CHUYÊN ĐỀ:
XÂY DỰNG VÀ TỔ CHỨC DẠY HỌC CHUYÊN ĐỀ “CÁC CUỘC KHÁNG
CHIẾN CHỐNG NGOẠI XÂM CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM THẾ KỈ X- XV”
NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NHÓM CHUYÊN - MÔN LỊCH SỬ Ở
TRƯỜNG PHỔ THÔNG VÙNG CAO VIỆT BẮC.
Ma Thị Vui
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
1.1. Cơ sở lý luận
Chất lượng giáo dục là những yếu tố tạo nên giá trị của sản phẩm giáo dục, đó
là năng lực và nhân cách người học. Chất lượng giáo dục gắn liền với chất lượng
nguồn nhân lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước, của địa phương. Để đáp ứng yêu
cầu đó, giáo dục nói chung, giáo dục phổ thông nói riêng phải có sự đổi mới căn
bản, toàn diện. Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ hai, khoá VIII chỉ rõ: “Đổi mới
mạnh mẽ phương pháp giáo dục, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện
thành nếp tư duy sáng tạo cho người học. Từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến
và phương pháp hiện đại vào quá trình dạy học”. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ X đã xác định “...Ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy
và học. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng
đội ngũ giáo viên...” [8; 206 – 206]
Kết luận số2 - 42/NQ của Bộ Chính trị khoá X ngày 15/4/2009 đã xác định 7
nhiệm vụ, giải pháp phát triển giáo dục đến năm 2020: “Nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện, coi trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh
viên, mở rộng qui mô giáo dục hợp lý. Nội dung này tồn tại trong cả ba mặt giáo
dục: dạy người, dạy chữ, dạy nghề” (nhiệm vụ 1); “Tiếp tục đổi mới chương trình,
tạo chuyển biến mạnh mẽ về phương pháp giáo dục: Cụ thể, rà soát lại toàn bộ
chương trình và sách giáo khoa phổ thông, sớm khắc phục tình trạng quá tải, nặng
về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa khuyến khích đúng mức tính sáng tạo của người
học” (nhiệm vụ 4).
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam
nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học ở
tất cả các cấp, bậc học. Tích cực chuẩn bị để từ sau năm 2015 thực hiện chương
trình giáo dục phổ thông mới.”[tr 131 – 132]
Trong những năm gần đây lịch sử là bộ môn nhận được sự quan tâm nhiều
nhất của các ngành, các cấp và của xã hội. Chất lượng dạy và học có sự đổi mới theo
tinh thần chung của ngành giáo dục xong kết quả đạt được lại có nhiều hạn chế.
Trong bối cảnh như trên làm thế nào để nâng cao hơn nữa chất lượng dạy và học
môn sử, làm thế nào để học sinh không chỉ nắm bắt kiến thức cơ bản mà còn có khả
năng lĩnh hội kiến thức chuyên sâu? Đây thực sự là một bài toán hết sức nan giải.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Trong thực trạng hiện nay mặc dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng được sự chỉ
đạo chung của Hội đồng khoa học nhà trường là cần thường xuyên quan tâm đến vấn
đề đổi mới nhằm nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn, trong đó có việc ôn luyện
học sinh nhóm chuyên, chúng tôi đã mạnh dạn xây dựng các chuyên đề chuyên sâu
đối với bộ môn.
