Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Nghiên cứu công nghệ sản xuất chế phẩm nấm bạch cương beauveria bassiana để ứng dụng phòng trừ sâu hại cây trồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.05 KB, 60 trang )

Lời cảm ơn

Trước hết tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới
PGS – TS Phạm Thị Thùy, người thầy đã tận tình chỉ bảo giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình thực tập.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa CNSH
trường ĐH Phương Đông và Ban lãnh đạo Viện Bảo vệ thực vật đã
tạo điều kiện và giúp đỡ tôi hoàn thành tốt quá trình thực tập
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè cùng lớp và đặc
biệt là các bạn cùng thực tập tại phòng nấm côn trùng thuộc Trung
tâm đấu tranh sinh học – Viên Bảo vệ thực vật đã động viên và giúp
đỡ tôi trong cả quá trình thực tập.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn tất cả những sự giúp đỡ
quý báu nói trên

Hà Nội, Ngày 15 tháng 5 năm 2010
Sinh viên

Lê Anh Tuấn

1


PHẦN I
MỞ ĐẦU
Việt Nam là một nước nông nghiệp có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm nên rất
thuận tiện cho cây trồng phát triển. Đồng thời với cây trồng phát triển là sâu
bệnh hại cũng phát sinh, chúng gây hại đáng kể đến năng suất. Theo thống kê
của Cục Bảo vệ thực vật, hàng năm các loại dịch hại, bệnh hại, đã làm giảm 35
– 40 % tổng sản lượng, mặt khác làm giảm phẩm chất của nông sản. Để bảo vệ
cây trồng thì mức chi phí cho công tác bảo vệ thực vật, phòng trừ dịch hại đã


không ngừng tăng lên trong phạm vi toàn quốc. Để làm giảm thiệt hại do sâu,
bệnh hại gây ra, người nông dân đã sử dụng nhiều biện pháp phòng trừ như
canh tác thủ công, luân canh, chuyên canh, chọn tạo giống mới, dùng thuốc hóa
học... Trong đó biện pháp sử dụng thuốc hóa học được xem là phổ biến vì dễ áp
dụng, có hiệu quả ngay, kịp thời và hiệu quả cao mà giá thành lại rẻ... Nhưng
việc sử dụng thuốc trừ sâu hóa học gây ô nhiễm môi trường trầm trọng, để lại
dư chất hóa học trong nông sản, giảm số lượng sinh vật có ích, làm mất cân
bằng sinh thái trong tự nhiên, làm tăng tính kháng thuốc của sâu bệnh... Do vậy,
sử dụng thuốc hóa học chỉ là biện pháp tình thế.

Hiện nay đời sống xã hội Việt Nam ngày càng phát triển, ý thức của
người nông dân cũng được nâng cao, họ hiểu được tác hại của thuốc hóa học và
muốn có một loại thuốc mới diệt trừ sâu đạt hiệu quả cao mà không gây ra hậu
quả xấu như thuốc hóa học. Điều đó đòi hỏi các nhà khoa học cần phải nghiên
cứu để thay thế thuốc hóa học bằng các loại thuốc khác theo hướng công nghệ
sinh học. Qua nghiên cứu, các nhà khoa học đã phát triển các loại vi nấm, vi
khuẩn, virut có khả năng ký sinh gây bệnh trên nhiều loại sâu hại cây trồng đạt
hiệu quả cao.
Nhiều cơ quan khoa học ở nước ta đã và đang tiến hành nghiên cứu sản
xuất các chế phẩm nguồn gốc từ vi sinh vật ( vi khuẩn, vi rút và vi nấm). Trong
số các chế phẩm đó thì vi nấm được Viện Bảo vệ thực vật (BVTV) nghiên cứu
2


từ những năm 1990 thế kỷ XX, đến nay mang lại kết quả cao trong việc bảo vệ
cây trồng. Chế phẩm thuốc trừ sâu vi nấm có những ưu điểm là không độc hại
với người và vật nuôi, không gây ô nhiễm môi trường, không làm mất đi nguồn
sinh vật có ích trong tự nhiên. Nấm côn trùng chưa tạo ra tính kháng thuốc và có
khả năng lây nhiễm trên nhiều loại sâu khác nhau, ngoài ra nấm côn trùng
không chỉ tiêu diệt trực tiếp sâu hại vào thời kỳ phá hoại mà còn tích lũy trên

đồng ruộng và lan truyền cho thế hệ sâu tiếp theo.

