tự giác trong việc
đảm bảo vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm cho chính mình.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
• Tìm hiểu thực trạng về vấn đề chất lượng của bánh trung thu ở thị trường
Việt Nam hiện nay
• Những thuận lợi và khó khăn trong việc đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm
đối với bánh trung thu trong mỗi dịp Lễ, Tết.
• Đề xuất giải pháp đảm bảo ATTP cho người tiêu dùng khi lựa chọn sản
phẩm bánh trung thu.


CHƯƠNG II
CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1 BÁNH TRUNG THU
2.1.1 Khái niệm
Bánh trung thu là loại bánh ngọt thường được dùng trong dịp Tết Trung thu.
Trung thu là giữa mùa thu, Tết Trung Thu tức là vào rằm (ngày 15) tháng Tám âm
lịch. Tết Trung Thu tại Việt Nam không biết có tự bao giờ, không có sử liệu nào
nói rõ về gốc tích của ngày lễ rằm tháng Tám. Nhiều người cho rằng đây là một
nét văn hóa du nhập từ Trung Quốc trong thời gian Việt Nam bị phương Bắc đô

hộ. Nhà văn Toan Ánh trong quyển "Nếp cũ tín ngưỡng Việt Nam Quyển Hạ" cho
rằng: Theo sách cổ thì Tết Trung Thu bắt đầu từ đời nhà Ðường, thời vua Duệ
Tôn, niên hiệu Văn Minh. Bánh trung thu thường có dạng hình tròn (đường
kính khoảng 10 cm) hay hình vuông (chiều dài cạnh khoảng 7–8 cm), chiều cao
khoảng 4–5 cm, không loại trừ các kích cỡ to hơn, thậm chí khổng lồ.
Ở Việt Nam từ xưa đến nay, bánh Trung Thu gồm hai hình thức: dẻo và
nướng.
• Bánh dẻo làm bằng bột nếp trắng tinh nhồi với đường với nước hoa bưởi
thơm lừng, đúc trong khuôn gỗ thường hình tròn, nhân làm bằng hột sen hay đậu
xanh tán nhuyễn là chiếc bánh Trung Thu mang sắc thái Việt Nam hơn bánh
nướng. Theo khẩu vị Hà Nội, bánh dẻo thường ngọt sắc hơn trong Nam. Đường
kính của bánh thường rất lớn, có thể gần bằng chiếc mâm, để thể hiện hình dáng
của vầng trăng thu lớn và trắng ngà trong biểu tượng của ý nghĩa "đoàn viên của
gia đình" và nhất là tình yêu khắng khít vợ chồng.
• Bánh nướng Trung Thu hầu như vẫn trong bí quyết chế biến của dân Việt
gốc Hoạ. Hình dáng bánh nướng thường vuông hay tròn, thường đựng vừa khít
bốn chiếc trong một cái hộp giấy vuông. Vỏ bánh làm bằng bột mì dậy men trộn
với trứng gà và chút rượu, nhân thì có thể thuần tuý thường làm bằng đậu xanh,
khoai môn, hay hột sen tán nhuyễn bao bọc lấy một hay hai tròng đỏ trứng vịt
muối có mùi vani hay sầu riêng hoặc là nhân thập cẩm gồm đủ thứ như dăm bông,
thịt quay, vi yến, dừa, hạt dưa, vỏ quít, ngó sen, bí đao.
Người Việt Nam từ lâu đã quen thuộc với hương vị bánh trung thu thập cẩm
truyền thống. Những chiếc bánh nướng, bánh dẻo thơm phức với nhân làm bằng
hạt sen, thịt mỡ, vừng, lạp sườn, đậu xanh nhắc người ta nhớ đến không khí cả gia