Thực tế qua nhiều năm ôn luyện nhóm chuyên ở Trường PT Vùng Cao Việt
Bắc, chúng tôi nhận thấy còn có những vấn đề bất cập ảnh hưởng đến kết quả chung
của bộ môn như nội dung, chương trình nhóm chuyên chưa được xây dựng bài bản,
hợp lý. Trình độ nhận thức, tư duy của học sinh dân tộc khá mộc mạc, chưa thực sự
nhanh nhạy, sắc bén. Đa số học sinh lựa chọn bộ môn lịch sử là do nhận thức cảm
tính yêu thích bộ môn chứ không phải do năng khiếu. Hạn chế lớn nhất của học sinh
trong trường nói chung và học sinh nhóm chuyên nói riêng là khả năng diễn đạt và
trình bày chưa khoa học. Bên cạnh đó chúng tôi nhận thấy học sinh nhóm chuyên
còn có những hạn chế khác gây ảnh hưởng đến kết quả trong các kì thi học sinh giỏi,
thi duyên hải hay trại hè Hùng Vương như:
+ Học sinh khá thụ động trong việc lĩnh hội kiến thức, chưa biết khai thác các
loại tư liệu chuyên sâu…
+ Khả năng phân tích, đánh giá, so sánh, tổng hợp còn hạn chế...
Đối tượng chính mà chuyên đề chúng tôi hướng tới là học sinh nhóm chuyên
khối 10. Nội dung chuyên đề muốn khai thác sâu là các cuộc kháng chiến chống
ngoại xâm thế kỉ X-XV. Đối với chương trình lớp 10 ban nâng cao thì nội dung này
chủ yếu nằm trong chương IV Việt Nam từ thế kỉ X- XV. Số lượng tiết theo phân
phối chương trình của Bộ giáo dục và Đào tạo đối với chương này là 6 tiết. Như vậy
so với số lượng tiết của cả 1 năm học trong chương trình nâng cao thì không lớn.
Tuy nhiên theo dõi đề thi học sinh giỏi các cấp từ cấp tỉnh đến cấp quốc gia qua
nhiều năm chúng tôi thấy tỉ lệ điểm dành cho nội dung này thường chiếm từ 20%40% tổng số điểm của toàn bài. Do đó trong quá trình ôn luyện học sinh giỏi các
cấp, giáo viên đều dành khối lượng thời gian tương đối lớn cho nội dung các cuộc
kháng chiến chống ngoại xâm thế kỉ X- XV.
Qua các kì thi học sinh giỏi các cấp, nhận thức được tầm quan trọng của từng
nội dung kiến thức trong tổng thể kiến thức lịch sử rộng lớn, bước đầu giáo viên ôn
luyện đội tuyển bộ môn đã biết điều tiết thời gian ôn tập sao cho hợp lý nhất. Hơn
nữa với 100% giáo viên bộ môn Lịch sử của nhà trường đạt trình độ Thạc sĩ cho nên
vấn đề ôn luyện nhóm chuyên cũng có nhiều thuận lợi. Chính vì vậy trong nhiều
năm môn lịch sử vẫn được coi là một trong những môn học thế mạnh của nhà
trường. Số lượng và chất lượng giải trong các kì thi học sinh giỏi không ngừng tăng
lên. Tuy vậy không bằng lòng với những kết quả đã đạt được, chúng tôi vẫn mong
muốn nâng cao hơn nữa chất lượng ôn luyện nhóm chuyên. Xứng đáng với sự kì
vọng ngày càng lớn của Nhà trường đối với bộ môn. Do đó xây dựng các chuyên đề
chuyên sâu là một trong những nhân tố quan trọng nhằm nâng cao chất lượng cũng
như kết quả của môn học. Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn như trên, qua nhiều
năm giảng dạy và ôn luyện nhóm chuyên chúng tôi mạnh dạn đi sâu một bước để
xây dựng chuyên đề: xây dựng và tổ chức dạy học chuyên đề “Các cuộc kháng
chiến chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam thế kỉ X- XV” nhằm nâng cao chất
lượng nhóm chuyên- môn lịch sử ở trường PT Vùng cao Việt Bắc.
II. NỘI DUNG CHÍNH
1. Xây dựng chuyên đề
* Nội dung chương trình Lịch sử lớp 10
Về nội dung chương trình Lịch sử lớp 10 ban Nâng cao từ thế kỉ X- XV bao
gồm có 5 bài được phân phối học trong 6 tiết: Cụ thể:
Bài 28. Xây dựng và phát triển nhà nước độc lập thống nhất (từ thế kỉ X- XV)
Bài 29. Mở rộng và phát triển kinh tế ( từ thế kỉ X- XV)
Bài 30. Kháng chiến chống ngoại xâm (từ thế kỉ X- XV)
Bài 31. Xây dựng và phát triển văn hoá dân tộc ( từ thế kỉ X- XV)
Bài 32. Việt Nam ở thế kỉ XV- Thời Lê sơ.