Loài nấm được nghiên cứu ở nước ta hiện nay sâu rộng hơn cả đó là nấm
bạch cương Beauveria bassiana, vì đã lựa chọn được những chủng giống mới,
môi trường nuôi cấy thích hợp, phổ tác động rộng trên nhiều loại sâu hại cây
trồng với hiệu lực kéo dài.

Để góp phần vào việc hoàn thành nâng cao năng suất và ổn định chất
lượng của chế phẩm nấm Beauveria bassiana làm ngang tầm với thế giới,
hướng tới thương mại hóa chế phẩm, chúng tôi được giao thực hiện đề tài:
“ Nghiên cứu công nghệ sản xuất chế phẩm nấm bạch cương
Beauveria bassiana để ứng dụng phòng trừ sâu hại cây trồng.”

MỤC ĐÍCH VÀ YÊU CẦU
*/ Mục đích

Nâng cao hiệu quả sản xuất và chất lượng của chế phẩm nấm bạch
cương Beauveria bassiana, trên cơ sở nghiên cứu môi trường và các yếu tố
ảnh hưởng đến sự phát triển của nấm Beauveria bassiana trong điều kiện
phòng thí nghiệm.
*/ Yêu cầu

3


- Xác định được tỷ lệ thành phần môi trường sản xuất thích hợp cho
nấm Beauveria bassiana phát triển để đạt năng suất cao và chất lượng tốt.
- Xác định được một số yếu tố ảnh hưởng tới năng suất và chất lượng
của chế phẩm nấm Beauveria bassiana trong quá trình sản xuất.
- Đánh giá được hiệu lực phòng trừ của nấm Beauveria bassiana đối

với một số loại sâu hại trong điều kiện phòng thí nghiệm.

4


PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
I. Sơ lược lịch sử nghiên cứu nấm diệt côn trùng
Theo tài liệu của tác giả Phạm Thị Thùy năm 2004 [8]: Sau những phát
hiện đầu tiên của Balisneri (1709) về nấm gây bệnh trên côn trùng cũng là lúc ra
đời ngành khoa học nghiên cứu về bệnh lý côn trùng. Thế kỷ thứ XVIII mới có
những tác giả nghiên cứu ban đầu về nấm côn trùng, họ khẳng định nấm côn
trùng chính là vi sinh vật gây bệnh đầu tiên được chứng minh về khả năng lan
truyền bệnh từ ký chủ này sang ký chủ khác. Năm 1815, Agostino Bassi đã phát
hiện ra nấm trắng Muscardin gây bệnh trên tằm, thời gian ấy tuy Bassi chưa có
đầy đủ kiến thức về ngành nấm học để phân loại, nhưng tác giả đã phân biệt
được mô của ký chủ với nấm ký sinh bằng cách đưa ra phương pháp lan truyền
cũng như điều kiện gây bệnh và chính tác giả đã đưa ra biện pháp phòng trừ
bằng nấm côn trùng. Như vậy có thể coi Agostino Bassi là nhà bệnh lý học côn
trùng đầu tiên. Sau Bassi thì xuất hiện ngày càng nhiều công trình nghiên cứu
và ứng dụng nấm côn trùng để phòng trừ các loại sâu hại cây trồng đạt hiệu quả.
Những công trình của Oduen (1837) phát hiện về nấm trắng Muscardin
ký sinh trên côn trùng không chỉ có trên tằm, mà nấm trắng còn có thể dùng để
phòng trừ những loại côn trùng gây hại khác. Năm 1878, Metschnhikov đã phát
hiện và phân lập được nấm xanh Entomophthora anisopliae trên sâu non bộ
cánh cứng hại lúa mì ( Anisophliae austrinia ), sau này tác giả đổi tên là
Metarhizium anisopliae. Sau thời gian đó, Metschnhikov đã tiến hành sản xuất
bào tử nấm Metarhizium anisopliae dạng thuần khiết rồi trộn với nền chất bột
và phun ra đồng ruộng để phòng trừ sâu non và trưởng thành bọ đầu dài hại củ
cải đường (Bothinoderes punctiventris ), hiệu quả đạt được 55 – 80 % sau 10 –

14 ngày thử nghiệm [8].

