Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

HỆ THỐNG cơ QUAN QUẢN lý đất ĐAI ở nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.13 KB, 22 trang )

HỆ THỐNG CƠ QUAN QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI Ở NƯỚC TA
1. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu, tổ chức của Bộ tài nguyên
và môi trường
Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan của Chính Phủ thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên
khoáng sản, môi trường, khí tượng thuỷ văn, đo đạc và bản đồ trong phạm vi
cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công và thực hiện đại diện chủ sở
hữu phần vốn của Nhà nước trong lĩnh vực nêu trên theo quy định của Nhà
nước;
Bộ Tài nguyên và Môi trường ra đời nhằm tăng cường công tác quản
lý các nguồn tài nguyên và môi trường theo xu hướng quản lý tổng hợp các
nguồn tài nguyên thiên nhiên vì sự phát triển bền vững. Bộ Tài nguyên và
Môi trường được thành lập căn cứ Nghị quyết số 02/2002/QH11 của Quốc
hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khúa XI kỳ họp thứ nhất quy
định về danh sách các bộ và cơ quan ngang bộ của Chính Phủ.
1.1. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ Tài nguyên và Môi
trường
Theo Nghị định số 91/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 của Chính phủ
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài
nguyên và Môi trường thì Bộ Tài nguyên và Môi trường (sau đây gọi tắt là
Nghị định số 91/2002/NĐ-CP) có trách nhiệm thực hiện, nhiệm vụ, quyền
hạn quy định tại Nghị định số 86/2002/NĐ-CP ngày 05/11/2002 của Chính
phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ
quan ngang bộ và những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau đây:
- Trình Chính phủ các dự án luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm
pháp luật khác về tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản,
môi trường, khí tượng thuỷ văn, đo đạc và bản đồ;
- Trình Chính phủ chiến lược, quy hoạch phát triển, kế hoạch dài hạn,
năm năm và hàng năm về các lĩnh vực tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài
nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng thuỷ văn, đo đạc và bản đồ, cỏc
cụng trỡnh quan trọng của ngành;




- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và các tiêu chuẩn, quy
trình, quy phạm, các định mức kinh tế - kỹ thuật trong lĩnh vực tài nguyên
đất, tài nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng thủy văn, đo đạc và bản
đồ thuộc thẩm quyền;
- Tổ chức, chỉ đạo thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật và chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch sau khi được phê duyệt và các tiêu chuẩn, quy
trình, quy phạm, các định mức kinh tế- kỹ thuật của ngành; tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về tài nguyên đất, tài nguyên nước,
tài nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng thuỷ văn, đo đạc và bản đồ.
Bên cạnh nhiệm vụ, quyền hạn chung, Nghị định số 91/2002/NĐ-CP
còn quy định cho Bộ Tài nguyên và Môi trường những nhiệm vụ, quyền hạn
cụ thể trong từng lĩnh vực được giao quản lý; cụ thể:
- Về tài nguyên đất
• Xây dựng, trình Chính phủ để Chính phủ xem xét, trình Quốc hội
quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai trong cả nước;
• Thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai của các tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương và quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai vào
mục đích quốc phòng, an ninh của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an trình
Chính phủ xét duyệt;
• Trình Chính phủ quyết định giao đất, thu hồi đất trong các trường hợp
thuộc thẩm quyền của Chính phủ;
• Chỉ đạo việc thực hiện công tác điều tra, khảo sát, đo đạc, đánh giá,
phân hạng đất và lập bản đồ địa chính; hướng dẫn và tổng hợp số liệu
thống kê, kiểm kê đất đai, lập và quản lý hồ sơ địa chính;
• Thống nhất quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển
quyền sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất, đăng ký và cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất;
• Hướng dẫn Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

trong việc thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy
định của pháp luật;
• Kiểm tra Uỷ ban nhân nhân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
trong việc định giá đất theo khung định giá và nguyên tắc, phương
pháp xác định giá các loại đất do Chính phủ quy định;


- Về đo đạc và bản đồ
• Thống nhất quản lý về hoạt động đo đạc và bản đồ; quản lý công tác
đo đạc và bản đồ cơ bản, bản đồ về biên giới quốc gia và địa giới hành
chính; quản lý hệ thống địa danh trên bản đồ, hệ thống quy chiếu quốc
gia, hệ thống số liệu gốc đo đạc quốc gia, hệ thống điểm đo đạc cơ sở
quốc gia, hệ thống không ảnh cơ bản và chuyên dùng; cấp và thu hồi
giấy phép hoạt động đo đạc và bản đồ theo quy định của pháp luật;
• Thành lập, hiệu chỉnh xuất bản và phát hành các loại bản đồ địa hình
cơ bản, bản đồ nền, bản đồ hành chính; quản lý việc cung cấp thông
tin, tư liệu và bảo mật nhà nước về hệ thống thông tin, tư liệu đo đạc
và bản đồ;
- Thẩm định và kiểm tra việc thực hiện các dự án đầu theo quy định
của pháp luật;
- Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực, tổ chức và chỉ đạo thực
hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ.
- Quyết định các chủ trương, biện pháp cụ thể và chỉ đạo việc thực
hiện cơ chế hoạt động của các tổ chức dịch vụ theo quy định của pháp luật;
quản lý và chỉ đạo hoạt động đối với các tổ chức sự nghiệp thuộc Bộ;
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể thuộc quyền đại diện chủ sở
hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước thuộc Bộ
quản lý theo quy định của pháp luật;
- Quản lý nhà nước đối với các hoạt động của hội và tổ chức phi
Chính phủ.

- Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng,
tiêu cực và xử lý các vi phạm pháp luật.
- Quyết định và chỉ đạo thực hiện chương trình cải cách hành chính
của Bộ theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính nhà
nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;
- Quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế; chỉ đạo thực hiện chế độ tiền
lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật đối với cán
bộ, công chức, viên chức nhà nước thuộc phạm vi quản lý của Bộ; đào tạo,
bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức, viên chức.


