Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ HÌNH THÁI CỦA NAM HỌC SINH LỚP 12 TRƯỜNG PHỔ THÔNG VÙNG CAO VIỆT BẮC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.55 KB, 55 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NÔNG LA DUY

NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ HÌNH THÁI CỦA
NAM HỌC SINH LỚP 12
TRƯỜNG PHỔ THÔNG VÙNG CAO VIỆT BẮC


Thái Nguyên, năm 2012


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NÔNG LA DUY

NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ HÌNH THÁI CỦA NAM
HỌC SINH LỚP 12
TRƯỜNG PHỔ THÔNG VÙNG CAO VIỆT BẮC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH: GIÁO DỤC THỂ CHẤT – GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG

Người hướng dẫn khoa học: Th.s Trương Tấn Hùng

i


Thái Nguyên, năm 2012



ii


MỤC LỤC
Trang
...........................................................................................................................i
NÔNG LA DUY................................................................................................i
1.1.1. Quan điểm của nhà nước về TDTT.............................................................7

iii


DANH MỤC VIẾT TẮT

TDTT

: Thể dục thể thao

GDTC : Giáo dục thể chất
HLV

: Huấn luyện viên

VĐV

: Vận động viên

iv



ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong cuộc sống, sức khỏe đóng một vai trò rất quan trọng. Sức khỏe được
xem như một bộ phận cấu thành của nền văn hóa thể chất. Đó là nguồn tài sản của
con người và của mỗi quốc gia. Sức khỏe mang đến cho con người sức sống mãnh
liệt, thể lực dồi dào, luôn vui vẻ, say mê trong công việc và đưa năng suất lao động
ngày một tăng cao.
Năm 1946, Bác Hồ đã ra lời kêu gọi toàn dân tập thể dục: “Giữ gìn dân chủ,
xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành
công. Mỗi một người dân yếu ớt, tức làm cho cả nước yếu ớt một phần, mỗi một
người dân khỏe mạnh, tức góp phần cho cả nước mạnh khỏe…”. Xây dựng phát
triển con người Việt Nam là quốc sách hàng đầu để đất nước có lớp người trẻ:
“phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong
sáng về đạo đức”. Đó là mục đích của toàn Đảng, toàn dân ta. Vì vậy, Giáo dục thể
chất là một trong những nhân tố quan trọng trong hệ thống giáo dục đào tạo con
người mới xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ XI đã xác định mục tiêu
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Do đó, cần phải chuẩn bị
tốt thể chất con người để thực thi mục tiêu chiến lược này.
Độ tuổi từ 6 đến 20 là lớp người sẽ làm chủ xã hội trong vòng 10 đến 20 năm
tới. Nên vấn đề cấp thiết trước mắt là điều tra, khảo sát, đánh giá sự phát triển thể
chất ở độ tuổi trên, để có định hướng và biện pháp giáo dục phát triển thể chất,
chuẩn bị nguồn nhân lực cho tương lai.
Trong những năm gần đây, cùng với nhịp điệu phát triển chung của toàn
quốc, nền kinh tế có sự phát triển mạnh mẽ, đời sống xã hội ngày được càng nâng
cao, sự quan tâm của gia đình, nhà trường và xã hội đối với thế hệ trẻ ngày càng
nhiều, không thể không có những tác động tới sự phát triển thể chất của thanh thiếu
niên, đặc biệt là đối với học sinh trung học phổ thông. Sự phát triển thể chất của các
em là sự chuyển tiếp và nền tảng cho sự phát triển thể chất nguồn nhân lực cho đất
nước. Như vậy tính cấp thiết phải nghiên cứu của đối tượng được đặt lên hàng đầu.


5


Từ năm 2001 Viện Khoa Học Thể Dục Thể Thao đã tiến hành các đợt điều
tra thể chất theo hai độ tuổi: từ 6 đến 20 tuổi và từ 21 đến 60 tuổi. Từ đó bước đầu
đưa ra những đánh giá chung cho cả nước. Tuy nhiên, việc điều tra thể chất của học
sinh cụ thể tại một trường, một địa phương chưa được cụ thể, để đưa ra những tiêu
chuẩn, những biện pháp phù hợp với đặc điểm của từng trường, từng vùng, từng
khu vực. Đặc biệt GDTC trong trường học nhằm góp phần thực hiện mục tiêu của
sự nghiệp Giáo dục – Đào tạo: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài”. Giáo dục thế hệ trẻ một cách hoàn thiện để thực hiện tốt cuộc cách mạng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính vì vậy việc chăm sóc sức khỏe ban
đầu cho thế hệ trẻ là hết sức cần thiết. Trong những năm qua có khá nhiều công
trình nghiên cứu về hình thái, thể lực của học sinh phổ thông các cấp ở từng khu
vực và một số tỉnh, thành phố. Nhưng riêng trường Phổ Thông Vùng Cao Việt Bắc
chưa có công trình nào nghiên cứu.
Xuất phát từ cơ sở lí luận và thực tiễn như trên, chúng tôi mạnh dạn thực
hiện đề tài: “nghiên cứu đánh giá hình thái của nam học sinh lớp 12 trường Phổ
thông Vùng Cao Việt Bắc”.

6


Chương 1

TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ của nền TDTT nước ta
1.1.1. Quan điểm của nhà nước về TDTT