Như vậy trong thời kì từ thế kỉ X- XV có nhiều mảng kiến thức tương đối rộng từ
kinh tế đến chính trị văn hoá- xã hội. Ở đây chuyên đề mà chúng tôi xây dựng là
phần nội dung: Các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam từ thế
kỉ X- XV.
2. Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học và ôn luyện chuyên đề “Các
cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam thế kỉ X – XV” cho
học sinh nhóm chuyên.
2.1. Cung cấp kiến thức cơ bản
- Mục đích: Để học sinh có thể lĩnh hội được kiến thức chuyên sâu thì nền tảng ban
đầu bắt buộc người giáo viên phải cung cấp những kiến thức cơ bản nhất trong quá
trình ôn tập. Kiến thức cơ bản là những phần mà dành cho mọi đối tượng học sinh
không kể là học sinh chuyên hay không chuyên. Những kiến thức này học sinh được
tiếp cận trong các giờ chính khoá trên lớp, trong sách giáo khoa hoặc trong các giờ
ôn tập. Đây có thể coi là khâu đầu tiên trong quá trình ôn luyện nhóm chuyên mà
giáo viên phải thực hiện.
- Nội dung: Phần các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thế kỉ X- XV, học sinh cần
nắm vững về các cuộc kháng chiến, khởi nghĩa lớn tiêu biểu:
+ Kháng chiến chống Tống thời Tiền Lê năm 981
+ Kháng chiến chống Tống thời Lý năm 1075-1077
+ Các cuộc kháng chiến chống Mông- Nguyên thời Trần thế kỉ XIII
+ Khởi nghĩa Lam Sơn thế kỉ XV.
Kiến thức cơ bản học sinh cần nắm vững khi học về các cuộc kháng chiến chống
ngoại xâm gồm:
Thứ nhất học sinh cần tìm hiểu khái quát về tình hình mọi mặt từ kinh tế đến
chính trị, văn hoá- xã hội của Đại Việt thế kỉ X- XV. Đây là phần kiến thức rất quan
trọng để học sinh có thể nắm được khái quát bối cảnh diễn ra các cuộc kháng chiến
đó, đồng thời là cơ sở để học sinh khai thác sâu hơn phần nội dung các cuộc kháng
chiến chống ngoại xâm thế kỉ X- XV.
Thứ hai: Học sinh cần nắm kiến thức cơ bản về bối cảnh, diễn biến, kết quả
của các cuộc kháng chiến. Trong đó phần diễn biến hiện nay đã được bộ giáo dục
giảm tải, qua đó không yêu cầu người học phải đi sâu tìm hiểu diễn biến mà chỉ cần
nắm được những nét cơ bản nhất của cuộc kháng chiến như các trận quyết chiến,
chiến lược, cách đánh để giành thắng lợi...
Ví dụ: Trình bày hoàn cảnh, diễn biến của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thế kỉ XV.
+ Hoàn cảnh: Cuối thế kỉ XIV nhà Trần suy vong. Năm 1400, nhà Hồ thành
lập. Cuộc cải cách của nhà Hồ không mang lại kết quả như mong muốn thì quân
Minh ồ ạt tiến sang xâm lược. Năm 1407, cuộc kháng chiến của nhà Hồ thất bại,
nước ta rơi vào ách đô hộ của nhà Minh. Hàng loạt các cuộc khởi nghĩa bùng lên ở
khắp nơi trong cả nước, nhưng đều thất bại.