- Quản lý tài chính, tài sản được giao và tổ chức thực hiện ngân sách
được phân bổ theo quy định của pháp luật;
Để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được quy định
trên đây, Bộ Tài nguyên và Môi trường cần có một cơ cấu tổ chức hợp lý,
hoạt động hiệu quả;
1.2. Cơ cấu, tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường
Nghị định số 91/2002/NĐ-CP quy định rõ về cơ cấu, tổ chức của Bộ
Tài nguyên và Môi trường; cụ thể:
Các tổ chức này bao gồm: Vụ Đất đai; Vụ Đăng ký và Thống kê đất
đai; Vụ Môi trường; Vụ Thẩm định và Đánh giá tác động môi trường; Vụ
Khí tượng thuỷ văn; Vụ khoa học- Công nghệ; Vụ Kế hoạch- Tài chính; Vụ
Hợp tác quốc tế; Vụ Pháp chế; Vụ Tổ chức cán bộ; Vụ Thi đua- Khen
thưởng; Cục Quản lý tài nguyên nước; Cục Địa chất và Khoáng sản Việt
Nam; Cục Bảo vệ môi trường; Cục Đo đạc và Bản đồ; Thanh tra; Văn
phòng.
2. Chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của Sở tài nguyên và môi trường
Sở Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban
nhân dân (UBND) tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi
chung là UBND cấp tỉnh), giúp UBND cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý

nhà nước về tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, môi
trường, khí tượng thuỷ văn, đo đạc và bản đồ trên địa bàn tỉnh theo quy định
của pháp luật;
Sở Tài nguyên và Môi trường chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức,
biên chế và công tác của UBND cấp tỉnh, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra
về chuyên môn nghiệp vụ của Bộ Tài nguyên và Môi trường;
Thông tư Liên tịch số 01/2003/TTLT-BTNMT-BNV (sau đây gọi tắt
là Thông tư Liên tịch số 01/2003/TTLT-BTNMT-BNV) ngày 15/7/2003 của
Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và tổ chức của cơ quan chuyên môn giúp UBND quản lý nhà
nước về tài nguyên và môi trường ở địa phương đã quy định rất cụ thể nhiệm
vụ, quyền hạn của Sở Tài nguyên và Môi trường; cụ thể như sau:
Sở Tài nguyên và Môi trường được thành lập với những nhiệm vụ và
quyền hạn như sau:


Thứ nhất, trình UBND cấp tỉnh ban hành các quyết định về quản lý tài
nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng
thủy văn, đo đạc và bản đồ (sau đây gọi chung là tài nguyên và môi trường)
ở địa phương;
Thứ hai, trình UBND cấp tỉnh quy hoạch phát triển, chương trình, kế
hoạch dài hạn, 5 năm và hàng năm về tài nguyên và môi trường phù hợp với
quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội của địa phương;
Thứ ba, trình UBND cấp tỉnh quyết định các biện pháp bảo vệ tài
nguyên và môi trường ở địa phương; hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện;
Thứ tư, tổ chức, chỉ đạo thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật,
chương trình, quy hoạch, kế hoạch sau khi được xét duyệt; tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật và thông tin về tài nguyên và môi trường;
Thứ năm, về tài nguyên đất:
- Giúp UBND cấp tỉnh lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (SDĐ) và

điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch SDĐ cấp tỉnh; hướng dẫn, kiểm tra việc
thực hiện;
- Tổ chức thẩm định, trình UBND cấp tỉnh xét quy hoạch, kế hoạch
SDĐ của huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và kiểm tra việc thực hiện;
- Trình UBND cấp tỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất,
chuyển QSDĐ, chuyển mục đích SDĐ, cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho các
đối tượng thuộc thẩm quyền của UBND cấp tỉnh;
- Tổ chức thực hiện việc điều tra khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân
hạng đất và lập bản đồ địa chính; đăng ký đất đai, lập, quản lý, chỉnh lý hồ
sơ địa chính; thống kê, kiểm kê đất đai; ký hợp đồng thuê đất theo quy định
của pháp luật; đăng ký giao dịch bảo đảm về QSDĐ, tài sản gắn liền với đất
đối với các tổ chức;
- Tham gia định giá các loại đất ở địa phương theo khung giá, nguyên
tắc, phương pháp định giá các loại đất do Chính phủ quy định;
Thứ sáu, về tài nguyên khoáng sản:
- Trình UBND cấp tỉnh cấp, gia hạn hoặc thu hồi giấy phép khai thác,
chế biến khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, than bùn và khai
thác tận thu khoáng sản, chuyển nhượng quyền hoạt động khoáng sản thuộc
thẩm quyền của UBND cấp tỉnh theo quy định của pháp luật;


- Giúp UBND cấp tỉnh chủ trì phối hợp với các bộ, ngành có liên quan
để khoanh vùng cấm hoặc tạm thời cấm hoạt động khoáng sản trình Chính
phủ xem xét quyết định;
Thứ bảy, về tài nguyên nước và khí tượng thủy văn
- Trình UBND cấp tỉnh cấp, gia hạn, thu hồi giấy phép hoạt động điều
tra, thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn
nước theo phân cấp; kiểm tra việc thực hiện;
- Trình UBND cấp tỉnh cấp, gia hạn, thu hồi giấy phép hoạt động của
các công trình khí tượng thủy văn chuyên dùng tại địa phương; chỉ đạo kiểm

tra việc thực hiện sau khi được cấp phép;
- Tổ chức việc điều tra cơ bản, kiểm kê, đánh giá tài nguyên nước theo
hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường;
- Tham gia xây dựng phương án phòng chống, khắc phục hậu quả
thiên tai ở tỉnh;
Thứ tám, về môi trường
- Trình UBND cấp tỉnh cấp, gia hạn, thu hồi giấy chứng nhận đạt tiêu
chuẩn môi trường cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh và dịch vụ trên địa bàn
tỉnh theo phân cấp;
- Tổ chức lập báo cáo hiện trạng môi trường, xây dựng và tăng cường
tiềm lực trạm quan trắc và phân tích môi trường, theo dõi diễn biến chất
lượng môi trường tại địa phương theo hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi
trường;
- Thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án, cơ
sở theo phân cấp;
- Tổ chức thu phí bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật;
Thứ chín, về đo đạc và bản đồ
- Thẩm định và đề nghị cơ quan có thẩm quyền cấp phép hoặc ủy
quyền cấp phép hoạt động đo đạc và bản đồ cho các tổ chức và cá nhân đăng
ký hoạt động đo đạc và bản đồ ở địa phương;
- Trình UBND cấp tỉnh phê duyệt kết quả kiểm tra, thẩm định chất
lượng công trình, sản phẩm đo đạc và bản đồ địa chính, đo đạc và bản đồ
chuyên dụng của tỉnh;