đình quây quần phá cỗ đêm rằm. Bánh trung thu có sức cuốn hút mãnh liệt đến thế
bởi hương vị bánh là sự hội tụ của cả tinh hoa đất trời mùa thu. Tết Trung Thu là
cái Tết lớn thứ ba trong năm. Từ hình ảnh tròn của vầng trăng, con người thuở xưa
đã ký thác tư tưởng của mình thành một biểu tượng: đó là chiếc bánh tròn mà

người ta gọi nó là Nguyệt Bính hay Bánh Vầng Trăng. Ngắm trăng thu mà không
ăn Nguyệt Bính sẽ là vô nghĩa.
Những loại bánh trung thu truyền thống thường gồm có một lớp vỏ mỏng (bề
dày không quá 1 cm), làm bằng bột mì, ít hương vị, bao bọc khối nhân rất ngọt và
hơi có dầu. So với các loại bánh ngọt phương Tây, bánh trung thu có độ ngọt hơn
rất nhiều. Thời xưa, nhân bánh thường là những quả trứng muối tượng trưng cho
trăng rằm. Vị mặn của trứng muối dường như "trung hòa" cho vị ngọt của các
nguyên liệu khác. Bánh trung thu được đem nướng sau khi đã định hình, rất hiếm
khi được chưng cách thủy hay rán. Bánh trung thu hiện đại phần lớn là sự cách tân
kiểu dáng là nguyên liệu của nhân bánh. Nếu như truyền thống làm nhân bánh
bằng trứng muối thì bây giờ nó có thể là đậu xanh, khoai môn, jambon, các hương
liệu như: cà phê, sô-cô-la, các loại trái cây v.v. Thập kỷ 1980 xuất hiện các kiểu
bánh trung thu được làm lạnh (bánh dẻo lạnh). Những năm gần đây còn xuất hiện
loại bánh trung thu dành cho người ăn kiêng (bánh trung thu chay).
Bánh trung thu thường đắt hơn nhiều so với giá trị thực của nó bởi lẽ việc sản
xuất và kinh doanh chỉ mang tính thời vụ và thị trường phục vụ chỉ là những nơi
mà Tết Trung thu có tầm ảnh hưởng lớn như các nước châu Á như Trung
Quốc, Việt Nam, Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc.
2.1.2. Quy trình làm bánh
Bánh trung thu bao gồm hai thành phần cơ bản là vỏ bánh và nhân bánh, và tùy
theo vỏ bánh (làm bằng bột mì hay bằng bột gạo, bột gạo nếp) cũng như quy trình
chế biến (làm chín bằng lò nướng hay không) mà người ta lại chia thành bánh
nướng và bánh dẻo. Các nguyên liệu làm nhân bánh có thể bao gồm đậu
xanh, mứt, xá xíu,lạp xường, trứng muối, đường, dầu ăn, mỡ lợn, hạt sen, hạt
dưa v.v.
Bánh nướng có vỏ làm từ bột mì, nước đường đun lẫn mạch nha, dầu ăn. Sau khi
nặn bột đã ngào bao quanh nhân bánh, người làm bánh cho bánh vào khuôn ép rồi
đem bánh nướng trong lò cho tới khi chín. Trong quá trình nướng bánh được phết
thêm lòng đỏ trứng.



Bánh dẻo có vỏ và nhân đều đã được làm chín từ trước, ngoài ra cũng thường gặp
bánh dẻo chay không nhân. Bột vỏ bánh được làm từ gạo nếp rang rây mịn, chút
hương liệu như vani hay nước hoa bưởi, nước đường. Người làm bánh ngào bột,
bao nhân và đem ép trong khuôn đã rắc chút bột chống dính. Sau khi tháo khuôn
bánh đã có thể sử dụng được ngay không cần bất cứ biện pháp chế biến nào khác.
2.2 Khái niệm về chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm.
2.2.1 Khái niệm về chất lượng
Chất lượng là một phạm trù phức tạp và có nhiều định nghĩa khác nhau. Có rất
nhiều quan điểm khác nhau về chất lượng. Hiện nay có một số định nghĩa về chất
lượng đã được các chuyên gia chất lượng đưa ra như sau:
Theo Juran: Chất lượng là sự phù hợp với nhu cầu. Theo Giáo sư Crosby: Chất
lượng là sự phù hợp với các yêu cầu hay đặc tính nhất định. Còn theo Giáo sư
người Nhật – Ishikawa: Chất lượng là sự sự thoả mãn nhu cầu thị trường với chi
phí thấp nhất. Theo Trong mỗi lĩnh vực khác nhau, với mục đích khác nhau nên có
nhiều quan điểm về chất lượng khác nhau. Tuy nhiên, có một định nghĩa về chất
lượng được thừa nhận ở phạm vi quốc tế, đó là định nghĩa của Tổ chức Tiêu chuẩn
hoá Quốc tế. Theo điều 3.1.1 của tiêu chuẩn ISO 9000:2005 định nghĩa chất lượng
là: Mức độ đáp ứng các yêu cầu của một tập hợp có đặc tính vốn có.
Chất lượng là khái niệm đặc trưng cho khả năng thoả mãn nhu cầu của khách
hàng. Vì vậy, sản phẩm hay dịch vụ nào không đáp ứng được nhu cầu của khách
hàng thì bị coi là kém chất lượng cho dù trình độ công nghệ sản xuất ra có hiện đại
đến đâu đi nữa. Đánh giá chất lượng cao hay thấp phải đứng trên quan điểm người
tiêu dùng. Cùng một mục đích sử dụng như nhau, sản phẩm nào thoả mãn nhu cầu
tiêu dùng cao hơn thì có chất lượng cao hơn. Yêu cầu của khách hàng đối với sản
phẩm hay dịch vụ thường là: tốt, đẹp, bền, sử dụng lâu dài, thuận lợi, giá cả phù
hợp.
Chất lượng là một thuộc tính cơ bản của sản phẩm, đó là sự tổng hợp về
kinh tế-kỹ thuật- xã hội. Chất lượng được tạo nên từ những yếu tố có liên quan đến
quá trình “sống” của sản phẩm. Nó được tạo thành ngay từ khâu thiết kế, xây dựng