+ Diễn biến: Cuộc khởi nghĩa do Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo đã nổ ra ở
Lam Sơn (Thanh Hoá) vào mùa xuân năm 1418. Mặc dù nhiều lần bị
Quân Minh tiến đánh giữ dội, nghĩa quân vẫn giữ được tinh thần chiến đấu, mở rộng
dần vùng hoạt động, sau đó làm chủ cả vùng đất từ Thanh Hoá vào Nam. Được sự
hưởng ứng nhiệt liệt của nhân dân, nghĩa quân đã tiến quân ra Bắc, chiến đấu quyết
liệt với quân Minh, đẩy chúng vào thế bị động. Cuối năm 1427, 10 vạn quân cứu
viện của giặc ồ ạt tiến vào nước ta nhưng chúng đã bị nghĩa quân đánh tan tành ở
trận Chi Lăng- Xương Giang lẫy lừng. Giặc rơi vào thế cùng quẫn, nghĩa quân đã “
thể đức hiếu sinh” cấp ngựa thuyền cho chúng về nước. Mùa xuân năm 1428, đất
nước sạch bóng quân thù.
- Ôn tập và kiểm tra kiến thức cơ bản:
Để kiểm tra kiến thức cơ bản của học sinh thì giáo viên có thể thực hiện bằng
nhiều cách như kiểm tra trên lớp, trong các giờ ôn tập hoặc giao bài tập về nhà. Các
câu hỏi đặt ra với mức độ vừa phải chủ yếu kiểm tra mức độ nhớ và hiểu của học
sinh. Chẳng hạn:
GV: Cuộc kháng chiến chống Tống thời Lý diễn ra trong hoàn cảnh nào? Quân và
dân Đại Việt đã tổ chức đánh giặc ra sao? Kết quả?
GV: Vì sao cuộc khởi nghĩa Lam Sơn lại được đông đảo quần chúng nhân dân
hưởng ứng?
Hoặc bài tập: Lập bảng thống kê các cuộc kháng chiến và khởi nghĩa lớn chống
ngoại xâm từ thế kỉ X đến thế kỉ XV theo nội dung: Thời gian, lãnh đạo, trận quyết
chiến chiến lược, kết quả
Sau khi kiểm tra phải đảm bảo học sinh đã nắm vững kiến thức cơ bản nhất về các
cuộc kháng chiến thì giáo viên ôn luyện mới chuyển sang ôn tập kiến thức chuyên
sâu.
2.2. Bồi dưỡng kiến thức chuyên sâu
- Mục đích: Bồi dưỡng kiến thức chuyên sâu là nhằm trang bị thêm kiến thức ngoài
sách giáo khoa phổ thông, như giáo trình đại học, các vấn đề chuyên môn sâu, các
dạng bài tập nâng cao...Với kiến thức nâng cao tiếp thu được học sinh sẽ nắm vững
được bản chất cũng như các mối liên hệ biện chứng của các hiện tượng, sự kiện lịch
sử. Đây là cơ sở để học sinh giải quyết tốt đối với các dạng câu hỏi, bài tập nâng cao
và khó.
- Nội dung: Cụ thể đối với nội dung các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thế kỉ
X- XV, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu lần lượt những vấn đề chuyên sâu
như sau:
a. Kháng chiến chống Tống thời Tiền Lê năm 981
- Sự mưu lược của Lê Hoàn trong quá trình kháng chiến:
Lúc thì khiêu chiến vờ thua để nhử giặc, lúc thì trá hàng và bất ngờ đánh úp
nên giành thắng lợi lớn, nhanh chóng thắng ngay ở vùng Đông Bắc, đè bẹp ý chí
xâm lược của quân Tống khiến vua Tống không giám nghĩ đến xâm lược Đại Việt
cho đến tận năm 1075- tức gần 100 năm sau nhà Tống mới dám nghĩ đến xâm lược
Đại Việt lần hai.
- Nguyên nhân thắng lợi:
+ Triều đình nhà Đinh và thái hậu họ Dương sẵn sàng hi sinh lợi ích dòng họ, đặt lợi
ích dân tộc lên trên để tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc kháng chiến
+ Do ý chí quyết chuến bảo vệ độc lập dân tộc của nhân dân Đại Việt.