- Tổ chức xây dựng hệ thống điểm đo đạc cơ sở chuyên dụng, thành
lập hệ thống bản đồ địa chính, bản đồ chuyên đề phục vụ các mục đích
chuyên dụng;
- Theo dõi việc xuất bản, phát hành bản đồ và kiến nghị với cơ quan
quản lý nhà nước về xuất bản việc đình chỉ phát hành, thu hồi các ấn phẩm

bản đồ có sai sót về thể hiện chủ quyền quốc gia, địa giới hành chính, địa
danh thuộc địa phương; ấn phẩm bản đồ có sai sót nghiêm trọng về kỹ thuật;
Thứ mười, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các dịch vụ
công trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường theo quy định của pháp luật;
Thứ mười một, chỉ đạo, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về quản lý
tài nguyên và môi trường ở cấp huyện và cấp xã;
Thứ mười hai, phối hợp với cơ quan có liên quan trong việc bảo vệ
các công trình nghiên cứu, quan trắc về khí tượng thủy văn, địa chất khoáng
sản, môi trường, đo đạc và bản đồ;
Thứ mười ba, thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp luật, giải quyết
các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm pháp luật về tài
nguyên và môi trường theo quy định của pháp luật;
Thứ mười bốn, tổ chức nghiên cứu, ứng dụng các tiên bộ khoa học,
công nghệ về quản lý tài nguyên và môi trường; tham gia hợp tác quốc tế;
xây dựng hệ thống thông tin, lưu trữ tư liệu về tài nguyên và môi trường
theo quy định của pháp luật;
Thứ mười năm, tham gia thẩm định các dự án, công trình có nội dung
liên quan đến lĩnh vực tài nguyên và môi trường;
Thứ mười sáu, báo cáo định kỳ 6 tháng, 1 năm và đột xuất tình hình
thực hiện nhiệm vụ về các lĩnh vực công tác được giao cho UBND cấp tỉnh
và Bộ Tài nguyên và Môi trường;
Thứ mười bảy, quản lý về tổ chức, cán bộ, công chức, viên chức và
người lao động; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức,
cán bộ xã, phường, thị trấn làm công tác quản lý về tài nguyên và môi
trường theo quy định của Bộ Tài nguyên và Môi trường và UBND cấp tỉnh;
Thứ mười tám, quản lý tài chính, tài sản của Sở theo quy định của
pháp luật và phân cấp của UBND cấp tỉnh.


3. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chuyên môn giúp UBND huyện,

quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh quản lý hà nước về tài nguyên
môi trường
Phòng Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chuyên môn thuộc
UBND huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là
cấp huyện) có chức năng quản lý nhà nước tài nguyên đất, tài nguyên nước,
tài nguyên khoáng sản, môi trường và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn
khác do UBND cấp huyện giao phó;
Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ
chức biên chế và công tác của UBND cấp huyện; đồng thời chịu sự chỉ đạo,
kiểm tra, hướng dẫn về công tác chuyên môn của Sở Tài nguyên và Môi
trường.
Theo quy định của Thông tư Liên tịch số 01/2003/TTCT-BTNMTBNV, Phòng Tài nguyên và Môi trường cấp huyện có những nhiệm vụ,
quyền hạn cụ thể sau đây:
- Trình UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là
UBND cấp huyện) các văn bản hướng dẫn việc thực hiện các chính sách, chế
độ và pháp luật của Nhà nước về quản lý tài nguyên và môi trường;
- Trình UBND cấp huyện quy hoạch, kế hoạch về tài nguyên và môi
trường và tổ chức thực hiện sau khi được xét duyệt;
- Giúp UBND cấp huyện lập quy hoạch SDĐ, kế hoạch SDĐ hàng
năm; điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch SDĐ và tổ chức kiểm tra việc thực
hiện sau khi được xét duyệt;
- Thẩm định và trình UBND cấp huyện xét duyệt quy hoạch, kế hoạch
SDĐ của xã, phường, thị trấn; kiểm tra việc thực hiện sau khi được xét
duyệt;
- Trinh UBND cấp huyện quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi
đất, chuyển mục đích SDĐ, chuyển QSDĐ, cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho
các đối tượng thuộc thẩm quyền của UBND cấp huyện và tổ chức thực hiện;
- Quản lý và theo dõi sự biến động về đất đai, cập nhật, chỉnh lý các
tài liệu về đất đai và bản đồ phù hợp với hiện trạng SDĐ theo hướng dẫn của
Sở Tài nguyên và Môi trường;



- Tổ chức thực hiện và hướng dẫn, kiểm tra việc thống kê, kiểm kê,
đăng ký đất đai; lập và quản lý hồ sơ địa chính; xây dựng hệ thống thông tin
đất đai;
- Hướng dẫn và kiểm tra việc sử dụng, bảo vệ tài nguyên đất, tài
nguyên khoáng sản, tài nguyên nước, bảo vệ môi trường; phòng chống, khắc
phục suy thoái, ô nhiễm, sự cố môi trường, hậu quả thiên tai;
- Lập báo cáo thống kê, kiểm kê đất đai và hiện trạng môi trường theo
định kỳ; thu thập, quản lý lưu trữ tư liệu về tài nguyên và môi trường;
- Chủ trì hoặc phối hợp với các cơ quan có liên quan trong việc kiểm
tra và thanh tra việc thi hành pháp luật; giúp UBND cấp huyện giải quyết
các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về tài nguyên và môi trường theo quy định
của pháp luật;
- Tổ chức thực hiện các dịch vụ công trong lĩnh vực tài nguyên và môi
trường theo quy định của pháp luật;
- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, thông tin về tài nguyên
và môi trường;
- Báo cáo định kỳ 3 tháng, 6 tháng, 1 năm và đột xuất tình hình thực
hiện nhiệm vụ về các lĩnh vực công tác được giao cho UBND cấp huyện và
Sở Tài nguyên và Môi trường;
- Quản lý cán bộ, công chức, viên chức; hướng dẫn, kiểm tra chuyên
môn, nghiệp vụ đối với cán bộ địa chính xã, phường, thị trấn. Tham gia với
Sở Tài nguyên và Môi trường trong việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, viên chức làm công tác quản lý tài nguyên và môi trường và cán
bộ địa chính xã, phường, thị trấn;
4. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cán bộ địa chính cấp xã
4.1. Chức năng, nhiệm vụ của cán bộ địa chính xã
Điều 65 Luật đất đai năm 2003 quy định: "1. Xã, phường, thị trấn có
cán bộ địa chính; 2. Cán bộ địa chính xã, phường, thị trấn có trách nhiệm

giúp UBND xã, phường, thị trấn trong việc quản lý đất đai tại địa phương; 3.
Cán bộ địa chính xã, phường, thị trấn do UBND huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm". Tiếp đó, Thông tư Liên tịch số
01/2003/TTCT-BTNMT-BNV đề cập về vấn đề này như sau: Cán bộ địa
chính xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) giúp UBND cấp xã


thực hiện quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường trong phạm vi xã,
chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Tài
nguyên và Môi trường và cơ quan chuyên môn giúp UBND cấp huyện quản
lý nhà nước về tài nguyên và môi trường;
4.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của cán bộ địa chính xã
Cán bộ địa chính xã có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
- Lập văn bản để UBND cấp xã trình UBND cấp huyện về quy hoạch
SDĐ, kế hoạch SDĐ hàng năm, giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển
QSDĐ, chuyển mục đích SDĐ, cấp giấy chứng nhận QSDĐ theo quy định
của pháp luật;
- Trình UBND cấp xã kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện quy
hoạch, kế hoạch SDĐ được xét duyệt và theo dõi kiểm tra việc thực hiện;
- Thẩm định, xác nhận hồ sơ để UBND cấp xã cho thuê đất, chuyển
đổi QSDĐ, đăng ký giao dịch bảo đảm đối với QSDĐ, tài sản gắn liền với
đất cho hộ gia đình, cá nhân theo quy định của pháp luật;
- Thực hiện việc đăng ký, lập và quản lý hồ sơ địa chính; theo dõi,
quản lý biến động đất đai; chỉnh lý hồ sơ địa chính; thống kê, kiểm kê đất
đai;
- Tham gia hòa giải, giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về tài
nguyên và môi trường theo quy định của pháp luật. Phát hiện các trường hợp
vi phạm pháp luật về quản lý tài nguyên và môi trường, kiến nghị với
UBND cấp xã và các cơ quan có thẩm quyền xử lý;
- Tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện pháp luật về bảo vệ tài nguyên