phương án đến sản xuất. Quá trình sản xuất là khâu quan trọng nhất tạo nên chất
lượng và sau đó là trong quá trình lưu thông, phân phối và sử dụng khi sử dụng,
chất lượng sản phẩm được đánh giá đầy đủ nhất và cũng là khâu quan trọng nhất
trong quá trình sống của sản phẩm. Như vậy không có nghĩa là chất lượng chỉ là
giá trị của sản phẩm. Thực tế cho thấy giá trị sử dụng càng cao thì sản phẩm đó
càng có chất lượng, tuy nhiên đôi khi những thuộc tính bên trong sản phẩm thay
đổi nhưng giá trị sử dụng vẫn không đổi mặc dù chất lượng sản phẩm đã thay đổi.


Vậy ta có thể định nghĩa: Chất lượng sản phẩm là tập hợp các thuộc tính của sản
phẩm, nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu của người sử dụng trong những đIũu kiện
kinh tế, khoa học, kỹ thuật, xã hội nhất định.
Từ đó ta có thể đưa ra định nghĩa: Chất lượng thực phẩm là tập hợp các
thuộc tính của thực phẩm nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu của người sử dụng.
Chất lượng cơ bản của thực phẩm là đưa đến cho người sử dụng các chất dinh
dưỡng và năng lượng cần thiết cho các quá trình sống. Để tạo ra một sản phẩm thì
trước hết phải đi từ khâu nguyên liệu. Nguyên liệu được đưa vào chế biến thành
bán thành phẩm, rồi thành thành phẩm. Thành phẩm sẽ được lưu thông, phân phối
đến tay người tiêu ding và được sử dụng. Như vậy phải trải qua các quá trình sản
xuất nông nghiệp tạo ra nguyên liệu, chế biến công nghiệp tạo ra thành phẩm và
hệ thống thương nghiệp làm nhiêm vụ lưu thông, phân phối. Tuỳ vào mực đích và
phạm vi sử dụng khác nhau mà nguyên liệu đầu vào có thuộc tính như nhau, sau
quá trình chế biến sẽ có chất lượng khác nhau do tính chất công nghệ khác nhau
mà như vậy thì chỉ tiêu chất lượng của chúng sẽ khác nhau. Các yếu tố cấu thành
chất lượng được thể hiện ở tất cả các khâu từ nguyên liệu đến sản xuất, phân phối,
tiêu thụ.
2.2.1 An toàn vệ sinh thực phẩm
2.2.1.1 Khái niệm
Vệ sinh an toàn thực phẩm hay an toàn thực phẩm hiểu theo nghĩa hẹp là
một môn khoa học dùng để mô tả việc xử lý, chế biến, bảo quản và lưu trữ thực