5


Cũng trong thời gian đó ở Mỹ người ta đã sử dụng nấm côn trùng để
phòng trừ sâu hại lúa mì. Năm 1888, nhà bác học Snoi đã tiến hành một loạt thí
nghiệm với nấm Muscardin màu trắng có tên khoa học là Beauveria globuliera
để phòng trừ bọ xít hại lúa mì đạt hiệu quả cao. Các nhà khoa học trường Đại
học Tổng hợp Kanzac đã thành lập trạm tuyên truyền để phổ biến vai trò của
nấm Beauveria đối với việc lây bệnh trên côn trùng, họ đã gửi hơn 500 kiện
nấm Beauveria đến các trang trại để phòng trừ sâu hại củ cải đường. Cuối thế kỷ
XIX và những năm đầu thế kỷ XX, các nhà bệnh lý học côn trùng trên thế giới
mới công bố những công trình thông qua việc giám định và miêu tả cụ thể về
những chủng nấm có khả năng diệt côn trùng [8].

II. Những nghiên cứu cơ bản về nấm Beauveria bassiana
1/ Đặc điểm hình thái
Theo PGS.TS Phạm Thị Thùy năm 2004 [8]: Vì nấm Beauveria bassiana
có màu trắng nên người Trung Quốc và người Việt Nam gọi là nấm trắng hay
nấm bạch cương. Trên môi trường thạch đĩa hoặc thạch nghiêng, nấm bạch
cương có sợi màu trắng đến màu crem có pha một ít màu đỏ, da cam, đôi khi
pha một ít màu lục, có thể tiết vào môi trường sắc tố màu vàng, màu đỏ nhạt
hoặc màu xanh da trời. Sợi nấm phân nhánh có vách ngăn, sợi nấm dài khoảng
3-5µm phát triển dày đặc trên môi trường, về sau xuất hiện chi chít các cuống
sinh bào tử. Trên cơ thể tằm và các côn trùng khác, sợi nấm mọc nhanh và
chẳng mấy chốc đã phủ kín trên bề mặt cơ thể, sợi nấm có dạng phấn trắng khi
khô biến thành màu vàng sữa. Nấm Beauveria bassiana sinh ra những bào tử
trần đơn bào không màu, trong suốt không ngăn vách từ hình cầu ( đường kính
1-4 µm ) đến hình trứng ( kích thước 1,5-5,5 µm ). Tế bào sinh bảo tử trần đơn

hoặc trong vòng xoắn, phát sinh từ sợi sinh dưỡng mọc thành từng đám, có
cuống phình ra. Tế bào sinh bào tử trần có hình zíc zắc nhưng là mấu dạng răng
nhỏ phát sinh bởi sự kéo dài của gốc ghép. Phần gốc của tế bào sinh bào tử trần
hình cầu hoặc hình chai ( kích thước 2,5-3,5