+ Cuộc kháng chiến giành được thắng lợi nhanh chóng do có sự chỉ huy tài tình,
mưu lược của Lê Hoàn
b. Kháng chiến chống Tống thời Lý năm 1075-1077
* Âm mưu xâm xâm lược Đại Việt của nhà Tống
- Sự khủng hoảng của nhà Tống
+ Phía Bắc phải đối phó với nước Liêu- bộ tộc Khiết Đan ( khu vực Nhiệt Hà), nước
Hạ- dân tộc Đản Hạ (thuộc khu vực Cam Túc)
+ Trong nước, nhà Tống phải đối phó với phong trào nông dân đang nổi dậy mạnh
mẽ chống lại triều đình
Trong hoàn cảnh đó, vua Tống và tể tướng Vương An Thạch chủ trương đánh Đại
Việt hi vọng dùng chiến công bên ngoài biên giới để lấn át tình hình trong nước, doạ
nạt Liêu- Hạ, nhà Tống đã thực hiện kế hoạch đối ngoại “ Nam trước, Bắc sau”
- Các hoạt động chuẩn bị của quân Tống:
+ Nhà Tống huy động một lực lượng mạnh áp đảo di chuyển đến giáp đất Đại
Việt, nhà Tống tổ chức xây dựng khu vực biên giới Việt- Trung thành một hệ thống
căn cứ xâm lược lợi hại, vị trí xuất quân được bố trí chu đáo trong đó căn cứ lớn
nhất là thành Ung Châu ( Nam Ninh- Quảng Tây)- có thành kiên cố với 5000 quân.
+ Nhà Tống sử dụng nhiều tướng giỏi như Tô Giám- lão tướng có nhiều kinh
nghiệm trận mạc, đã từng đánh thắng Nùng Trí Cao
+ Tìm mọi cách phá vỡ khối đoàn kết của nhân dân Đại Việt, từ trong phá ra
bằng cách mua chuộc tù trưởng dân tộc thiểu số.
+ Bao vây cô lập nước ta, xúi giục Chăm-pa xâm lược nước ta từ phía Nam.
- Tình hình Đại Việt:
+ Vua Lý Thánh Tông vừa qua đời, Lý Nhân Tông lên ngôi chưa đầy 10 tuổi,
trọng trách kháng chiến chống quân xâm lược Tống được giao cho Lý Thường Kiệtlinh hồn của cuộc kháng chiến chống Tống lần 2.
* Phân tích nghệ thuật quân sự, nghệ thuật chiến tranh và rút ra bài học về sau của
lịch sử dân tộc:
- Chính trị: Nhà Lý nhanh chóng khôi phục khối đại đoàn kết toàn dân bằng việc hàn
gắn những rạn nứt trong nội bộ tướng lĩnh cao cấp và thi hành nhiều chính sách đoàn
kết với tộc người thiểu số đặc biệt ở phía Bắc.
- Quân sự:
+ Nghệ thuật “ Tiến công để phòng thủ”:
Để ổn định phương Nam, Lý Thường Kiệt cho quân tấn công Chăm- pa, phá
thành trì, bắt sống vua, tiêu diệt lực lượng để ổn định ở phía Nam, tránh một lúc phải
đối phó với hai thế lực, gây bất lợi cho ta. Ở phía Bắc, chủ động tấn công vào các
căn cứ hậu cần trên đất Tống để thực hiện chiến lược “ tiên phát chế nhân”. Tháng
10/1075 Lý Thường Kiệt chỉ huy 10 vạn quân do ông trực tiếp chỉ huy đánh sang đất
Tống bằng đường biển, đổ bộ lên đất liền, tấn công vào Ung Châu khiến quân Tống
hoàn toàn bất ngờ. Tháng 2/ 1076 quân ta hạ thành Ung Châu, tướng giặc tự sát sau
đó Lý Thường Kiệt cho quân rút về nước, chủ động xây dựng phòng tuyến trên sông
Như Nguyệt, chuẩn bị kháng chiến.