và môi trường; tổ chức các hoạt động về vệ sinh môi trường trên địa bàn;
- Quản lý dấu mốc đo đạc và mốc địa giới; bảo quản tư liệu về đất đai,
đo đạc và bản đồ;
- Báo cáo định kỳ và đột xuất tình hình thực hiện nhiệm vụ về các lĩnh
vực công tác được giao cho UBND cấp huyện và cơ quan chuyên môn giúp
UBND cấp huyện quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường.
Như vậy, vai trò quản lý đất đai của cán bộ địa chính xã là rất quan
trọng, bởi đây là cấp quản lý trực tiếp theo dõi mọi biến động về đất đai của
người SDĐ ở cơ sở. Nếu cấp cơ sở hoàn thành tốt nhiệm vụ thì việc quản lý
đât đai sẽ đi vào nề nếp và không còn tình trạng đẩy việc lên cơ quan hành


chính cấp trên gây ách tắc ở nhiều khâu quản lý. Tuy nhiên hiện nay, đội ngũ
cán bộ địa chính xã còn thiếu về số lượng, yếu về chuyên môn, nghiệp vụ và
luôn biến động. Theo thống kê hiện trạng nguồn nhân lực thực hiện cuối
năm 2006 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, thì số cán bộ địa chính xã là
11.302 người trên tổng số 10.731 xã, phường, thị trấn. Như vậy, bình quân
mỗi xã chỉ có hơn 1 cán bộ địa chính; trong đó có rất nhiều trường hợp sau
một thời gian làm việc được điều động sang đảm nhiệm công tác khác (902
trường hợp). Vì vậy để nâng cao hiệu quả công tác quản lý đất đai từ cấp cơ
sở, thì cần có cơ chế sử dụng hợp lý và ổn định đội ngũ cán bộ này tránh sự
biến động, xáo trộn.
5. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của hệ thống cơ quan dịch vụ về đất
đai
5.1. Văn phòng đăng ký QSDĐ
Văn phòng đăng ký QSDĐ được thành lập ở cấp tỉnh và cấp huyện là
cơ quan dịch vụ công hoạt động theo loại hình đơn vị sự nghiệp có thu, có
con dấu riêng, được mở tài khoản theo quy định hiện hành với chức năng tổ
chức thực hiện đăng ký SDĐ và biến động về SDĐ, quản lý hồ sơ địa chính
và giúp cơ quan tài nguyên và môi trường cùng cấp trong việc thực hiện thủ

tục hành chính về quản lý và SDĐ theo quy định của pháp luật;
5.1.1. Nhiệm vụ và quyền hạn của Văn phòng đăng ký QSDĐ cấp tỉnh
Văn phòng đăng ký QSDĐ cấp tỉnh được thành lập với chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau đây:
- Giúp Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường làm đầu mối thực hiện
các thủ tục hành chính về cấp giấy chứng nhận QSDĐ, đăng ký QSDĐ và
chỉnh lý biến động về SDĐ trên địa bàn tỉnh đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước
ngoài;
- Lập và quản lý bộ hồ sơ địa chính gốc đối với tất cả các thửa đất
thuộc phạm vi địa giới hành chính cấp tỉnh, cấp bản sao hồ sơ địa chính từ
bản gốc hồ sơ địa chính cho Văn phòng đăng ký QSDĐ cấp huyện và
UBND xã, phường, thị trấn;
- Chỉnh lý hồ sơ địa chính gốc khi có biến động về SDĐ theo thông
báo của Phòng Tài nguyên và Môi trường, Văn phòng đăng ký QSDĐ cấp


huyện; chuyển trích hồ sơ địa chính gốc đã chỉnh lý cho Văn phòng đăng ký
QSDĐ cấp huyện và UBND xã, phường thị trấn để chỉnh lý bản sao hồ sơ
địa chính;
- Cung cấp số liệu địa chính cho cơ quan có chức năng xác định mức
thu tiền SDĐ, tiền thuê đất, các loại thuế có liên quan đến đất đai đối với
người SDĐ là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài;
- Lưu trữ, quản lý bản sao giấy chứng nhận QSDĐ và các giấy tờ khác
hình thành trong quá trình thực hiện thủ tục hành chính khi thực hiện việc
đăng ký QSDĐ, cấp giấy chứng nhận QSDĐ;
- Thực hiện các thống kê, kiểm kê đất đai và lập bản đồ hiện trạng
SDĐ cấp tỉnh;
- Xây dựng, quản lý và phát triển hệ thống thông tin đất đai; cung cấp

bản đồ địa chính, trích lục bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính, các
thông tin khác về đất đai phục vụ yêu cầu quản lý Nhà nước và nhu cầu cộng
đồng;
- Thực hiện việc thu phí, lệ phí trong quản lý và SDĐ; thực hiện các
dịch vụ có thu về cung cấp thông tin đất đai;
- Thực hiện chế độ báo cáo theo quy định hiện hành về tình hình thực
hiện nhiệm vụ về các lĩnh vực công tác được giao cho Sở Tài nguyên và Môi
trường;
- Quản lý viên chức, người lao động và tài chính, tài sản thuộc Văn
phòng theo quy định của Pháp luật
5.1.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Văn phòng đăng ký QSDĐ cấp
huyện
Văn phòng đăng ký QSDĐ cấp huyện được thành lập do nhu cầu thực
tế của từng địa phương. Khi thấy cần thiết, Chủ tịch UBND cấp huyện ra
quyết định thành lập Văn phòng đăng ký QSDĐ. Văn phòng đăng ký QSDĐ
cấp huyện được thành lập thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ
thể sau:
- Giúp Trưởng Phòng Tài nguyên và Môi trường làm đầu mối thực
hiện các thủ tục hành chính về cấp giấy chứng nhận QSDĐ, thực hiện đăng
ký QSDĐ và chỉnh lý biến động về SDĐ theo quy định trên địa bàn huyện