Điều 41 hiến pháp 1992: “Nhà nước và xã hội phát triển nền TDTT dân tộc,
khoa học và nhân dân. Nhà nước quản lý sự nghiệp phát triển TDTT quy định chế
độ giáo dục thể chất bắt buộc trong trường học, khuyến khích và giúp đỡ phát triển
các hình thức TDTT tự nguyện của nhân dân, tạo điều kiện cần thiết để không
ngừng mở rộng các hoạt động TDTT quần chúng, chú trọng các hoạt động TDTT
chuyên nghiệp bồi dưỡng các tài năng thể thao”.
Văn kiện Đại hội Đảng khóa VII khẳng định: “Công tác TDTT cần coi trọng
chất lượng giáo dục thể chất trong các trường học, tổ chức hướng dẫn và vận động
đông đảo nhân dân tham gia rèn luyện hàng ngày, nâng cao chất lượng các cơ sở
đào tạo, bồi dương TDTT, nâng cao thành tích của một số môn thể thao . Cải tiến
tổ chức quản lý các hoạt động TDTT theo hướng kết hợp chặt chẽ các tổ chức nhà
nước và các tổ chức xã hội. Tạo các điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất và khoa học
kỹ thuật để phát triển nhanh môn thể thao truyền thống và có triển vọng”.
Nghị quyết Trung Ương VIII, khóa III của Đảng: “Bắt đầu đưa việc dạy thể
dục và một số môn thể thao cần thiết vào chương trình học tập của một số trường
phổ thông, chuyên nghiệp và đại học. Đó là giáo dục thể chất bắt buộc đối với học
sinh, sinh viên và phát triển một số môn thể thao trường học”.
Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX chỉ rõ: “Tiếp tục nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện đức, trí, thể, mĩ”. Chính vì điều đó, phải có cán bộ giáo viên thể
thao chuyên trách, có chất lượng cung ứng đầy đủ cho các trường học. Chỉ thị số 17
CT/TW vạch rõ rằng: “ Đẩy mạnh hoạt động TDTT trường học, tiến tới bảo đảm
mỗi trường học đều có giáo viên thể thao chuyên trách và lớp thể dục theo đúng
tiêu chuẩn, tạo điều kiện nâng cao GDTC, xem đây là một tiêu chí công nhận
trường chuẩn quốc gia”.

7


Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định phát triển sự nghiệp TDTT là một phần
quan trọng không thể thiếu được trong chính sách phát triển kinh tế, xã hội của

Đảng và Nhà nước. Bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, trước hết phải phục
vụ nâng cao sức khỏe, thể lực, giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh.
TDTT làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần của nhân nhân, nâng cao năng
suất lao động và củng cố quốc phòng.
Đối với thể thao quần chúng tại chỉ thị số 106 – CT/TW năm 1958 của Ban bí
thư trung ương Đảng chỉ rõ: “Vận động quần chúng tham gia càng nhiều vào phong
trào TDTT, nhất là trong các trường học, nhà máy, cơ quan”.
Trong chỉ thị số 36 CT/TW của ban bí thư đã chỉ ra việc cần phải làm: “Nâng
cấp, xây dựng mới và hiện đại hóa một số cơ sở vật chất, kỹ thuật TDTT”. Chỉ thị số
17 – CT/TW của Ban bí thư cũng đã tiếp tục nhấn mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất,
kỹ thuật ngày càng hiện đại nhanh chóng tiến kịp trình độ trong nước, trong khu vực,
rút ngắn khoảng cách với các nước châu Á. Cho nên, Đại hội Đảng lần thứ V và Đại
hội Đảng lần thứ VIII đã đề cập tới phương hướng nghiên cứu, ứng dụng khoa học
công nghệ vào lĩnh vực TDTT.
GDTC và thể thao trường học là bộ phận cơ bản của TDTT quần chúng, hàng
triệu học sinh, sinh viên chiếm tỷ lệ quan trọng của dân số nước ta. Đảng Cộng sản
Việt Nam thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, chăm lo giáo dục, đào tạo thế hệ tương
lai phát triển toàn diện, trong đó sức khỏe là tiền đề. GDTC và thể thao trường học
là một mặt trong chiến lược giáo dục và đào tạo con người ở nước ta.
Như vậy, ngay từ cấp cơ sở - các trường, các khoa, các bộ môn, đặc biệt là
môn GDTC… phải không ngừng tổ chức nghiên cứu, tổ chức thực nghiệm để tìm
những giải pháp có hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ giáo
viên TDTT ngay tại đơn vị mình.
1.1.2. Mục tiêu phát triển của nền TDTT nước ta
TDTT nhằm nâng cao sức khỏe nhân dân, góp phần nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tăng tuổi thọ
của người Việt Nam theo tinh thần vì sự nghiệp dân cường, nước thịnh, hội nhập và
phát triển. Để thực hiện tốt điều này cần phải:

8



Tiếp tục mở rộng và đa dạng hóa các hoạt động TDTT quần chúng, TDTT
giải trí đáp ứng nhu cầu của xã hội và tạo thói quen hoạt động vận động hợp lý
suốt đời. Đẩy mạnh công tác GDTC và thể thao trường học, đảm bảo yêu cầu
phát triển con người toàn diện, làm nền tảng phát triển thể thao thành tích cao và
góp phần xây dựng lối sống lành mạnh trong tầng lớp thanh – thiếu niên. Tích
cực phát triển TDTT trong lực lượng vũ trang, góp phần bảo đảm an ninh quốc
phòng toàn dân.
Đổi mới và hoàn thiện hệ thống tuyển chọn, đào tạo tài năng thể thao, gắn
đào tạo các tuyến, các lớp kế cận, thống nhất quản lý phát triển thể thao thành
tích cao, thể thao chuyên nghiệp theo hướng tiên tiến, bền vững phù hợp với đặc
điểm thể chất và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của nước ta và đáp ứng nhu
cầu hưởng thu văn hóa tinh thần của nhân dân; nâng cao thành tích thi đấu, giữ
vững vị trí là một trong ba quốc gia có thành tích thể thao đứng đầu Đông Nam
Á, tiến tới thu hẹp khoảng cách trình độ đối với thể thao Châu Á và thế giới.
Tăng cường hội nhập quốc tế, tích cực thực hiện chủ trương, đường lối ngoại
giao của Đảng và Nhà nước.
• Các chỉ tiêu phát triển
- TDTT quần chúng:
+ Số người tham gia TDTT thường xuyên đến năm 2015 đạt tỷ lệ 28% và
năm 2020 đạt 33% số dân.
+ Số gia đình tập luyện TDTT đến năm 2015 đạt 22% và năm 2020 đạt 25%
số hộ gia đình trong toàn quốc.
- TDTT trường học:
+ Số trường phổ thông thực hiện đầy đủ chương trình GDTC nội khóa đến
năm 2015 đạt 100%.
+ Số trường phổ thông có câu lạc bộ TDTT, có hệ thống cơ sở vật chất đủ
phục vụ cho hoạt động TDTT, có đủ giáo viên và hướng dẫn viên TDTT, thực hiện
tốt hoạt động thể thao ngoại khóa đến năm 2015 đạt 45% và đến năm 2020 đạt từ 55

– 60% tổng số trường.