phẩm bằng những phương pháp phòng ngừa, phòng chống bệnh tật do thực phẩm
gây ra. Vệ sinh an toàn thực phẩm cũng bao gồm một số thói quen, thao tác trong
khâu chế biến cần được thực hiện để tránh các nguy cơ sức khỏe tiềm năng
nghiêm trọng. Hiểu theo nghĩa rộng, vệ sinh an toàn thực phẩm là toàn bộ những
vấn đề cần xử lý liên quan đến việc đảm bảo vệ sinh đối với thực phẩm nhằm đảm
bảo cho sức khỏe củangười tiêu dùng.
Theo Luật An toàn thực phẩm của Việt Nam (2010): An toàn thực phẩm là
việc bảo đảm để thực phẩm không gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người.
Thực phẩm: là những thức ăn, đồ uống của con người dưới dạng tươi sống
hoặc đã qua sơ chế, chế biến; bao gồm cả đồ uống, nhai ngậm và các chất đã được
sử dụng trong sản xuất, chế biến thực phẩm.
Vệ sinh thực phẩm: là mọi điều kiện và biện pháp cần thiết để đảm bảo sự
an toàn và phù hợp của thực phẩm ở mọi khâu thuộc chu trình thực phẩm.


Vì vậy, vệ sinh an toàn thực phẩm là tất cả điều kiện, biện pháp cần thiết từ
khâu sản xuất, chế biến, bảo quản, phân phối, vận chuyển cũng như sử dụng nhằm
bảo đảm cho thực phẩm sạch sẽ, an toàn, không gây hại cho sức khỏe, tính mạng
người tiêu dùng. Vì vậy, vệ sinh an toàn thực phẩm là công việc đòi hỏi sự tham
gia của nhiều ngành, nhiều khâu có liên quan đến thực phẩm như nông nghiệp, thú
y, cơ sở chế biến thực phẩm, y tế, người tiêu dùng.
Vệ sinh an toàn thực phẩm đang ngày càng trở thành một trong những điểm
nóng đáng quan tâm của xã hội và tác động lớn đến sức khỏe của người tiêu dùng .
Ngày 17-6-2010, Quốc hội ban hành Luật an toàn thực phẩm số 55/2010/QH12:
Quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong bảo đảm an toàn thực
phẩm. Ngày 25/04/2012 Nghị định 38 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật an toàn thực phẩm và phân công quản lý an toàn thực phẩm
cho ba bộ: Thủ tục và quy trình xin cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực
phẩm Bộ y tế Thủ tục và quy trình xin cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn
thực phẩm Bộ Công Thương Thủ tục và quy trình xin cấp giấy chứng nhận đủ điều

kiện an toàn thực phẩm Bộ Nông Nghiệp.
Thực phẩm có thể truyền bệnh từ người sang người cũng như là một môi
trường phát triển cho các vi khuẩn có thể gây ra ngộ độc thực phẩm. Cuộc tranh
luận về an toàn thực phẩm biến đổi gen bao gồm các vấn đề như tác động của thực
phẩm biến đổi gen đối với sức khỏe của các thế hệ xa hơn và ô nhiễm môi trường,
di truyền mà có thể phá hủy đa dạng sinh học tự nhiên. Ở các nước phát triển có
những tiêu chuẩn rất phức tạp và nghiêm ngặt cho việc chế biến, bảo quản và tiêu
thụ thực phẩm, trong khi ở các nước đang phát triển và kém phát triển thì tiêu
chuẩn này quá thấp và việc quản lý vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm tỏ ra quá
lỏng lẽo, yếu kém và xã hội những nước này thường ngày phải đối mặt với nguy
cơ ngộ độc thực phẩm, tử vong hàng ngày hàng giờ.
2.2.1.2 Tầm quan trọng của vệ sinh an toàn thực phẩm
• Tầm quan trọng của vệ sinh an toàn thực phẩm đối với sức khỏe, bệnh tật
Trước mắt, thực phẩm là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng cho sự phát triển
của cơ thể, đảm bảo sức khỏe con người nhưng đồng thời cũng là nguồn có thể
gây bệnh nếu không đảm bảo vệ sinh. Không có thực phẩm nào được coi là có giá
trị dinh dưỡng nếu nó không đảm bảo vệ sinh. Về lâu dài thực phẩm không những
có tác động thường xuyên đối với sức khỏe mỗi con người mà còn ảnh hưởng lâu
dài đến nòi giống của dân tộc. Sử dụng các thực phẩm không đảm bảo vệ sinh
trước mắt có thể bị ngộ độc cấp tính với các triệu chứng ồ ạt, dễ nhận thấy, nhưng
vấn đề nguy hiểm hơn nữa là sự tích lũy dần các chất độc hại ở một số cơ quan