6

x 3,0-6,0 µm ), khi thời gian


nuôi cấy kéo dài, trong môi trường những bào tử trần sinh ra sẽ mảnh và kết
chặt hơn với nhau.
2/ Một số yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của
nấm Beauveria bassiana
Điều kiện cần thiết cho quá trình hình thành bào tử cũng như hệ sợi nấm
Beauveria bassiana nói riêng và nấm côn trùng nói chung là nhiệt độ, ẩm độ, độ
pH trong môi trường, cũng như phương pháp nuôi cấy.
a. Ảnh hưởng của môi trường và phương pháp nuôi cấy
Môi trường nuôi cấy là yếu tố quan trọng cho nấm sinh trưởng và phát
triển, nếu môi trường không tốt, nấm mọc yếu hoặc không mọc. Trong quá trình
nảy mầm để hình thành bào tử nấm Beauveria bassiana và Metarhizium
anisopliae cần các nguồn Cacbon, Nito. Sự phát triển của nấm phụ thuộc vào
các chất ức chế khác nhau. Môi trường thích hợp nhất cho nấm phát triển là môi
trường có chứa kitin làm nguồn cacbon, nếu bổ sung thêm chất kitin và glucoza
thì trong quá trình nuôi cấy, nấm Beauveria bassiana sẽ thu được số lượng bào
tử cao, bởi vì thành phần kitin trong môi trường nuôi cấy là rất cần thiết đối với
các loại nấm, nó giúp cho sự phát triển và hình thành bào tử dính
(Conidiospore) và bào tử trần (Blastoospore). Tuy nhiên không phải nguồn thức
ăn chứa Cacbon và Nito nào cũng đều có lợi cho sự sinh trưởng và phát triển
cũng như sự nảy mầm và hình thành bào tử của nấm Beauveria bassiana, vì

ngoài nguồn nitơ vô cơ ra nấm Beauveria bassiana còn sử dụng tốt nguồn hữu
cơ như protein, pepton, các axitamin trong đó có axit glutamic là axit thích hợp
cho nấm phát triển. Các nguyên tố vi lượng như C ++, Zn++... có tác dụng kích
thích cho sự phát triển của nấm. Tùy từng loại nấm Metarhizium hay Beauveria
mà chúng ta nghiên cứu để lựa chọn môi trường thích hợp sao cho nấm phát
triển tốt nhất.
Về phương pháp nuôi cấy theo các tác giả Rombach, Basto Cruz và cộng
sự, Hegedus và cs, Miao và cs, Jenkins và Prior, Shimazu và cs thì sử dụng
phương pháp nuôi cấy chìm để sản xuất nấm côn trùng sẽ thu được những kết
7


quả tốt, vì trong nuôi cấy chìm, người ta đã xác định được khả năng sinh bào tử
chồi và lượng sinh khối sinh được từ hai chủng nấm B.bassiana và
M.anisopliae là rất cao. [8]
b. Ảnh hưởng của nhiệt độ và ẩm độ
Nhiệt độ và ẩm độ là 2 yếu tố quan trọng quyết định đến sự phát triển của
nấm. Nhiệt độ thích hợp cho nấm trong phạm vi 25 – 30oC [5].
c. Ảnh hưởng của ánh sáng
Nấm Beauveria bassiana phát triển tốt nhất trong điều kiện ánh sáng yếu,
chỉ cần một lượng ánh sáng nhỏ trong thời gian 6 – 8 giờ cũng đủ cho nấm côn
trùng phát triển [5].
d. Ảnh hưởng của độ thoáng khí ( hàm lượng oxi)
Hầu hết các loại nấm côn trùng thuộc loại hiếm khí, khi nấm phát triển
chúng cần có hàm lượng oxi thích hợp trong dụng cụ nhân nuôi cũng như trong
cả biên độ rộng của không gian nuôi cấy, nếu phù hợp thì nấm sẽ phát triển tốt
[5].
e. Ảnh hưởng của hàm lượng nước
Nấm côn trùng đòi hỏi hàm lượng nước thích hợp, nếu quá khô hoặc quá
ướt thì nấm phát triển không tốt, tỷ lệ thích hợp là 30 – 50% tùy theo điều kiện

ẩm độ của không khí môi trường [5].
g. Ảnh hưởng của độ pH
Phạm vi nấm côn trùng sống ở độ pH từ 3,5 – 8,0, song nấm côn trùng ưa
môi trường axit và nấm phát triển thích hợp nhất ở độ pH từ 5,5 – 6 [5].