9


+ Số học sinh được đánh giá và phân loại thể lực theo tiêu chuẩn rèn luyện
thân thể đến năm 2015 đạt 75% và đến năm 2020 đạt 85 – 90% tổng số học sinh
phổ thông các cấp.
- TDTT trong lực lượng vũ trang: số cán bộ chiến sĩ kiểm tra tiêu chuẩn rèn
luyện thể lực theo từng quân, binh chủng đến năm 2015 đạt 82,5% và đến năm 2020
đạt 85,5%.
- Thể thao thành tích cao:
+ Giữ vững trong tốp 3 của khu vực Đông Nam Á (Sea Games).
+ Năm 2012: phấn đấu có khoảng 30 VĐV vượt qua các cuộc thi vòng loại
và có huy chương tại Đại hội thể thao Olympic lần thứ 30.
+ Năm 2014: Phấn đấu đạt vị trí 15 – 13 tại ASIAD 17.
+ Năm 2016: Phấn đấu có khoảng 40 VĐV vượt qua các cuộc thi vòng loại
và có huy chương vàng tại Đại hội thể thao Olympic lần thứ 31.
+ Năm 2019: Phấn đấu đạt vị trí 14 – 12 tại ASIAD 18.
+ Năm 2020: Phấn đấu có khoảng 45 VĐV vượt qua các cuộc thi vòng loại,
có huy chương tại Đại hội thể thao Olympic lần thứ 32.
+ Tham gia đầy đủ và phấn đấu có thành tích tốt và thứ hạng ngày càng cao
hơn ở một số Đại hội thể thao quốc tế như: Đại hội thể thao người khuyết tật
(Paralympic), Đại hội thể thao thế giới (World Game), Đại hội thể thao bãi biển
Châu Á (Asian Beach Game), Đại hội võ thuật trong nhà Châu Á (Asian Martialart
Indoor Game), Đại hội thể thao trẻ (Youth Game)…
1.1.3. Nhiệm vụ chung của nền TDTT nước ta
• Nâng cao thể chất và sức khỏe của nhân dân
Thúc đẩy thể hình phát triển lành mạnh: Sự phát triển của cơ thể về thể hình
chủ yếu dựa vào sự phát triển của từng tế bào và các chất gian bào. Tập luyện

TDTT có thể đẩy mạnh, nâng cao hơn quá trình này và duy trì được lâu hơn, đồng
thời làm chậm quá trình suy giảm khi tuổi cao.
Phát triển toàn diện các năng lực thể chất: Năng lực thể chất bao giờ cũng
gắn chặt với chức năng cơ thể. Khi tập TDTT thì cũng đồng thời nâng cao được khả

10


năng hoạt động lâu dài của các hệ thống tim mạch, hô hấp, cơ bắp… Do đó, phát
triển toàn diện các năng lực thể chất cũng là một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự cải
tiến về hình thái, chức năng và ngược lại.
Nâng cao năng lực thể chất của cơ thể: Tập luyện lâu dài, có hệ thống, trong
điều kiện đa dạng, thay đổi về thời tiết, khí hậu, địa thế… sẽ có lợi cho nâng cao
năng lực thích ứng trước các điều kiện tự nhiên khác nhau. Mặt khác cũng tăng
cường khí huyết lưu thông, và khả năng tạo máu, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất,
do đó nâng cao sức đề kháng.
• Nâng cao trình độ thể thao của đất nước, từng bước vươn lên những đỉnh cao
quốc tế, trước hết là khu vực.
Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của bất kỳ nền TDTT nào,
phản ánh nhu cầu của nhân dân, Nhà nước và bản thân phong trào TDTT. Trình độ
thể thao từng nước thể hiện qua các cuộc thi đấu quốc tế không chỉ phản ánh trình
độ TDTT mà còn phản ánh sự phát triển về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục,
khoa học kỹ thuật và bộ mặt tinh thần của một dân tộc. Ngày nay, nhiều quốc gia
dùng thể thao không chỉ để giải trí, biểu diễn, thúc đẩy phong trào tập luyện rộng
rãi, chấn hưng tinh thần dân tộc mà còn phục vụ cho công tác đối ngoại, mở rộng
quan hệ và tăng cường sự hiểu biết giữa các quốc gia với nhau, nâng cao uy tín của
đất nước trên thế giới.
• Góp phần làm phong phú, lành mạnh đời sống văn hóa và giáo dục con người mới.
Thực tế ở nước ta cũng như nhiều nước khác cho thấy: giải trí, tập luyện,
biểu diễn, thi đấu… về TDTT là một nhu cầu ngày càng nhiều, mạnh, không thể

thiếu hoặc thay thế được. Nếu làm tốt, nó có thể góp phần đáng kể vào việc xây
dựng đời sống lành mạnh, vui tươi và văn minh trong xã hội. Còn ngược lại, ảnh
hưởng và hậu quả cũng sẽ rất phức tạp, dễ lan rộng. Trong xã hội hiện đại, thể thao
và văn nghệ với những đặc tính riêng của nó đã có sức thu hút và ảnh hưởng rộng
lớn với thanh thiếu niên, là một nhu cầu không thiếu được. Đó cũng là công cụ dễ
chuyển tải những giá trị tư tưởng, tinh thần của một chế độ đến với họ.
TDTT không chỉ ảnh hưởng đến cơ thể mà còn có tác dụng nhiều mặt khác.
Trong hoạt động này, mối quan hệ, hành vi giữa các cá nhân và tập thể (người tập,