+ Nghệ thuật “ phòng thủ để tiến công”:
Sau giai đoạn I bị tấn công bất ngờ, nhà Tống đã huy động một lực lượng
mạnh, gồm 30 vạn quân chuẩn bị tấn công Đại Việt. Đầu năm 1077 quân Tống vượt
ải Chi Lăng tiến vào bờ Bắc sông Như Nguyệt. Lý Thường Kiệt chỉ cho một lực
lượng quân rất nhỏ đối phó với kẻ thù- đây là cách đánh hết sức sáng tạo bởi khi kẻ
thù vừa qua biên giới, lực lượng rất mạnh, ý chí xâm lược còn cao, nếu chặn đánh
ngay ở biên giới rất bất lợi cho ta, còn lùi sâu vào đất liền, ta sẽ phát huy được ưu
thế về thuỷ thổ, quân lương còn quân địch ngày càng khó khăn, ưu thế của chúng
mất dần đi. Đây chính là nghệ thuật “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều”. Sau
này trong cuộc kháng chiến chống Pháp, bài học kinh nghiệm này đã được Đảng ta
kế thừa, sau một thời gian nhân nhượng với Pháp để tranh thủ thời gian xây dựng lực
lượng. Tối ngày 19/12/1946 kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Đảng ta chủ trương
giam chân địch trong các đô thị, di chuyển cơ quan đầu não kháng chiến của ta lên
căn cứ địa Việt Bắc để kháng chiến lâu dài.
* Xây dựng chiến tuyến trên sông Như Nguyệt
+ Sau giai đoạn 1 chủ động đem quân sang đất Tống để phá các căn cứ lợi hại
của giặc, Lý Thường Kiệt cho quân rút về nước, tích cực xây dựng phòng tuyến trên
sông Như Nguyệt nhằm chuẩn bị kháng chiến. Việc xây dựng chiến tuyến trên sông
Như Nguyệt cũng là một nét độc đáo, sáng tạo biết kết hợp hài hoà yếu tố thiên tạo
với nhân tạo, tạo chỗ dựa vững chắc để vừa phòng ngự vừa làm bàn đạp để phản
công.
+ Biết phát huy triệt để yếu tố tinh thần trong cuộc kháng chiến, Lý Thường
Kiệt cho quân đọc bài thơ thần “ Nam Quốc sơn hà” đẻ khích lệ quân sĩ. Trước khi
phát động cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh
ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến với tinh thần “ thà hi sinh tất cả chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”
+ Sau một thời gian thực hiện kế sách độc đáo nói trên, khi kẻ thù bị dồn vào
thế cùng quẫn nhất, Lý Thường Kiệt đã hạ lệnh tấn công, khiến đại bộ phận quân
Tống bị tiêu diệt trong một đêm, Quách Quỳ chạy về nước. Như Nguyệt là trận
quyết định số phận của quân Tống trong cuộc chiến tranh xâm lược- là trận quyết
chiến. Khi quân giặc dẫm đạp lên nhau mà chạy thì Lý Thường Kiệt lại dâng thư xin
hàng, thực chất đây là hành động buộc địch đầu hàng vô điều kiện. Có thể nói Lý
Thường Kiệt là người đã đề ra nghệ thuật kết thúc chiến tranh một cách mẫu mực,
dùng phương pháp ngoại giao để quân sĩ đỡ nhọc nhằn, hao tổn, quân địch không tự
ái, không tìm cách báo thù mà chuẩn bị thiết lập quan hệ ngoại giao sau này. Có thể
nói đây chính là nghệ thuật kết thúc chiến tranh mà không để tạo ra một cuộc chiến
tranh khác. Sau này Đảng ta đã kế thừa truyền thống của tổ tiên, đó là thông qua
Hiệp định Giơ-ne-vơ (1954), Hiệp định Pa-ri (1973) ta không chỉ buộc kẻ thù phải kí
mà còn buộc quốc tế phải công nhận giá trị pháp lý của văn kiện này.
c. Kháng chiến chống Mông- Nguyên thời Trần thế kỉ XIII
* Bài học từ thắng lợi của cuộc kháng chiến:
+ “Khoan thư sức dân để làm rễ sâu bền gốc”, để tạo được niềm tin của nhân
dân với triều đình, nhờ đó khi đánh giặc nhân dân hưởng ứng sự lãnh đạo của triều
đình và sẵn sàng sả thân vì tổ quốc lúc nguy nan.