trong cơ thể sau một thời gian mới phát bệnh hoặc có thể gây các dị tật, dị dạng
cho thế hệ mai sau. Những ảnh hưởng tới sức khỏe đó phụ thuộc vào các tác nhân
gây bệnh. Những trẻ suy dinh dưỡng, người già, người ốm càng nhạy cảm với các
bệnh do thực phẩm không an toàn nên càng có nguy cơ suy dinh dưỡng và bệnh
tật nhiều hơn.
• Vệ sinh an toàn thực phẩm tác động đến kinh tế và xã hội
Đối với nước ta cũng như nhiều nước đang phát triển, lương thực thực

phẩm là một loại sản phẩm chiến lược, ngoài ý nghĩa kinh tế còn có ý nghĩa chính
trị, xã hội rất quan trọng. Vệ sinh an toàn thực phẩm nhằm tăng lợi thế cạnh tranh
trên thị trường quốc tế. Để cạnh tranh trên thị trường quốc tế, thực phẩm không
những cần được sản xuất, chế biến, bảo quản phòng tránh ô nhiễm các loại vi sinh
vật mà còn không được chứa các chất hóa học tổng hợp hay tự nhiên vượt quá
mức quy định cho phép của tiêu chuẩn quốc tế hoặc quốc gia, gây ảnh hưởng đến
sức khỏe người tiêu dùng.
Những thiệt hại khi không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm gây nên
nhiều hậu quả khác nhau, từ bệnh cấp tính, mạn tính đến tử vong. Thiệt hại chính
do các bệnh gây ra từ thực phẩm đối với cá nhân là chi phí khám bệnh, phục hồi
sức khỏe, chi phí do phải chăm sóc người bệnh, sự mất thu nhập do phải nghỉ làm
… Đối với nhà sản xuất, đó là những chi phí do phải thu hồi, lưu giữ sản phẩm,
hủy hoặc loại bỏ sản phẩm, những thiệt hại do mất lợi nhuận do thông tin quảng
cáo … và thiệt hại lớn nhất là mất lòng tin của người tiêu dùng. Ngoài ra còn có
các thiệt hại khác như phải điều tra, khảo sát, phân tích, kiểm tra độc hại, giải
quyết hậu quả …
Do vậy, vấn đề đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm để phòng các bệnh gây
ra từ thực phẩm có ý nghĩa thực tế rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế và xã
hội, bảo vệ môi trường sống của các nước đã và đang phát triển, cũng như nước ta.
Mục tiêu đầu tiên của vệ sinh an toàn thực phẩm là đảm bảo cho người ăn tránh bị
ngộ độc do ăn phải thức ăn bị ô nhiễm hoặc có chất độc; thực phẩm phải đảm bảo
lành và sạch.
2.2.1.3 Vệ sinh an toàn thực phẩm của Việt Nam.
Bảo đảm an toàn thực phẩm là một nội dung quan trọng trong công tác bảo
vệ sức khỏe nhân dân, nên cũng đã được Đảng, Nhà nước quan tâm sâu sắc, điều
này đã được thể hiện cụ thể bằng hành động cụ thể: Thành lập Cục quản lý chất
lượng, vệ sinh, an toàn thực phẩm (tiền thân của Cục ATVSTP ngày nay) năm
1999. Ngay trong năm này, Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 08 về việc tăng
cường các biện pháp bảo đảm CLVSATTP; năm 2000 đã phê duyệt chương trình