11


VĐV, HLV, người xem, trọng tài…) rất đa dạng, phức tạp, và biến hóa sinh động.
Nếu tổ chức tốt, TDTT không những cần mà còn có thể giáo dục tốt tư tưởng, đạo
đức và ý chí, lòng yêu nước, yêu lao động, bảo vệ của công, tinh thần tập thể, tính
kỷ luật, công tâm, trung thực, khiêm tốn, lịch sự, dũng cảm, quả quyết, tự tin, nghị
lực, biết kiềm chế bản thân…
Ba nhiệm vụ trên có liên quan mật thiết với nhau, cần kết hợp chặt chẽ trong
thực hiện. Chúng cần được quán triệt phù hợp với từng bộ phận trong TDTT: dạy học
TDTT, huấn luyện thể thao, thi đấu thể thao, rèn luyện thân thể hàng ngày… giữa
chúng có những nét chung và khác biệt. Nhiệm vụ, ưu thế, tính chất, mức độ yêu cầu
và cách thức thực hiện chúng cũng có nét khác nhau.
Rèn luyện thân thể hàng ngày là một quá trình, hình thức hoạt động TDTT nói
chung trong quần chúng rộng rãi. Nhiệm vụ chính là tăng cường sức khỏe, thể chất.
Huấn luyện thể thao là một quá trình giáo dục thể chất đặc biệt nhằm không
ngừng nâng cao trình độ các tố chất vận động, kỹ - chiến thuật chuyên môn, đạo
đức ý chí, hiểu biết để đạt được những thành tích cao trong môn thể thao chuyên
nghiệp chọn nào đó. Còn thi đấu thể thao lại là một biện pháp quan trọng để kiểm
tra, đánh giá, thúc đẩy, nâng cao hiệu quả của giáo dục thể chất, rèn luyện thân thể,
huấn luyện thể thao…

Do đó, trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ trên, từng bộ phận, từng người
cần nắm rõ chức năng chuyên môn, cụ thể của mình, không thể lẫn lộn, thay thế
hoặc bỏ qua. Nếu từng bộ phận nhỏ thực hiện tốt, đúng theo chức năng của mình sẽ
góp phần thực hiện được các nhiệm vụ lớn chung trên về TDTT trong cả nước.
1.2. Thể chất và phát triển thể chất
Thể chất chỉ chất lượng thân thể con người. Đó là những đặc trưng tương đối ổn
định về hình thái và chức năng cơ thể được hình thành và phát triển do bẩm sinh di
truyền và điều kiện sống (bao gồm cả giáo dục và rèn luyện).
TDTT gắn bó chặt chẽ với quá trình phát triển thể chất. Đó là quá trình hình
thành, biến đổi tuần tự theo quy luật trong cuộc đời từng người (tương đối lâu dài) về
hình thái, chức năng và những tố chất thể lực và năng lực thể chất.

12


Thể chất gồm thể hình, khả năng chức năng và khả năng thích ứng. Thể
hình nói về hình thái, cấu trúc của cơ thể. Còn năng lực thể chất lại liên quan đến
khả năng chức năng của hệ thống cơ quan trong cơ thể, thể hiện chính qua hoạt
động cơ bắp… Nó bao gồm các tố chất thể lực (sức mạnh, sức nhanh, sức bền, độ
dẻo, sự khéo léo) và những năng lực vận động cơ bản của con người (đi, chạy,
nhảy, ném, leo trèo, mang vác…). Khả năng thích ứng chỉ trình độ (năng lực)
thích ứng chủ yếu về chức năng của cơ thể con người với hoàn cảnh bên ngoài,
bao gồm cả sức đề khánh với bệnh tật. Còn trạng thái thể chất chủ yếu nói về tình
trạng cơ thể qua một số dấu hiệu về thể trạng, được xác định bằng cách đo tương
đối đơn giản về chiều cao, cân nặng, vòng ngực, dung tích sống, lực tay, chân,
lưng… trong một thời điểm nào đó.
Đặc trưng của sự phát triển thể chất phụ thuộc nhiều vào các nguyên nhân
tạo thành (điều kiện bên ngoài và bên trong). Sự biến đổi của chúng theo một số
quy luật về di truyền, sự phát triển theo lứa tuổi và giới tính, sự thống nhất hữu cơ
giữa cơ thể và môi trường, giữa hình thức cấu tạo và chức năng của cơ thể. Từng

người trong xã hội không thể tùy ý thay bỏ hoặc làm ngược lại những quy luật
khách quan này. Chỉ có thể đạt được hiệu quả phát triển thể chất tốt nếu hiểu và biết
tuân theo, vận dụng và tác động theo những phương hướng mục đích nhất định,
nhằm đáp ứng những nhu cầu và lợi ích của của từng cá nhân và xã hội. Xét từ ý
nghĩa ấy thì TDTT là một nhân tố xã hội chuyên môn nhằm tác động có chủ đích và
hợp lý đến quá trình phát triển thể chất của con người, chủ yếu là về các tố chất vận
động và những kĩ năng vận động quan trọng trong đời sống.
Sự hoàn thiện thể chất lại là mức độ tối ưu (tương đối với một giai đoạn lịch
sử nhất định) của trình độ toàn diện và phát triển thể chất cân đối. Đáp ứng đầy đủ
những yêu cầu của lao động và những hoạt động cần thiết trong đời sống, phát huy
cao độ, đầy đủ những năng khiếu bẩm sinh về thể chất của từng người phù hợp với
những quy luật phát triển toàn diện nhân cách và giữ gìn, nâng cao sức khỏe để hoạt
động tích cực, bền lâu và hiệu quả.
1.3. Mối quan hệ giữa hình thái và chức năng của cơ thể
Sự hoàn thiện về thể hình và tư thể thân thể làm cho ngoại hình thêm đẹp cũng
phản ánh mức hoàn thiện chức năng. Ngày nay người ta còn coi đó cũng thể hiện bộ