+ Biết phát huy triệt để sức mạnh của nhân dân để thực hiện các kế hoạch tác
chiến
+ Biết xây dựng sự đoàn kết, quyết tâm đánh giặc của triều đình để phát triển
thành khối đoàn kết toàn dân.
+ Không chỉ trong quá trình chuẩnt bị cuộc kháng chiến, nhà Trần còn biết
phát huy triệt để sức mạnh toàn dân trong cuộc chiến đấu, kết hợp sức mạnh quân
triều đình với quân địa phương.
* Nghệ thuật quân sự trong cuộc kháng chiến:
+ Nhà Trần đã vận dụng và phát huy sáng tạo nghệ thuật đánh giặc của cha
ông. Kế sách đánh giặc của Ngô Quyền, Lê Hoàn đã được phát huy.
+ Chủ động trong rút lui cũng như khi tiến công, chủ trương tránh sức mạnh
ban đầu của địch, tổ chức đánh du kích khi thời cơ đến tiến hành đánh phản công,
đánh và giành thắng lợi trong trận quyết chiến, chiến lược. Nghệ thuật “ khi giặc
đuổi thì ta chạy, khi giặc đóng thì ta phá, khi giặc chạy thì ta đuổi” được phát huy
triệt để có hiệu quả.
* Vận dụng:
+ Trong từng hoàn cảnh cụ thể, Đảng ta chủ trương thành lập các mặt trận
thống nhất cho phù hợp để đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân.
+ Trong kháng chiến chống Pháp, ngay từ đầu chủ trương của Đảng là kháng
chiến toàn dân và luôn quan tâm đến hậu phương trong kháng chiến.
+ Do thế và lực của ta yếu, địch mạnh nên ngay từ đầu Đảng ta xác định cuộc
kháng chiến chống Pháp của ta là cuộc kháng chiến lâu dài. Do đó chủ trương của ta
là tránh chỗ mạnh ban đầu của địch, tạm thời sử dụng kế sách hoà hoãn, nhân
nhượng để đến năm 1946 ta tiến hành tiêu thổ kháng chiến gây nhiều khó khăn cho
địch.
d. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thế kỉ XV
* Đặc điểm nổi bật trong nghệ thuật quân sự của khởi nghĩa Lam Sơn
Đường lối chiến lược cơ bản của cuộc khởi nghĩa là dựa vào dân, tiến hành
một cuộc chiến tranh lâu dài, phù hợp với cuộc chiến tranh giải phóng của một nước
nhỏ chống lại sự xâm lược của một nước lớn.
Quán triệt tư tưởng chiến lược đó, bộ chỉ huy đã biết dựa vào dân để xây dựng
lực lượng từ không đến có, từ yếu đến mạnh, giải quyết đúng đắn vấn đề xây dựng
căn cứ địa kết hợp giữa chiến đấu và sản xuất, giữa đấu tranh vũ trang và đấu tranh
chính trị.
Về chiến thuật: bộ chỉ huy quân sự đã vận dụng thành công lối đánh “Lấy ít
địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” như du kích, phục kích, vận động chiến, vây thành
diệt viện...Đặc biệt chiến thuật phục kích sở trường của nghĩa quân Lam Sơn đã
được vận dụng tài tình trong suốt quá trình cuộc khởi nghĩa.
Thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn còn là thắng lợi rực rỡ của đường lối chiến
lược, chiến thuật của một cuộc chiến tranh giải phóng có tính nhân dân trong điều
kiện lịch sử lúc bấy giờ.