bảo đảm VSATTP là một trong 10 chương trình mục tiêu quốc gia của Bộ Y tế;
năm 2003 đã ban hành Pháp lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm ; năm 2004 ban hành
Nghị định số 163/2004/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Pháp
lệnh VSATTP; năm 2006 phê duyệt chương trình hành động bảo đảm VSATTP
giai đoạn 2006-2010 theo hướng trở thành chương trình mục tiêu quốc gia độc lập;
năm 2007, phê duyệt 6 dự án nằm trong chương trình mục tiêu quốc gia bảo đảm
VSATTP giai đoạn đến 2010 với tổng kinh phí khoảng 1300 tỷ đồng. Năm 2008,
ban hành Nghị định số 79/2008/NĐ-CP về hệ thống tổ chức quản lý và kiểm
nghiệm vệ sinh an toàn thực phẩm.
• Một số văn bản, qui định cụ thể
(1). Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị về công
tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới. Quyết
định số 243/2005/QĐ-TTg ngày 05/10/2005 của Thủ tướng Chính phủ ban hành
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày
23/02/2005 của Bộ chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ
nhân dân trong tình hình mới.
(2). Pháp lệnh VSATTP (số 12/2003/PL-UBTVQH11) ngày 07/8/2003.
Nghị định số 163/2004/NĐ-CP ngày 07/9/2004 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Pháp lệnh VSATTP.
(3). Luật Thuỷ sản số 17/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc Hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá 11.
(4). Pháp lệnh Thú y số 18/2004/PL-UBTVQH11 ngày 29/4/2004 của Uỷ
ban thường vụ Quốc Hội khoá 11. Nghị định số 33/2005/NĐ-CP ngày 15/3/2005
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Thú y.
(5). Pháp lệnh Bảo vệ và kiểm dịch thực vật số 36/2001/PLUBTVQH10. Nghị định số 58/2002/NĐ-CP ngày 03/6/2002 của Chính phủ ban
hành Điều lệ Bảo vệ thực vật, Điều lệ kiểm dịch thực vật và Điều lệ quản lý thuốc
bảo vệ thực vật.
(6). Quyết định số 35/2001/QĐ-TTg ngày 19/3/2001 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Chiến lược Chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân giai đoạn 20012010.

(7). Quyết định số 153/2006/QĐ-TTg ngày 30/6/2006 của Thủ tướng Chính
phủ về việc quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống y tế Việt Nam giai đoạn đến
năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020;


(8). Quyết định số 154/2006/QĐ-TTg ngày 30/6/2006 của Thủ tướng Chính
phủ về việc phê duyệt Đề án ”Quản lý nhà nước về dược phẩm, an toàn vệ sinh
thực phẩm, mỹ phẩm giai đoạn 2006-2010;
(9). Quyết định số 43/2006/QĐ-TTg ngày 20/02/2006 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm
đến năm 2010.
• Một số quan điểm mới của Việt Nam trong công tác quản lý vệ sinh an toàn
thực phẩm trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Trong thời kỳ hội nhập và toàn cầu hóa như hiện nay, vấn đề an toàn thực
phẩm cũng như nhiều vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội khác không còn là vấn đề
của riêng mỗi khu vực, mỗi quốc gia. Vấn đề xây dựng chính sách, phát triển kinh
tế, xã hội, nguy cơ dịch bệnh của mỗi nước đều có thể ảnh hưởng đến nhiều nước
khác và phải tuân thủ các quy ước quốc tế. Theo đó, các rào cản thương mại sẽ
dần được dỡ bỏ thay bằng sự công nhận, thừa nhận lẫn nhau. Như vậy, để quản lý
được thị trường thực phẩm cũng như bảo hộ, phát triển được các sản phẩm thực
phẩm trong nước thì đòi hỏi phải thay đổi tư duy, cách tiếp cận quản lý nhà nước
cũng như năng lực sản xuất, kinh doanh thực phẩm. Nếu không thay đổi cách tiếp
cận, chúng ta sẽ liên tục phải đặt hệ thống ở tình trạng báo động, khi mà liên tục
phải giải quyết các “sự cố khẩn cấp”, như là: chưa hết sự cố sudan, 3-MCPD thì
lại đến dịch tả, rồi melamine. Một số nguyên tắc cơ bản của quan điểm quản lý an
toàn thực phẩm của Việt Nam trong giai đoạn mở cửa hội nhập là:
(1) Thay đổi cách tiếp cận từ “quản lý sản phẩm” sang “quản lý quá trình”:
hiện nay chúng ta đang thực hiện mô hình quản lý cắt ngang “chuỗi thực phẩm”
thành nhiều công đoạn và kiểm soát sản phẩm của từng công đoạn đó thông qua
việc ban hành các tiêu chuẩn “cho phép”.