13


mặt tinh thần, văn minh của dân tộc. Mặt khác, một cơ thể cường tráng lại là cơ sở
vật chất của năng lực chức năng.
Năng lực thể chất bao giờ cũng gắn chặt với chức năng của cơ thể. Do đó phát
triển toàn diện các chức năng thể chất cũng là một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự cải
tiến về hình thái và ngược lại. Đồng thời năng lực thể chất còn là điều kiện tất yếu
đầu tiên cho sự tiếp thu nâng cao trình độ thể thao sau này.
Thân thể và tinh thần, trí tuệ con người không tách rời nhau. Thể chất cường
tráng, tinh lực sung mãn, sức sống dồi dào có ảnh hưởng to lớn đến trạng thái tinh
thần của con người và ngược lại. Kinh nghiệm và y học cổ kim, đông tây đã nói nhiều
tới ảnh hưởng của những vết thương tinh thần đến cơ quan trong cơ thể. Đồng thời

nhiều đời nay người ta đã biết dùng những hình thức tập luyện TDTT đa dạng để điều
hòa trạng thái tâm lý, phòng trị một số bệnh tật. Do đó, khi nói đến tác động của
TDTT đối với sức khỏe Bác Hồ luôn gắn “khí huyết lưu thông” và “tinh thần đầy đủ”
với nhau.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất
- Yếu tố bên trong: Di truyền đóng một vai trò quan trọng trong việc hình
thành và phát triển thể chất. Các yếu tố như: Đặc điểm dân tộc, châu lục…
Ví dụ: VĐV châu Phi có tỷ lệ độ dài tay, chân, chiều cao đứng lớn hơn các
VĐV da trắng.
- Điều kiện môi trường bên ngoài:
+ Chế độ sống: Chế độ kinh tế - xã hội, mức phát triển kinh tế, điều kiện
sống, chế độ dinh dưỡng.
+ Khí hậu, địa lý, sông hồ, rừng núi.
+ Chế độ tập luyện, lao động, nghỉ ngơi, bài tập thể chất, hoạt động TDTT
thường xuyên có ảnh hưởng tới sự phát triển thể chất.
- Sự phát triển của cơ thể qua các thời kỳ:
+ Nhi đồng: Ở lứa tuổi này thể chất chưa phát triển, các hệ cơ quan còn kém
nên trong quá trình học tập còn diễn ra nhiều sai xót làm ảnh hưởng đến thể chất ở
những lứa tuổi tiếp theo.

14


+ Thiếu niên: Ở lứa tuổi này đang trong giai đoạn phát triển dậy thì, do sự
phát triển đột biến của một số tuyến nội tiết nên một số chức năng của các hệ thống
cơ quan và tâm lý đều có sự khác biệt rõ dần. Ở lứa tuổi này cơ thể các em phát
triển chiều cao nhiều hơn.
+ Thanh niên: Lứa tuổi này cơ thể phát triển tương đối hoàn chỉnh, các bộ
phận cơ thể vẫn tiếp tục phát triển nhưng tốc độ chậm dần. So với lứa tuổi trước thì
cơ thể phát triển cân đối hơn, chiều cao vẫn tiếp tục phát triển.

1.5. Đặc điểm tâm, sinh lý lứa tuổi 16 – 18
1.5.1. Đặc điểm tâm lý
Tuổi này tâm lý rất phong phú, đa dạng và biểu hiện của nó cũng rất sinh
động, muôn hình muôn vẻ. Đây là thời kì năng lực trí tuệ, nhân sinh quan, thế giới
quan và toàn bộ nhân cách của con người đang biến đổi về chất.
- Tư duy: Tư duy trừu tượng phát triển mạnh và chiếm ưu thế trong mọi hoạt
động, khả năng tư duy, lý luận tư duy độc lập sáng tạo rất phát triển. Tư duy logic
chặt chẽ có căn cứ và nhất quán, đồng thời phát triển tính phê phán của tư duy. Khả
năng vận dụng các thao tác tư duy khá nhuần nhuyễn và đạt kết quả cao. Đặc biệt
khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa được nâng lên.
- Trí tuệ: Tính chủ định, tính chủ động, tính tích cực, tính tự giác, được thể hiện
rất rõ rệt ở tất cả các quá trình nhận thức. Có thể nói, năng lực tư duy, năng lực tưởng
tượng và các khả năng khác được hoàn thiện nhanh chóng và chất lượng cao.
- Tưởng tượng: Tưởng tượng ngày càng phù hợp và gần với thực tế. Tính
sáng tạo phát triển mạnh, tưởng tượng phong phú về nội dung và lĩnh vực đôi khi
“hão huyền” thiếu thực tế.
- Thế giới quan: Thế giới quan khoa học, thể hiện tính hệ thống, tính toàn
vẹn, tính nhất quán và khái quát ở mức độ cao. Đa số thế giới quan có tính hiệu lực
cao, nó biến thành niềm tin, thành khát vọng, thành những hành động cụ thể, có lối
xử sự đúng, có lẽ sống cao thượng và đẹp đẽ.
- Ý thức: Ý thức cũng diễn ra rất phức tạp, bản thân không chỉ nhận thức
về cái tôi của mình trong hiện tại mà còn nhận thức về vị trí của mình trong xã
hội và tương lai.

15


- Đời sống tình cảm vô cùng phong phú, đa dạng, phức tạp, sâu sắc, mạnh
mẽ và bền vững.
- Nhân cách: Hứng thú, ước mơ, lý tưởng, những phẩm chất ý trí, tính cách

phát triển ở mức độ cao và đạt tới sự hoàn thiện.
1.5.2. Đặc điểm sinh lý
- Hệ thần kinh tiếp tục được phát triển và đi đến hoàn thiện, kỹ năng tư duy,
phân tích, tổng hợp và trừu tượng được phát triển tạo điều kiện cho việc hình thành
nhanh chóng phản xạ có điều kiện. Do hoạt động mạnh của tuyến giáp, tuyến sinh
dục, tuyến yên làm cho tính hưng phấn của hệ thần kinh chiếm ưu thế, giữa hưng
phấn và ức chế không cân bằng làm ảnh hưởng đến hoạt động thể lực. Do vậy trong
quá trình huấn luyện, huấn luyện viên cần sử dụng bài tập thích hợp và thường
xuyên quan sát phản ứng của cơ thể người tập để có biện pháp giải quyết kịp thời.
- Hệ vận động (hệ cơ xương):
+ Hệ xương: Bắt đầu giảm tốc độ phát triển. Mỗi năm nữ cao thêm được
0,5 – 1cm, nam 1- 3cm, cột sống đã ổn định hình dáng. Vì vậy có thể sử dụng một
cách rộng rãi các bài tập với khối lượng tăng dần để giúp người tập thích nghi một
cách từ từ.
+ Hệ cơ: Hệ cơ phát triển với mức độ cao, sức mạnh cơ bắp tăng, sức làm
việc của chân tay cũng tăng lên. Vì vậy cơ thể khá cân đối, cường tráng, các em có
khả năng tham giam nhiều công việc chân tay tương đối nặng của người lớn.
- Hệ tuần hoàn đã phát triển và hoàn thiện, buồng tim phát triển tương đối
hoàn chỉnh, mạch đập của nam 70 – 80 lần/phút, của nữ 75 – 85 lần/phút. Phản ứng
của hệ tuần hoàn trong vận động tương đối rõ rệt. Nhưng sau vận động mạch, huyết
áp hồi phục tương đối nhanh chóng. Vì vậy ở lứa tuổi này có thể tập những bài tập
dai sức, những bài tập có cường độ và khối lượng tương đối lớn.
- Hệ hô hấp: Đã phát triển và tương đối hoàn thiện. Vòng ngực trung bình của
nam 67 – 72cm, nữ 69 – 74cm. Dung tích phổi tăng lên nhanh chóng, tần số hô hấp gần
giống với người lớn. Tuy nhiên các cơ hô hấp vẫn còn yếu nên sức co giãn của lồng
ngực vẫn còn ít, chủ yếu là co giãn của cơ hoành. Vì vậy trong tập luyện cần thở sâu,
tập trung chú ý thở bằng ngực và các bài tập bơi, chạy cự ly trung bình, chạy việt dã có
tác dụng rất tốt đến phát triển hệ hô hấp.
- Hệ bài tiết: Các tuyến nội tiết tăng lên và dần đi vào ổn định.