đối với hộ gia đình, cá nhân, người Việt nam định cư ở nước ngoài mua nhà
ở gắn với quyền sử dụng đất ở, cộng đồng dân cư;
- Lưu trữ quản lý và chỉnh lý toàn bộ bản sao hồ sơ địa chính đối với
tất cả các thửa đất thuộc phạm vi địa giới hành chính huyện theo hồ sơ địa
chính gốc đã chỉnh lý do Văn phòng đăng ký QSDĐ cấp tỉnh gửi tới; hướng
dẫn kiểm tra việc lưu trữ, quản lý và chỉnh lý toàn bộ bản sao hồ sơ địa
chính của UBND xã, phường, thị trấn;
- Cung cấp số liệu địa chính cho cơ quan chức năng, xác định mức thu

tiền SDĐ, tiền thuê đất, các loại thuế có liên quan đến đất đai đối với người
SDĐ là hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mua nhà
ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở, cộng đồng dân cư;
- Lưu trữ, quản lý bản sao Giấy chứng nhận QSDĐ và các giấy tờ
khác trong quá trình thực hiện thủ tục theo quy định;
- Thực hiện trích đo địa chính thửa đất: thống kê, kiểm kê đất đai và
lập bản đồ hiện trạng SDĐ cấp huyện;
- Cung cấp bản đồ địa chính, trích lục bản đồ địa chính, trích sao hồ
sơ địa chính và các thông tin khác về đất đai phục vụ yêu cầu quản lý Nhà
nước và yêu cầu của cộng đồng;
- Thực hiện thu phí, lệ phí trong quản lý, SDĐ đai theo quy định của
pháp luật, thực hiện các dịch vụ có thu về cung cấp thông tin đất đai, trích
lục bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính;
- Thực hiện chế độ báo cáo theo quy định hiện hành về tình hỡnh thực
hiện nhiệm vụ, các lĩnh vực công tác được giao đối với cấp trên;
- Quản lý công chức, viên chức, người lao động và tài chính, tài sản
thuộc Văn phòng theo quy định của Pháp luật
Công tác cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được thực hiện từ năm
1987. Trong thời gian qua các địa phương đã và đang tập trung thực hiện
theo Nghị quyết số 07/2007/QH12, đến năm 2009, thực hiện Nghị định số
88/2009/NĐ-CP của Chính phủ, ngành Quản lý đất đai tổ chức cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất. Việc thống nhất cấp một loại Giấy chứng nhận đã tạo thuận lợi cho
việc chuyển nhượng nhà đất, góp phần thúc đẩy thị trường bất động sản phát
triển và hoạt động lành mạnh.


Đến nay,cả nước đã cấp được 30.248.000 Giấy chứng nhận với diện
tích 16.976.000ha. Trong đó:đất sản xuất nông nghiệp đã được cấp GCN đạt
86,0 % (14.428.824 giấy/7.635.913 ha);đất lâm nghiệp đạt 72,0% (1.212.832

giấy/8.841.606 ha); đất nuôi trồng thuỷ sản đạt 74,8 % (963.052
giấy/500.786 ha); đất ở nông thôn đạt 81,0% (11.145.566 giấy/409.374 ha);
đất ở đô thị đạt 71,5 % (3.448.199 giấy/79.916 ha);đất chuyên dùng đạt 39,6
% (114.319 giấy/213.061 ha); đất cơ sở tôn giáo đạt 42,4 % (14.315
giấy/5.572 ha)
5.2. Tổ chức phát triển quỹ đất
Tổ chức phát triển quỹ đất lần đầu tiên được thành lập theo quy định
của Luật Đất đai 2003 ( khoản 1 Điều 41) nhằm chuyển công tác đền bù giải
phóng mặt bằng từ cơ chế hành chính sang cơ chế kinh tế, và nhằm phúc
đáp các yêu cầu của việc quản lý đất đai trong nền kinh tế thị trường;
Tổ chức phát triển quỹ đất hoạt động theo hình thức đơn vị sự nghiệp
có thu hoặc doanh nghiệp nhà nước thực hiện nhiệm vụ công ích do UBND
cấp tỉnh quyết định thành lập để thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
đối với các trường hợp Nhà nước thu hồi đất sau khi quy hoạch, kế hoạch
SDĐ được xét duyệt và quản lý quỹ đất thuộc khu vực đô thị và khu vực có
quy hoạch phát triển đô thị mà Nhà nước đã thu hồi nhưng chưa giao, chưa
cho thuê đất.
5.2.1. Nhiệm vụ của tổ chức phát triển quỹ đất
a. Về tạo quỹ đất
Phối hợp với UBND cấp huyện tổ chức thực hiện việc bồi thường, hỗ
trợ tái định cư để giải phóng mặt bằng theo quy định của UBND cấp tỉnh đối
với khu đất đã có quy hoạch, kế hoạch SDĐ được duyệt, công bố mà chưa
có dự án đầu tư, và các công trình;
Nhận chuyển nhượng QSDĐ trong khu vực có quy hoạch phải thu hồi
đất mà người SDĐ có nhu cầu chuyển đi nơi khác và tự nguyện chuyển
nhượng trước khi Nhà nước quyết định thu hồi đất.
b. Về quản lý quỹ đất
Trung tâm phỏt triển quỹ đất chịu trỏch nhiệm tổ chức quản lý quỹ đất
đã có quyết định thu hồi của UBND cấp tỉnh đó là:



- Quỹ đất được thu hồi là các khu đất đã có quy hoạch, kế hoạch SDĐ
được công bố, được phờ duyệt nhưng chưa có công trình hoặc dự án đầu tư
triển khai thực hiện;
- Quỹ đất do Nhà nước thu hồi theo quy định tại cỏc khoản 2, 3, 4, 5,
6, 7, 8, 9, 10, 11, và 12 Điều 38 Luật Đất đai 2003 thuộc khu vực đô thị và
khu vực đã có quy hoạch; (iii) Quỹ đất do chủ đầu tư bàn giao cho Nhà nước
sau khi được giao đất để làm dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà có nghĩa
vụ chuyển nhượng theo chỉ đạo của UBND cấp tỉnh.
c. Về đầu tư
Tổ chức phát triển quỹ đất thực hiện việc đầu tư các dự án tái định cư
do UBND cấp tỉnh giao cho để phục vụ giải phóng mặt bằng; các khu đất có
quyết định thu hồi của cơ quan nhà nước cú thẩm quyền và giao cho Tổ chức
phỏt triển quỹ đất quản lý;
Giới thiệu địa điểm đầu tư, vận động đầu tư vào các khu đất được giao
theo đúng quy hoạch, kế hoạch SDĐ đã được phê duyệt;
Bàn giao đất đang quản lý theo quyết định của UBND cấp tỉnh và theo
đúng trình tự, thủ tục quy định cho người được giao đất, cho thuê đất hoặc
trúng thầu giá QSDĐ;
Thực hiện công tác điều tra, khảo sát, đo đạc, lập quy hoạch, kế hoạch
và nghiệm thu, thanh quyết toán theo đúng các trình tự, thủ tục về đầu tư
hiện hành.
d. Những nhiệm vụ khác
Sử dụng quỹ đất được giao quản lý làm quỹ đất dự trữ để điều tiết các
nhu cầu về đất đai theo quyết định của UBND cấp tỉnh phù hợp với quy
hoạch, kế hoạch SDĐ đã được xét duyệt;
Tổ chức đấu giá QSDĐ theo quyết định của UBND cấp tỉnh đối với
đất được giao quản lý;
Báo cáo hoạt động cho UBND cấp tỉnh và Sở Tài nguyên và Môi
trường theo đúng quy định;