8


III/ Độc tố, cơ chế tác động và triệu chứng của sâu nhiễm
nấm Beauveria bassiana
1/ Độc tố
Theo PGS.TS Phạm Thị Thùy [8]: Năm 1696 R.L Hamill và cộng sự đã
xác định được độc tố diệt côn trùng của nấm bạch cương Beauveria bassiana và
đặt tên cho độc tố này là Beauvericin. Năm 1971 Y.A. Ovehinnokov và cộng sự
đã tổng hợp lại độc tố này, tác giả Jame và cs đã xác định bản chất của độc tố
sinh ra trong quá trình trao đổi chất đó là vòng peptid có các sắc tố màu vàng
tenelin và basianin, những sắc tố này có thể do hydroxylat progesteron và những
phần nhỏ tách ra từ testosteron (C 19H28O2) sinh ra. Về mặt hóa học, độc tố
Beauvericin có danh pháp là xyclo (N-metyl L-phenylalanin-D-α-hydroxyizovaleryl). Đây là một loại depxipeptid vòng, có điểm sôi khoảng 93-94 oC. Từ
một lít môi trường nuôi cấy nấm Beauveria bassiana, các nhà khoa học Trung
Quốc ở trường Đại học Tổng hợp Nam Khai (Thiên Tân) đã tách được 1,5g độc
tố Beauvericin và từ 1 kg môi trường đặc các tác giả đã tách ra được 3,8 g
Beauvericin.
2/ Cơ chế tác động
Trong tự nhiên, khi bào tử nấm Bb rơi vào cơ thể côn trùng gặp điều kiện
thuận lợi, chỉ sau 12-24h thì bào tử nấm nảy mầm. Chúng hình thành sợi nấm
đâm xuyên qua lớp vỏ kitin và sau đó phát triển bên trong cơ thể côn trùng hại.
Côn trùng hại phải huy động hết các tế bào bạch huyết để chống lại nhưng nấm
Bb đã tiết ra độc tố Beauvericin và các chất khác làm phá hủy tế bào bạch
huyết. Sợi nấm mọc rất nhiều bên trong cơ thể làm cho cơ thể cứng lại sau đó

một thời gian thì nấm mọc ra ngoài, lớp bào tử phủ lên côn trùng hại và lớp bào
tử này gặp điều kiện gió đưa vào cơ thể côn trùng khác thì cũng thực hiện cơ
chế tác động như trên.

9


3/ Triệu chứng của sâu nhiễm bệnh
Triệu chứng đặc trưng nhất là sự thay đổi các di động của côn trùng, sự di
động này tùy theo mức độ phát triển của bệnh. Khi bị bệnh các mô dần dần bị
phá hủy từng phần, lúc đầu côn trùng di động yếu sau ngừng hẳn nằm im một
chỗ cho đến khi chết. Khi bị bệnh nấm, vận động của côn trùng ngừng từ 2-3
ngày thậm chí một tuần trước khi nấm phát triển đầy trong thân côn trùng. Chỉ
những côn trùng bị thương hay bị bệnh nấm, màu sắc toàn thân mới thay đổi và
xuất hiện những vết đen. Khi sâu hại bị bệnh do nấm Beauveria bassiana ở chỗ
bào tử bám vào, nấm phát triển vào bên trong thân sâu tạo nên một vệt đen
không có hình thù nhất định. Côn trùng chết do nấm thường có màu hồng, vàng
nhạt, trắng và toàn thân cứng lại. Khi bị bệnh nấm thân côn trùng bị ngắn lại
hoặc khô là do hệ thống tiêu hóa bị tổn thương hoặc do thiếu thức ăn. Vi sinh
vật gây bệnh trên côn trùng thường tác động đến những mô nhất định, côn trùng
bị nấm Beauveria bassiana ký sinh thì tuyến mỡ và các mô khác bị hòa tan là
do enzym lipaza và proteaza của nấm tiết ra, cũng chính nhờ đặc điểm đó mà
người ta có thể xác định được côn trùng bị bệnh là do động vật nguyên sinh hay
là do nấm bậc thấp (Coelomycidium, Entomophyhora...) gây ra. Hiện tượng chết
hoặc gắn liền với hiện tượng tiêu hủy mô là đặc trưng của bệnh nấm, quá trình
này tiến triển qua hai giai đoạn:
- Hiện tượng chấn thương: Các mô tổn thương bị phá hoại là do nấm từ
bên ngoài gây ra, trong trường hợp này các lympho máu đọng lại và mô tái sinh
được tạo nên trên bề mặt phần thân côn trùng bị chấn thương.
- Hiện tượng nhiễm trùng máu: của côn trùng khi bị bệnh nấm là do

lympho máu chứa đầy sợi nấm.