16


- Hệ sinh dục: Đây là thời kì trưởng thành về giới tính. Đa số đã vượt qua
thời kì phát dục, những khủng hoảng thời kỳ dậy thì chấm dứt để chuyển sang thời
kỳ ổn định hơn, cân bằng hơn.
1.6. Các chỉ số về hình thái
1.6.1. Các chỉ số về mức độ dài cơ thể
- Chiều cao: Chiều cao là một trong những chỉ số cơ bản để đánh giá tầm vóc
và mức độ phát triển thể chất của con người.
+ Chiều cao đứng: Là khoảng cách từ bàn chân đến đỉnh đầu.
+ Chiều cao ngồi: Là khoảng cách từ mặt ghế ngồi tới đỉnh đầu.
- Độ dài các chi:
+ Độ dài tay: Là khoảng cách từ điểm mỏn cùng vai đến đầu mút ngón tay
thứ ba (ngón giữa).
+ Độ dài chân: Độ dài chân thường được xác định là độ dài:
Chân A (là khoảng cách từ mặt sàn tới gai chậu trước – trên).
Chân B (là khoảng cách từ mặt sàn tới mấu chuyển lớn).
1.6.2. Cân nặng
Cũng như chiều cao, cân nặng là chỉ tiêu để đánh giá mức độ phát triển thể
chất của cơ thể. Cân nặng của một người gồm hai phần:
- Phần cố định: Chiếm 1/3 tổng số cân nặng bao gồm: Xương, da, các tạng về
thần kinh.
- Phần thay đổi chiếm 2/3 tổng số cân nặng bao gồm: ¼ là nước và mỡ, ¾ là
khối lượng cơ. Vì vậy tăng cân là tăng phần thay đổi của cơ thể.
1.6.3. Chu vi các vòng
- Vòng ngực: Là chỉ số đánh giá mức độ phát triển thể chất và năng lực hoạt động
thể lực của con người. Chu vi vòng ngực thường được đo ở 3 trạng thái khác nhau:
+ Khi hít thở bình thường: Đo chu vi lồng ngực bình thường.
+ Khi hít vào gắng sức tối đa: Đo chu vi lồng ngực hít vào.

+ Khi thở ra gắng sức: Đo chu vi lồng ngực thở ra.
+ Chu vi vòng ngực trung bình: Là tổng của ½ chu vi vòng ngực hít vào tối
đa với ½ chu vi vòng ngực thở ra tối đa.
Do có sự khác nhau giữa nam và nữ, ở nam đo ở hai đầu núm vú, qua đầu và
đỉnh xương ức, ở nữ đo qua ngấn trên tuyến vú. Khi đo vòng ngực thước phải nằm
trên mặt phẳng nằm song song với mặt đất, phải nới thước hoặc thả thước khi đối
tượng hít vào, thở ra gắng sức để có được số đo tương đối chính xác.
- Vòng bụng: Thường được đo qua rốn hoặc ở vị trí thấp hơn một chút.
- Vòng mông: Được đo qua chỗ phình to nhất của mông.
- Vòng đùi: Đo qua ngấn mông, trong tư thế đúng trên hai chân.

17


- Vòng cánh tay co: Tay được đo đưa thẳng về trước, ngang vai, bàn tay nắm
chặt, gập cẳng tay vuông góc và đo chu vi chỗ phình to nhất trên cánh tay.
- Vòng cánh tay thả lỏng: Điểm đo cũng như đo trong đo vòng cánh tay co
nhưng tay buông xuôi và thả lỏng hoàn toàn.
1.7. Vài nét về trường phổ thông Vùng Cao Việt Bắc
Trường Phổ thông Vùng Cao Việt Bắc là trường Dân Tộc Nội Trú Trung
ương. Trường được thành lập vào đầu năm 1957 ( khi đó mang tên là Trường Thiếu
Nhi Rẻo Cao Khu tự trị Việt Bắc). Ngày 12/3/1977 với quyết định số 134/QĐ
Trường được đổi tên thành Trường Phổ thông Vùng cao Việt bắc cho đến ngày nay.
Trong những năm đầu thành lập mục đích của trường là nhằm đào tạo con
em các dân tộc thiểu số ít người và con em của những cán bộ có công với cách
mạng từ hồi hoạt động bí mật, mục tiêu là học hết chương trình văn hóa cấp I sau đó
sẽ đưa về bổ sung cán bộ dân tộc ít người cho các ngành ở địa phương trong Khu tự
trị Việt Bắc. Cùng với sự phát triển của đất nước mục tiêu đào tạo của nhà trường
ngày càng mở rộng và phát triển đa dạng. Đến nay trường giảng dạy các hệ: Trung
học Phổ thông và Dự bị Đại học Dân tộc; Năm 2004 trước yêu cầu về cán bộ có