Quản lý, sử dụng viên chức, người lao động và tài chính, tài sản của
Tổ chức theo đúng quy định của pháp luật;
5.2.2. Quyền hạn của Tổ chức phát triển quỹ đất


Phối hợp với các sở, ngành thuộc UBND cấp tỉnh và UBND cấp
huyện tổ chức việc thu hồi các khu đất theo đúng trình tự, thủ tục quy định
của Luật Đất đai 2003 và Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm
2004 của Chính Phủ về thi hành Luật Đất đai;
Được Văn phòng đăng ký QSDĐ cấp tỉnh và Văn phòng đăng ký
QSDĐ cấp huyện cung cấp, trích lục bản đồ địa chính mới nhất đã được
pháp lý hoá (hoặc được trích đo địa chính khu vực đối với nơi chưa có bản
đồ địa chính, lập bản đồ trích đo ranh bao đối với khu đất không nằm trọn
thửa đất trên bản đồ địa chính do đơn vị có chức năng thực hiện) và trích sao
hồ sơ địa chính khu đất có quyết định thu hồi để lập phương án bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư và giải phóng mặt bằng;
Ký kết các hợp đồng điều tra, khảo sát, đo đạc, cắm mốc địa chính và
các công việc có liên quan theo quy định hiện hành;
Tổ chức đấu thầu, ký kết hợp đồng kinh tế, hợp đồng mua sắm và hợp
đồng khác có liên quan theo đúng định mức, đơn giá, trình tự và thủ tục
nghiệm thu, thanh quyết toán của Nhà nước và nguồn kinh phí được duyệt;
Như vậy, với các nhiệm vụ nêu trên, Tổ chức phát triển quỹ đất sẽ bóc
tách dần chức năng quản lý hành chính nhà nước với chức năng kinh doanh
trong lĩnh vực đất đai. Việc ra đời Tổ chức phát triển quỹ đất tạo điều kiện
thuận lợi cho việc triển khai các dự án đầu tư trong và ngoài nước sớm đi
vào hoạt động trong thời gian ngắn nhất. Bởi lẽ, hiện nay phần lớn các dự án
triển khai chậm tiến độ do gặp phải khú khăn, vướng mắc trong công tác
thường, giải phóng mặt bằng. Người bị thu hồi đất đai tiền bồi thường quá
cao so với tổng định mức vốn được Nhà nước phê duyệt sử dụng để bồi
thường. Để khắc phục bất cập này, việc thành lập một tổ chức chuyên trách

về giải phóng mặt bằng, quản lý quỹ đất sau thu hồi là một giải pháp hợp lý
trong quá trình cải cách hành chính và là một phương thức hữu hiệu để khai
thác triệt để nguồn tài nguyên đất.
5.3. Tổ chức hoạt động tư vấn trong quản lý và SDĐ
Tổ chức hoạt động tư vấn trong quản lý và SDĐ là tổ chức sự nghiệp
do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập hoặc doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo Luật Doanh nghiệp


và được cấp phép hoạt động tư vấn trong lĩnh vực đất đai. Hoạt động tư vấn
bao gồm những lĩnh vực sau:
5.3.1. Tư vấn về giá đất
Tổ chức thực hiện tư vấn giá đất trong việc xây dựng giá đất tại các
địa phương, tư vấn giá đất khởi điểm để đấu giá QSDĐ theo yêu cầu của hội
đồng đấu giá QSDĐ hoặc của Toà án nhân dân, tư vấn giá đất cho người
SDĐ, cho các tổ chức tài chính, tín dụng trong việc thực hiện các giao dịch
bảo đảm về QSDĐ;
Khi hoạt động tư vấn giá đất, các tổ chức tư vấn sẽ đàm phán ký kết
hợp đồng; yêu cầu tổ chức, cá nhân đã ký hợp đồng tư vấn về giá đất cung
cấp thông tin, tài liệu cần thiết cho việc xác định giá đất; thu tiền tư vấn giá
đất; thuê chuyên gia tư vấn hợp đồng; tham gia các hiệp hội nghề nghiệp tư
vấn về giỏ đất trong nước và quốc tế.
5.3.2. Tư vấn lập quy hoạch, kế hoạch SDĐ
Hoạt động dịch vụ tư vấn về quy hoạch, kế hoạch SDĐ thực hiện cho
các Sở Tài nguyên và Môi trường, phòng Tài nguyên và Môi trường và
UBND cấp xã. Khi địa phương có các dự án đầu tư hoặc cần một bản quy
hoạch hợp lý nhằm khai thác triệt để diện tích đất trên địa bàn; đồng thời xây
dựng hạ tầng cơ sở thì cần đến sự tư vấn về lập quy hoạch, kế hoạch SDĐ;
Các tổ chức thực hiện dịch vụ này được thành lập khi thỏa món cỏc
điều kiện do pháp luật quy định về năng lực, trình độ, đội ngũ cán bộ chuyên

môn có chứng chỉ hành nghề tư vấn về lập quy hoạch, kế hoạch SDĐ;
5.3.3. Hoạt động dịch vụ và tư vấn về đo đạc, lập bản đồ địa chính
Hoạt động dịch vụ tư vấn về đo đạc, lập bản đồ địa chính được thực
hiện cho Sở Tài nguyên và Môi trường, phòng Tài nguyên và Môi trường.
Đây là một hoạt động mang tính chất nghiệp vụ và chuyên môn cao đòi hỏi
máy móc thiết bị hiện đại, chuẩn xác. Việc ra đời tổ chức tư vấn về lĩnh vực
này chính là xã hội hóa công tác đo đạc, lập bản đồ địa chính và đáp ứng nhu cầu
đa dạng của xã hội.
5.3.4. Hoạt động dịch vụ về thông tin đất đai
Tổ chức hoạt động dịch vụ thông tin đất đai thực hiện các yêu cầu của
tổ chức, cá nhân có nhu cầu nắm bắt những thông tin về quy hoạch, kế hoạch
SDĐ, về trích lục bản đồ địa chính ...;