(2) Xây dựng hệ thống labo kiểm nghiệm thực phẩm, nghiên cứu khoa học
thực phẩm, công nghệ, sinh học... thực sự mạnh và có chiều sâu,
(3) Pháp luật về an toàn thực phẩm đóng vai trò sống còn trong thời đại
thương mại quốc tế; phải xây dựng được một hệ thống pháp luật đủ mạnh, phù
hợp với thông ước quốc tế, kèm theo nguồn lực tương xứng đảm bảo kiểm tra,
giám sát, cưỡng chế nghiêm khắc và phản ứng nhanh từ các cấp chính quyền đối
với những vi phạm về an toàn thực phẩm.
(4) Hội nhập quốc tế: duy trì mối quan hệ chặt chẽ với các quốc gia, tổ chức
quốc tế có liên quan trong việc chia sẻ thông tin, giải quyết tranh chấp, sự cố khẩn
cấp về an toàn thực phẩm.


(5) An toàn thực phẩm không phải là vấn đề chuyên môn sức khỏe thuần
túy, mà liên quan trực tiếp đến sự phát triển kinh tế, an sinh, an toàn xã hội, hợp
tác quốc tế, an ninh quốc gia...


CHƯƠNG 3
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. KẾT LUẬN
Kết luận a nên ghi lại tóm tắt theo mục tiêu của mình
Thực trạng: Hiện tại VN có … cơ sở, nhà sản xuất bánh trung thu. THị
trường tiêu thụ lớn. Mỗi năm sức cầu đều tăng. Tuy nhiên, các nhà sản xuất
đang dần thay đổi theo xu hướng của người dân: tránh quá ngọt để đè phòng
bệnh tiểu đường, béo phì, tim mạch. Bên cạnh đó, tiếp tục đa dạng về loại,
mẫu mã, cải tiến dần dần chất lượng của bánh theo nhu cầu cảu người tiêu
dùng. Tiếp cận quản lý chất lượng theo hướng: Chất lượng là tiêu chuẩn phù
hợp với khách hàng. Nhu cầu thị trường hiện nay của bánh trung thu không
nhạy cảm về giá, thông thường chỉ có 2 bậc chất lượng. Chất lượng cao đối
với thương hiệu uy tín (Kinh Đô,…) và chất lượng trung bình (Đồng Khánh,

các cơ sở nhỏ lẻ…).
Tình trạng vệ sinh an toàn thực phẩm: Bánh trung thu với đặc điểm cung lớn
hơn cầu, sau Tết vẫn còn bày bán thời gian dài. Rất dễ xảy ra tình trạng
không đảm bảo chất lượng và hạn sử dụng. Dễ bị đánh trảo, làm giả. Người
tiêu dùng có phần hoang mang khi chọn mua bánh trung thu và chủ yếu hành
vi tiêu dùng dựa theo số đông.
Thuận lợi và khó khăn: Nhà chức trách và các cơ quan chức năng khó rà soát
phạm vi lớn, còn nhiều khe hỡ. Tuy nhiên, sự thanh tra, kiểm soát của các Cơ
quan cũng tạo sự an tâm trong tâm lý tiêu dùng…
Giải pháp: Người tiêu dùng nên….. Các cơ quan chúc năng cần….
Để đảm bảo chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm là trách nhiệm của mọi cá
nhân, tổ chức trong xã hội, tránh lãng phí nguồn lực xã hội, thực hiện các
chương trình quốc gia phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.
Để đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm người tiêu dùng nên chọn mua
bánh trung thu theo những tiêu chí sau:
Thứ nhất là: Mua bánh của các thương hiệu uy tín rõ nguồn gốc
Để chọn được bánh ngon người tiêu dùng nên tìm mua sản phẩm tại các điểm bán
buôn và lẻ thuộc hệ thống quản lý trực tiếp của các thương hiệu đáng tin cậy, có