trình độ văn hóa cao cho đồng bào các dân tộc thiểu số đặc biệt ít người ( Lự,
Mảng, Sila, Pupéo...) thuộc các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Hà Giang, nhà
trường được nhận thêm nhiệm vụ dạy hệ Trung học cơ sở (lớp 9). Như vậy Trường
Phổ thông Vùng cao Việt Bắc là trường Dân tộc nội trú duy nhất của cả nước có 3
hệ đào tạo với quy mô trên 1800 em/ năm thuộc 21 tỉnh với 29 dân tộc trên tổng số
53 dân tộc thiểu số cả nước.
Hiện nay trường có 184 cán bộ, giáo viên và công nhân viên đang công tác và
gần 1.700 học sinh của trên 20 dân tộc đang theo học. Trong đó có: 01 Nhà giáo Nhân
dân (Nguyễn Văn Đào ), 01 Nhà giáo ưu tú ( Đinh Thị Kim Phương), 90 cán bộ, giáo
viên được tặng thưởng Huy chương (Kỷ niệm chương) vì sự nghiệp giáo dục.
Hơn 50 năm qua, trường đã giáo dục, đào tạo trên 13.800 học sinh là con em
của 32 dân tộc thiểu số thuộc 21 tỉnh từ Thừa Thiên Huế trở ra. Trên 8600 học sinh
đã vào học Đại học, Cao đẳng (có 280 em học ở nước ngoài), đa số còn lại vào học

18


Trung học chuyên nghiệp hoặc dạy nghề, một số ít trở về làm việc tại địa phương và
bổ sung vào đội ngũ cán bộ cốt cán của thôn bản. Trong số các học sinh đã ra
trường nhiều người trở thành lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước ở Trung ương
và địa phương, bác sĩ, kỹ sư, nhà giáo, nhà báo, nhà khoa học... góp phần xây dựng
miền núi giàu mạnh.
Trường vinh dự được Bác Hồ về thăm 3 lần và được đón nhiều đồng chí lãnh
đạo Đảng, Nhà nước như: Phạm Văn Đồng, Nông Đức Mạnh, Trần Đức Lương,
Nguyễn Thị Bình, Võ Nguyên Giáp, Đàm Quang Trung... Được Chủ tịch nước tặng
3 Huân chương Lao động hạng nhất, nhì, ba, và Huân chương Độc lập hạng ba.
Trường đã đạt nhiều thành tích cao trong sự nghiệp giáo dục – đào tạo và các
phong trào văn hóa xã hội, thể dục thể thao… Cụ thể như: Cờ thi đua của Bộ Giáo
Dục và Đào Tạo tặng đơn vị có thành tích xuất sắc năm học 1995-1996; Cờ thi đua
của Bộ Bộ Giáo Dục và Đào Tạo tặng đơn vị xuất sắc trong công tác giáo dục

phòng chống AIDS, Ma túy-Tệ nạn xã hội giai đoạn 1991-2000; Cờ thi đua của
Chính phủ tặng đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua năm 2008; Cờ thi đua của Tổng
Liên Đoàn Lao Động tặng cơ sở vững mạnh có phong trào thi đua xuất sắc nhất
năm học 2000-2001; Cờ của Ban chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng
Sản Hồ Chí Minh tặng tuổi trẻ Trường Phổ thông Vùng Cao Việt Bắc 50 năm cống
hiến và trưởng thành (1957-2007); Bằng khen của Bộ Bộ Giáo Dục và Đào Tạo
tặng năm 1993, 1996, 1998; Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ tặng về thành tích
trong công tác từ 2004-2006; Bằng công nhận Cơ quan Văn hóa tiêu biểu của TP
Thái Nguyên 2006; Bằng khen của Bộ Bộ Giáo Dục và Đào Tạo về thành tích chỉ
đạo cuộc vận động “ Kỷ cương, tình thương, trách nhiệm 10 năm 1994-2004…
Trong 22 năm gần đây, trường liên tục được công nhận là trường tiên tiến
xuất sắc; đơn vị lao động giỏi cấp tỉnh. Trường học không có ma tuý; Đảng bộ liên
tục đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh”.
Tỷ lệ tốt nghiệp hàng năm của trường bình quân đạt 95%.
Với bề dày truyền thống như trên, thầy và trò trường Phổ thông Vùng Cao
Việt Bắc đang phấn đấu phát huy truyền thống, lập nhiều thành tích hơn nữa. Để
đạt được mục đích đó người học là nhân tố quan trọng cần được trường đầu tư

19


phát triển. Người học không chỉ cần có trí tuệ, hiểu biết tri thức mà còn phải có
sức khỏe tốt, phẩm chất đạo đức tốt để đảm bảo giáo dục một cách toàn diện về
trí, đức, thể, mỹ.
Hiện nay, ngoài việc giáo dục tri thức khoa học nhà trường con tổ chức nhiều
hoạt động văn hóa, văn nghệ, TDTT để học sinh rèn luyện phẩm chất, năng lực thể
lực của mình như: các hoạt động tập luyện và thi đấu TDTT; các câu lạc bộ võ
thuật; thể dục nhịp điệu…

20



Chương 2

MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ PHƯƠNG PHÁP
VÀ TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài nhằm:
- Nhận định, đánh giá khái quát về hình thái của học sinh nam lớp 12, trường
Phổ thông Vùng Cao Việt Bắc.
- Kết quả điều tra là cơ sở để gia đình, nhà trường và xã hội phát hiện và
tuyển chọn năng khiếu thể thao, cải tiến nội dung, chương trình Giáo dục thể chất
trong trường học, lựa chọn các biện pháp thích hợp nâng cao thể chất của học sinh
góp phần cải tạo giống nòi.
- Làm cơ sở tiếp tục điều tra trong các trường, thành phố Thái Nguyên, tỉnh
Thái Nguyên.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Kiểm tra các chỉ số hình thái cơ thể của học sinh nam lớp 12 trường Phổ
thông Vùng Cao Việt Bắc.
- Đánh giá sự phát triển về hình thái cơ thể của nam học sinh lớp 12 trường
Phổ thông Vùng Cao Việt Bắc so với chỉ số chung Việt Nam.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ trên, chúng tôi xin lựa chọn các phương pháp sau:
2.3.1. Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liêu
Chúng tôi sử dụng phương pháp này nhằm tổng hợp những tài liệu, hệ thống
kiến thức có liên quan đến đề tài nghiên cứu và sử dụng trong suốt quá trình nghiên
cứu. Từ đó, rút ra cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm đảm bảo tính chính xác trong quá
trình tiến hành giải quyết các vấn đề nghiên cứu.
2.3.2. Phương pháp phỏng vấn