Đây là một hình thức dịch vụ nhằm tăng khả năng đáp ứng nhu cầu
của người dân trong thực hiện thủ tục hành chính đặc biệt là thủ tục liên
quan đến lĩnh vực đất đai.
5.3.5. Trách nhiệm quy định điều kiện và thủ tục cấp phép
Trách nhiệm quy định điều kiện và thủ tục cấp phép hoạt động, đăng
ký hoạt động dịch vụ trong quản lý và SDĐ được pháp luật đất đai quy định
cụ thể như sau:
- Bộ Tài chính quy định điều kiện và thủ tục cấp phép hoạt động, đăng
ký hoạt động tư vấn giá đất;
- Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định điều kiện hoạt động, đăng ký
hoạt động tư vấn về lập quy hoạch, kế hoạch SDĐ, dịch vụ về thông tin đất
đai; điều kiện và thủ tục cấp phép hoạt động, đăng ký hoạt động dịch vụ về
đo đạc và bản đồ địa chính;
Tóm lại: Việc thành lập các loại hình tổ chức dịch vụ trong quản lý và
SDĐ đai đã làm giảm áp lực cho các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai
trong việc giải quyết các thủ tục hành chính liên quan đến việc thực hiện các

quyền của người SDĐ theo hướng đơn giản, tiện lợi, dân chủ, công khai và
minh bạch. Đây là một điểm “sáng” của Luật Đất đai 2003 và của quá trình
cải cách hành chính của nước ta.
6. Thực trạng hoạt động của hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở nước ta
6.1. Những ưu điểm
Trong quá trình vừa xây dựng vừa phát triển, ngành Quản lý đất đai Việt
Nam từng bước trưởng thành và có những đóng góp to lớn, đáp ứng tốt nhất
mọi yêu cầu phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc qua các
thời kỳ. Ngành Quản lý đất đai Việt Nam có vị trí, vai trò quan trọng và tác
động mạnh mẽ, tích cực đến mọi mặt về kinh tế, chính trị - xã hội, an ninh quốc phòng và môi trường:
6.1.1. Đối với việc thu ngân sách và tăng trưởng kinh tế
Thông qua hoạt động đăng ký đất đai, cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, Ngành đã có những đóng góp
đáng kể cho việc thu ngân sách, tăng trưởng kinh tế, trong đó đất đai đã
tham gia trực tiếp như một nguồn vốn nội lực thông qua thị trường bất động
sản và gián tiếp thông qua các chính sách pháp luật đất đai làm tăng tỷ trọng


đóng góp của các ngành như công nghiệp và xây dựng, sản xuất nông
nghiệp, thương mại dịch vụ,...
Từ năm 1994, nguồn thu từ đất chủ yếu từ thuế sử dụng đất nông
nghiệp, thuế nhà đất và thuế chuyển quyền sử dụng đất, tổng thu chỉ khoảng
2.000 tỷ đồng mỗi năm. Tổng thu từ đất năm 1999 là 3.641 tỷ đồng, trong đó
từ thuế sử dụng đất nông nghiệp là 1.286 tỷ đồng, từ thuế nhà đất 295 tỷ
đồng, từ thuế chuyển quyền sử dụng đất 327 tỷ đồng, từ tiền sử dụng đất 376
tỷ đồng, từ tiền thuê đất 339 tỷ đồng, từ bán nhà sở hữu Nhà nước 478 tỷ
đồng.Từ khi Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực thi hành, các khoản thu từ
đất có rất nhiều thay đổi. Tổng thu từ đất năm 2004 là 17.594 tỷ đồng, trong
đó: thuế sử dụng đất nông nghiệp là 130 tỷ đồng; thuế nhà đất 438 tỷ đồng;
thuế chuyển quyền sử dụng đất 640 tỷ đồng; tiền sử dụng đất 14.202 tỷ

đồng; tiền thuê đất 846 tỷ đồng; bán nhà sở hữu Nhà nước 1.338 tỷ đồng.
Lúc này nguồn thu chính là tiền sử dụng đất, chiếm tới 80% tổng thu từ đất.
Hiện nay, hàng năm nguồn thu từ giao đất, cho thuê đất chiếm khoảng
7,25% tổng thu ngân sách. Năm 2009,thu khoảng 32.905 tỷ đồng, trong đó:
thuế sử dụng đất nông nghiệp 67 tỷ đồng; lệ phí trước bạ 1.337 tỷ đồng; thuế
nhà đất 1.203 tỷ đồng; thuế chuyển quyền sử dụng đất 262 tỷ đồng; tiền sử
dụng đất 36.304 tỷ đồng; tiền thuê đất 2.625 tỷ đồng; bán nhà thuộc sở hữu
Nhà nước 1.471 tỷ đồng; thuế thu nhập doanh nghiệp đối với thu nhập từ
chuyển quyền sử dụng đất 1.083 tỷ đồng; thuế thu nhập cá nhân đối với thu
nhập từ chuyển quyền sử dụng đất 1.053 tỷ đồng. Với chủ trương đẩy mạnh
kinh tế hóa ngành tài nguyên và môi trường, nguồn lực đất đai đang và sẽ là
một trong những nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, phấn đấu đến năm 2020 mức thu đạt 20 - 22% tổng thu ngân sách.
6.1.2. Đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội
Từ năm 1979, Chính phủ có quyết định về việc tận dụng đất nông
nghiệp, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 100/CT-TW và đến Đại hội Đảng VI, Đại
hội của đổi mới (tháng 12/1986) đã giải quyết được những vấn đề cơ bản về
quan hệ đất đai thời gian trước đó. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường theo
định hướng Xã hội chủ nghĩa, đất đai đã góp phần đáng kể vào sự ổn định xã
hội và phát triển kinh tế đất nước. Sau Khoán 10, chính sách đất đai không
chỉ là mệnh lệnh hành chính mà còn được xem xét dưới góc độ kinh tế đã


tạo ra nguồn nội lực to lớn thúc đẩy sản xuất phát triển, thu hút nguồn vốn
đầu tư nước ngoài. Kết quả với trên 3/4 diện tích đất tự nhiên của cả nước đã
được giao cho các đối tượng sử dụng là thành tựu lớn nhất của ngành Quản
lý đất đai đạt được trong những năm qua. Bước chuyển biến rõ nét nhất là từ
một nước thiếu lương thực, nước ta đã sản xuất đảm bảo đủ lương thực tiêu
dùng trong nước,có dự trữ chiến lược và xuất khẩu, đưa nước ta lên vị trí
hàng đầu về xuất khẩu gạo trên thế giới.