IV/ Công nghệ sản xuất chế phẩm nấm Beauveria bassiana
Hiện nay Viện Bảo vệ thực vật đang sản xuất chế phẩm nấm bạch cương
Beauveria bassiana theo các công đoạn như sau:

10


1/ Chọn chủng giống:
Theo PGS.TS Phạm Thị Thùy thì chủng nấm (giống nấm) là yếu tố quan
trọng quyết định đến chất lượng chế phẩm nấm. Để sản xuất chế phẩm nấm
Beauveria bassiana, Viện Bảo vệ thực vật thường sử dụng chủng nấm
Beauveria bassiana đã được phân lập trên sâu róm thông ở Thanh Hóa. Đây là
chủng giống mới, nguồn gốc tự nhiên tại địa phương có cây trồng bị sâu hại,
nên chủng nấm Beauveria bassiana có hoạt tính rất cao [7].
2/ Môi trường nhân giống cấp 1
Năm 1992, kết quả nghiên cứu của Phạm Thị Thùy và cs [8] đã xác định
được môi trường nhân giống cấp 1 của nấm Beauveria bassiana chính là môi
trường Sabouroud bổ sung thêm khoáng chất (SK), kế thừa từ môi trường
Sabouroud.
Môi trường Sabouroud:
. Agar

20g

. Glucoza

40g


. Pepton

10g

. H20

1000 ml

. pH

6,0

Môi trường Sabouroud khoáng chất:
. Agar

20g

. Glucoza

20g

. Pepton

10g

. MgSO4.7H20
. KH2PO4

1g
0,5g


. H20

1000 ml

. pH

6,0
11


Tác giả Phạm Thị Thùy cho biết việc xác định được môi trường nuôi cấy
là yếu tố rất quan trọng để nấm Beauveria bassiana nói riêng và nấm côn trùng
nói chung sinh trưởng, phát triển tốt, nếu môi trường không tốt thì nấm mọc yếu
hoặc thậm chí không mọc, nguyên nhân là do trong quá trình nảy mầm để hình
thành bào tử, nấm côn trùng cần có các nguồn Cacbon, Nito. Sự phát triển của
nấm phụ thuộc vào các nguyên tố vi lượng như C ++, Zn++, K+, Mg++ ... có tác
dụng kích thích cho sự phát triển của nấm đồng thời duy trì độ pH. Môi trường
SK làm giống cấp 1 đã đáp ứng được yêu cầu cho nấm Beauveria bassiana phát
triển.
3/ Môi trường nhân giống cấp 2:
Sử dụng phương pháp lên mem xốp
Theo PGS.TS Phạm Thị Thùy [8] thì sản xuất sinh khối nấm Beauveria
bassiana bằng phương pháp lên men xốp dùng môi trường gồm thành phần
chính là cám gạo và bột ngô có bổ sung thêm một số chất phụ gia để tăng khả
năng hình thành bào tử của nấm Beauveria bassiana:
. Bột cám ngô
. Bột ngô
. Bột đậu tương ( hoặc đậu xanh)
. Trấu ( hoặc bã mía, vỏ lạc)

Có thể sản xuất nấm Beauveria bassiana theo phương pháp của Cuba:
Môi trường tấm gạo với dung dịch CaCO 3 5%, bằng phương pháp luộc tấm gạo
rồi sấy khô, sau đó nhân giống với Beauveria bassiana thuần vào môi trường.
4/ Công nghệ sản xuất nấm Beauveria bassiana bằng phương pháp
lên men xốp
Tác giả Phạm Thị Thùy và cs đã nghiên cứu sử dụng môi trường sản xuất
bao gồm cám gạo 3 phần, bột ngô 1 phần và phụ gia như đường, trấu... môi
trường có tỷ lệ nước trên môi trường là 1/3 đảm bảo độ ẩm vừa phải, tơi xốp,
nấm phát triển sau 5 ngày trong các bình tam giác hoặc dụng cụ có thể tích lớn.
12