Đề tài chúng tôi sử dụng phương pháp này nhằm xác định thực trạng trình
độ tập luyện của học sinh thông qua việc phỏng vấn các thầy cô giáo trực tiếp
giảng dạy và học sinh tham gia tập luyện, trên cơ sở đó có những căn cứ xác
thực để đánh giá chính xác mức độ thực hiện các bài tập thể chất của học sinh.
Đề tài tiến hành hình thức phỏng vấn trực tiếp.
2.3.3. Phương pháp quan sát sư phạm
Chúng tôi tiến hành quan sát thực trạng thể hình của nam học sinh lớp 12
trường Phổ thông Vùng Cao Việt Bắc.
2.3.4. Phương pháp kiểm tra y học sư phạm

21


Đây là phương pháp quan trọng nhất để giải quyết các nhiệm vụ. Chúng tôi
đã sử dụng các phương pháp sau:
2.3.4.1. Đo độ dài cơ thể
Dụng cụ đo là thước thẳng có độ dài 2m và được chia chính xác đến 1mm.
- Đo chiều cao đứng: Là đo khoảng cách từ sàn đến đỉnh đầu. Khi đo yêu cầu
người được đo phải luôn giữ thước vuông góc với mặt sàn, đối tượng được đo đứng
thẳng, duỗi hết các khớp sao cho: 2 gót chân, 2 mông và 2 vai cùng nằm trên một
mặt phẳng, mắt nhìn về phía trước.
- Đo chiều cao ngồi: Là đo khoảng cách từ mặt sân (ghế ngồi) tới đỉnh
đầu. Khi đo yêu cầu đối tượng được đo phải ngồi ngay ngắn trên ghế phẳng.
Điểm O của thước chống lên mặt ghế đó, lưng thẳng, 2 vai và mông cùng nằm
trên một mặt phẳng.
- Đo độ dài tay: Là khoảng cách từ mỏm cùng vai hay còn gọi là điểm cánh
tay đến đầu mút ngón tay thứ 3 (ngón giữa).
- Đo độ dài chân: Độ dài chân thường được xác định là:
+ Chân A: Là khoảng cách từ mặt sàn tới gai chậu trước – trên.
+ Chân B: Là khoảng cách từ mặt sàn tới mẫu chuyển lớn.

2.3.4.2. Đo cân nặng
Dụng cụ kiểm tra là một cân bàn có độ chính xác tới 100g. Khi tiến hành yêu
cầu người kiểm tra phải ngồi ghế, 2 chân đặt nhẹ lên giữa 2 bàn cân và từ từ đứng dậy.
2.3.4.3. Đo chu vi các vòng
Dụng cụ đo là một thước mềm, có độ chính xác tới 1mm và có độ dài thước là
1,5m. Đối tượng được đo trong tư thế đứng thẳng, mắt nhìn về phía trước.
- Đo chu vi vòng ngực: Chu vi vòng ngực thường được đo ở 3 trạng thái:
+ Khi hít thở bình thường: Đo chu vi lồng ngực bình thường.
+ Khi hít vào gắng sức tối đa: Đo chu vi lồng ngực hít vào.
+ Thở ra gắng sức tối đa: Đo chu vi lồng ngực thở ra.
- Đo chu vi vòng đùi: Đo qua ngấn mông, khi đứng trên 2 chân.
- Đo chu vi vòng cánh tay co: Tay được đo đưa thẳng về phía trước, ngang
vai, bàn tay nắm chặt, gập cẳng tay và đo chu vi chỗ phình to nhất trên cánh tay.
- Đo chu vi cánh tay thả lỏng: Điểm đo cũng như trong đo vòng cánh tay co
nhưng tay buông xuôi và thả lỏng hoàn toàn.
2.3.5. Phương pháp toán học thống kê
Đề tài chúng tôi sử dụng phương pháp toán học thống kê để xử lý các số liệu
thu thập được trong quá trình nghiên cứu. Một số thuật toán mà chúng tôi sử dụng là:
n

- Số trung bình:

x=

∑x
i =1

i

n


22


+ Trong đó:

x là số trung bình cộng.

∑: ký hiệu tổng.
xi : giá trị quan sát thứ i.
n: số cá thể.
- Xác định độ lệch chuẩn ( δ ) theo công thức:
δ = ± δ 2 mà δ 2 =

∑ (x

i

−X ) 2

n

với n ≥ 30
( xi − X ) 2
n

⇒δ =

- Xác định hệ số biến sai ( Cv ) theo công thức:
Cv =


δx
× 100 0 0
x

- So sánh một số trung bình quan sát với một số trung bình lý thuyết:
t=

x−X
δ
n

Trong đó: + x : Là số trung bình quan sát có độ lệch chuẩn δ .

+ X : Là số trung bình lý thuyết có độ lệch chuẩn δ ’
2.4. Tổ chức nghiên cứu
2.4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Chủ thể: Các chỉ số hình thái cơ thể.
- Khách thể: Học sinh nam lớp 12 trường trung học Phổ thông Vùng
Cao Việt Bắc.
2.4.2. Địa điểm nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu tại:
- Trường Đại Học Sư Phạm – Đai Học Thái Nguyên.
- Trường Phổ thông Vùng Cao Việt Bắc.
2.4.3. Dụng cụ nghiên cứu
Bao gồm: Thước đo, cân và một số dụng cụ hỗ trợ khác.
2.4.4. Thời gian nghiên cứu
Đề tài tiến hành nghiên cứu từ: tháng 9 năm 2011 đến tháng 5 năm 2012 và
chia thành các giai đoạn sau:
Bảng 2.1. Nội dung và thời gian nghiên cứu

Giai đoạn

Nội dung

23

Thời gian


×