đăng ký tiêu chuẩn chất lượng với cơ quan Y tế, có chứng nhận về chất lượng an
toàn vệ sinh thực phẩm.
Thứ 2 là: Bao bì
Bao bì phải còn nguyên vẹn, lớp vỏ giấy bóng kính không bị hỏng hoặc bị xì hơi
để tránh không khí lọt vào làm giảm chất lượng bánh. Đồng thời, hình ảnh, logo
nhà sản xuất trên bao bì phải sắc nét, không bị nhòa, chú ý tới ngày sản xuất, thời
hạn sử dụng ghi trên đó.
Khách hàng không nên mua các loại bánh bao bì đã bị rách hay có những vết đốm,
vết lạ như: đốm trắng, xanh, vàng, vì đây là những dấu hiệu cho biết bánh bị mốc,
hỏng khi sử dụng sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và có thể bánh sẽ bị mốc trước hạn

dùng.
Thứ 3 là: Màu sắc, mùi vị
Bánh nướng phải có vỏ mềm, mặt bánh vàng đều, da bánh mỏng mùi thơm đặc
trưng. Nếu bánh ngon màu sắc của bánh phải là màu vàng hơi đậm và đều. Nhân
bánh phải mềm, đầy đủ các vị bùi, béo, thơm, cắt ra không nhớt, không mùi vị lạ.
Bánh dẻo, vỏ và nhân bánh phải mềm có mùi vị tự nhiên của đậu xanh và hạt sen.
Bánh có chất lượng có vỏ mềm và dẻo, hoa văn trên mặt bánh có đường nét sắc
sảo và rõ ràng. Nhân bánh mềm dẻo và có hương thơm tự nhiên.
Bánh nướng kém chất lượng thường bị mềm nhũn, có màu sắc sậm đen, nhân bị
rời ra khi cắt. Loại bánh dẻo kém chất lượng thường có màu đục hoặc mùi lạ.
Cách bảo quản và sử dụng bánh:
- Bánh mua về phải được bảo quản ở nơi sạch sẽ, được che đậy tránh bụi bẩn,
mưa nắng, côn trùng xâm nhập, bảo quản theo đúng quy định trên nhãn sản phẩm
của nhà sản xuất.
- Chỉ ăn bánh còn hạn sử dụng, không bị giập nát biến dạng, bao bì không rách
nát, không có màu sắc khác thường, không bị thiu, ẩm mốc, hư hỏng và không có
mùi khác lạ.
- Rửa tay sạch trước khi cắt, chia bánh và trước khi ăn bánh.
- Không ăn quá nhiều bánh và các thực phẩm giàu đạm, mỡ, đường trong khẩu
phần ăn để tránh rối loạn hấp thu thực phẩm.
2. Kiến Nghị


Các cơ quan nhà nước (ktra kết hợp với tình hình người dân, xử lý triệt để….)
Các Tổ chức kinh doanh (tạo sự khác biệt bằng cách đảm bảo ATVSTP, chú ý
thương hiệu, thực hiện trách nhiệm xã hội)
Người tiêu dùng (cập nhật thông tin, chủ động ktra chluong, …)
Để đảm bảo sức khỏe cho người tiêu dùng, bên cạnh việc tăng cường kiểm tra của
các cơ quan chức năng, mỗi người tiêu dùng khi mua sản phẩm cần kiểm tra kỹ
tem nhãn, bao bì, màu sắc sản phẩm; bên cạnh đó, cần nâng cao ý thức chung và

tinh thần trách nhiệm của cộng đồng trong việc phát hiện các cơ sở sản xuất, kinh
doanh có những biểu hiện vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm..


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Cổng giao tiếp điện tử tỉnh Phú Thọ - Cơ quan chủ quản: UBND tỉnh Phú Thọ
cục
an
toàn
thực
phẩm
Bộ
y
tế
việt
nam
2015
< =44868F1693E46F1465234E5C220F42AE?
_vcmsviewcontent_WAR_VCMSportlet_INSTANCE_vQy9_redirect=
%2Fatvstp2012>. Ngày truy cập [00/00/2015]
Anh sửa lại theo mẫu này giùm em nha
Tên tác giả, năm. Nguồn. <Trang web>. Ngày truy cập.
/> /> />ItemID=25606
/>%C3%A0n_th%E1%BB%B1c_ph%E1%BA%A9m
/> />


×