- Góp phần xoá đói giảm nghèo: Phần lớn các hộ nghèo hiện nay ở
nông thôn là những hộ có ít đất hoặc không có đất sản xuất do chuyển
nhượng, “gán nợ”, hoặc bỏ hoang hóa, sử dụng kém hiệu quả do thiếu vốn
đầu tư ... Chính vì vậy, chính sách quản lý đất đai có vai trò đặc biệt quan
trọng đối với việc xoá đói giảm nghèo không chỉ trước mắt mà còn cả lâu
dài.Nâng cao an toàn pháp lý về quyền sử dụng đất thông qua việc đăng ký,
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là một trong các giải pháp quan
trọng trong việc tạo vốn từ đất đai; người sử dụng đất có thể góp vốn bằng
quyền sử dụng đất, thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn đầu tư cho sản
xuất, tạo việc làm, nâng cao đời sống.
- Góp phần đảm bảo an ninh lương thực: Hiện nay, cả nước có khoảng
75% số dân sống ở vùng nông thôn, sản xuất lương thực là chủ yếu (chiếm
tỷ trọng 63,9% trong tổng giá trị sản xuất ngành trồng trọt). Nếu như trong
các năm từ 1976 - 1980, Nhà nước phải nhập 5,6 triệu tấn gạo thì năm 2005,
nước ta đã xuất khẩu được 5 triệu tấn, có tổng tích lượng dự trữ quốc gia
khoảng 605.430 tấn và năm 2009 số lượng gạo xuất khẩu là khoảng 6 triệu
tấn. Đếnnăm 2010, với diện tích đất ruộng lúa của nước ta có trên 3,86 triệu
ha, sản lượng thóc sẽ đạt 38,6 triệu tấn, đảm bảo mức dự trữ cần thiết.
Thông qua hệ thống quản lý ngành từ Trung ương tới địa phương, việcquản
lý chặt chẽ diện tích đất trồng lúa nước ở mức trên dưới 4 triệu ha, ngành
Quản lý đất đai Việt Nam đang tiếp tục góp phần đảm bảo vững chắc chiến
lược an ninh lương thực quốc gia trong thời kỳ 2010 - 2020 và những thập
niên tiếp theo.
6.2. Những nhược điểm, tồn tại
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hệ thống cơ quan quản lý nhà
nước về đất đai còn bộc lộ những tồn tại, bất cấp ảnh hưởng trực tiếp đến


hiệu quả công tác quản lý nhà nước về đất đai. Những tồn tại, bất cập này
được biểu hiện trên các khía cạnh cơ bản sau đây:

Thứ nhất, về nhiệm vụ, quyền hạn
+ Về nhiệm vụ, quyền hạn đã được xác định
- Cần làm rõ nội dung, nhiệm vụ chủ trì quản lý tổng hợp tài nguyên
nước lưu vực sông, dải ven biển với nhiệm vụ quản lý môi trường theo lưu
vực sông và dải ven biển;
- Cần làm rõ nội dung, thẩm quyền, nhiệm vụ quản lý nhà nước về
bảo vệ môi trường với quản lý nhà nước về bảo vệ tài nguyên nước;
- Cần làm rõ nội dung, nhiệm vụ tổ chức, quản lý các hoạt động quan
trắc, điều tra cơ bản các số liệu về hiện trạng môi trường (bao gồm cả môi
trường biển) với điều tra cơ bản về số lượng và chất lượng tài nguyên đất, tài
nguyên nước, tài nguyên khoáng sản;
+ Về nhiệm vụ cần bổ sung
Cuối năm 2005, Thủ tướng Chính phủ có phân công Bộ Tài nguyên
và Môi trường thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về dự báo, cảnh báo
động đất và sóng thần. Như vậy, khi sửa đổi Nghị định số 91/2002/NĐ-CP
cũng phải bổ sung thêm các nội dung này. Tuy nhiên, vấn đề này thực chất
chỉ mang bản chất của một dịch vụ mà Nhà nước cần gánh vác hơn là một
nhiệm vụ quản lý nhà nước và phải được tính đến một cách đầy đủ trong
mối quan hệ với các nhiệm vụ về dự báo, cảnh báo các thảm họa khác như
cháy rừng, cháy nổ, lũ lụt, sạt lở đất v.v có liên quan đến trách nhiệm của
một số bộ như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công nghiệp,
Bộ Công an v.v. Như vậy, nếu không xác định rõ nội dung các nhiệm vụ
quản lý nhà nước này thì cũng có thể có những nguy cơ tiếp tục chồng chéo
khác nếu một bộ muốn đứng ra giữ vai trò chủ trì, phối hợp thực hiện tất cả
các nhiệm vụ này;
Thứ hai, về cơ cấu, tổ chức
+ Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của nhiều tổ chức, cơ quan trực
thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường là trùng lặp nhau mặc dù nguyên tắc
“một việc chỉ giao cho một tổ chức, cơ quan thực hiện” đã được thống nhất
áp dụng trong toàn hệ thống, lý do là việc thành lập nhiều tổ chức, cơ quan,

đơn vị trong một thời gian ngắn vì vậy việc sắp xếp còn nhiều bất cập, đơn


cử chỉ hoạt động thống kê mà có vài cơ quan cùng đồng thời thực hiện. Hơn
nữa do các cơ quan quản lý đất đai phải quản lý nhiều ngành, đa lĩnh vực
nên cũng gặp khó khăn trong điều hành nội bộ, chỉ đạo, hướng dẫn địa
phương;
+ Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của nhiều cơ quan sau quá trình
hoạt động bộc lộ nhiều nội dung chưa hợp lý, cần được nghiên cứu để sửa
đổi và bổ sung. Nguyên nhân là do các cơ quan soạn thảo có quá ít thời gian
để nắm rõ tình hình thực tiễn để đề ra những quy định phù hợp cho từng cơ
quan ở những vị trí và nhiệm vụ khác nhau;
+ Cơ cấu tổ chức từ trung ương đến địa phương chưa thật hoàn chỉnh
và ổn định vẫn còn mang dáng dấp “lắp ghép”. Ngay Bộ Tài nguyên và Môi
trường được thành lập dựa trên sát nhập của Tổng cục Địa chính, Cục
Khoáng sản, Tổng cục Khí tượng thuỷ văn, Cục Môi trường ...;
Thứ ba, trình độ của cán bộ, công chức còn chưa theo kịp công tác
quản lý, chưa đáp ứng nhu cầu của công cuộc cải cách hành chính nhà nước.
Theo thống kê, ở tất cả các cấp quản lý đều xảy ra hiện tượng thiếu nguồn
nhân lực, đặc biệt là lực lượng cán bộ địa chính cấp xã, điều này cần thời
gian để khắc phục. Hơn nữa cán bộ, công chức trong các đơn vị này làm
nhiều việc, thu nhập lại thấp, tiền lương không đủ sống dễ dẫn đến tiêu cực;
Thứ tư, cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện làm việc của các cơ
quan còn thiếu và chưa đồng bộ cũng là một hạn chế đến việc thực hiện
nhiệm vụ. Nguồn tài chính để thực hiện việc hiện đại hoá, ứng dụng khoa
học kỹ thuật lại đang rất thiếu;
Thứ năm, do có nhiều tổ chức, cơ quan, đơn vị được thành lập dẫn đến
việc lựa chọn lãnh đạo một số đơn vị gặp nhiều khó khăn. Có nhiều lãnh đạo
còn thiếu kinh nghiệm, một số bộ phận còn thiếu quyết tâm trong công cuộc
cải cách hành chính;




×