* Ý nghĩa của cuộc kháng chiến:
Đây là chiến thắng oanh liệt nhất, là trận quyết chiến chiến lược có ý nghĩa
quyết định của sự thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là thắng lợi của
chính nghĩa, của tinh thần yêu nước, căm thù quân xâm lăng, là thắng lợi của nghệ
thuật quân sự tài tình trước hết là của bộ chỉ huy nghĩa quân, là điển hình của nghệ
thuật lấy ít địch nhiều. Với thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã trở thành khởi
nghĩa vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc ta và sánh ngang với chiến thắng Bạch Đằng,
Đống Đa, Điện Biên Phủ, chiến dịch Hồ Chí Minh...
- Ôn luyện và kiểm tra kiến thức chuyên sâu:
Ôn luyện: Có hai hình thức ôn luyện phần kiến thức chuyên sâu.
+ Thứ nhất giáo viên cho ôn luyện ngay trên lớp bằng cách đặt câu hỏi hoặc ra
bài tập kiểm tra mức độ lĩnh hội kiến thức nâng cao cũng như kĩ năng viết, diễn đạt...
+ Thứ hai giáo viên hướng dẫn cho học sinh tự ôn luyện ở nhà. Muốn việc tự
ôn của học sinh có hiệu quả, giáo viên bắt buộc phải ra bài tập về nhà có độ khó nhất
định và xoay quanh vấn đề chuyên sâu. Đồng thời hướng dẫn học sinh thói quen tìm
kiếm và tham khảo thêm tài liệu liên quan đến nội dung đã học.
Có thể thấy ôn luyện là khâu rất quan trọng nhằm củng cố kiến thức chuyên
sâu đã học. Đồng thời có thể bổ sung thêm những phần kiến thức và kĩ năng còn
thiếu của học sinh.
Kiểm tra kiến thức chuyên sâu:
Kiểm tra là biện pháp để đánh giá mức độ lĩnh hội kiến thức chuyên sâu của
nhóm chuyên. Từ cơ sở đó giáo viên có thể điều chỉnh phương pháp dạy và học sao
cho hiệu quả đạt được là cao nhất. Với chuyên đề các cuộc kháng chiến chống ngoại
xâm thế kỉ X- XV, giáo viên có thể kiểm tra bằng nhiều hình thức như kiểm tra
miệng, kiểm tra viết hoặc thảo luận trên lớp. Giáo viên cũng hoàn toàn có thể kiểm
tra mức độ nhận thức của nhóm chuyên bằng các dạng câu hỏi và bài tập về nhà.
III. KẾT LUẬN
Hiện nay với yêu cầu ngày càng cấp thiết đối với việc đổi mới dạy và học môn
Lịch sử nói chung đã thôi thúc đội ngũ giáo viên chúng tôi không ngừng nỗ lực phấn
đấu trong chuyên môn. Tiếp nối truyền thống giàu thành tích học tập của nhà trường,
môn Lịch sử trong những năm qua đã gặt hái được những thành công nhất định. Có
được thành quả trên trước hết là nhờ sự chỉ đạo và quan tâm sát sao của Ban giám
hiệu nhà trường, sự nỗ lực quyết tâm phấn đấu của thầy và trò qua các năm. Trong
đó việc không ngừng tìm tòi sáng tạo của đội ngũ giáo viên bộ môn đóng vai trò rất
quan trọng. Xây dựng các chuyên đề chuyên sâu và áp dụng trong thực tiễn giảng
dạy đã và đang phát huy hiệu quả. Chuyên đề: Xây dựng và tổ chức dạy học chuyên
đề “Các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam thế kỉ X- XV”
nhằm nâng cao chất lượng nhóm chuyên- môn lịch sử ở trường PT Vùng cao
Việt Bắc đã được chúng tôi nghiêm túc nghiên cứu và khảo nghiệm thành công
trong thực tiễn.