Chế phẩm được làm khô ở nhiệt độ 45 oC trong 8 giờ, kết quả thu được chế
phẩm có lượng bào tử trung bình là 5 x 109 bào tử/g.
5/ Tính ổn định của chế phẩm nấm Beauveria bassian
- Chất lượng của chế phẩm nấm đạt 109 bt/g
- Hàm lượng ẩm trong chế phẩm là 7 -10%
- Hiệu quả diệt sâu là trên 70% sau 10 – 15 ngày thí nghiệm
- Thời gian bảo quản là từ 1 – 2 năm

V. Khái niệm về các loại sâu dùng trong thí nghiệm
V.1/ Sâu róm thông ( Dendrolimus punctatus ):
Theo PGS.TS Phạm Thị Thùy [4]: Sâu róm thông là loại sâu phá hoại rất
nặng nề các cánh rừng thông. Sâu róm thông chích hút nhựa của cây thông gây
ra hiện tượng cháy lá và dẫn đến cây thông bị chết. Sâu róm thông phân bố rộng
khắp ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Ở Việt Nam sâu róm thông tập trung
nhiều ở các tỉnh miền trung như Thanh Hóa, Hà Tĩnh ...
+ Đặc điểm hình thái: Bướm trưởng thành có màu nâu. Chiều dài thân
17-18mm. Cánh trước có màu sẫm hơn cánh sau. Mép ngoài cánh trước có
nhiều chấm màu nâu sẫm. Trưởng thành đẻ trứng thành từng đám hoặc từng

hàng dọc theo lá thông, mỗi bướm có thể đẻ 200-300 quả trứng. Trứng hình bầu
dục màu xanh nhạt, sau chuyển sang màu hồng sẫm. Sâu non từ 5-6 tuổi, toàn
than màu nâu đen ánh bạc xen lẫn các điểm trắng, toàn phân phủ nhiều lông
độc. Lớn đẫy sức có thể dài 60mm. Nhộng màu nâu cánh gián hoặc màu hạt dẻ,
thuộc loại nhộng màng, có kén màu trắng sang chứa nhiều long của sâu non bao
bọc.
+ Đặc điểm sinh vật và quy luật phát sinh gây hại:
Trưởng thành: ngài đực có xu tính ánh sáng mạnh, ngài cái thích đẻ trứng ở trên
lá thông trong rừng được trồng 5 năm trở lên. Sau khi vũ hóa 1-2 giờ, ngài bắt
đầu giao phối và sau một thời gian thì đẻ trứng. Thường đẻ trứng vào ban đêm.

13


Trung bình trong 1 đêm đẻ hơn 200 quả trứng. Sâu non mới nở di chuyển bằng
cách nhả tơ. Sau khi nở khoảng nửa ngày, sâu non bắt đầu ăn lá [4].

V.2/ Sâu khoang (Spodoptera litura)
Sâu khoang là loại sâu đa thực, ăn rất nhiều loại cây trồng trong đó bao
gồm cả các loại rau bắp cải, su hào, rau muống...Sâu khoang thuộc họ ngài đêm
Noctuidae thuộc bộ cánh vảy Lepidoptera, phân bố rộng ở Việt Nam và các
nước trên thế giới.
Theo tác giả Phạm Thị Nhất [2] thì sâu khoang có một số đặc điểm sau:
+ Đặc điểm hình thái: Bướm có thân dài 16 – 21 mm, cánh trước xòe
rộng 37 – 42 mm có màu nâu vàng, trên cánh có nhiều đường vân đẹp, hình bầu
dục có màu xám, xung quanh màu vàng, cánh sau màu trắng xám loang, phản
quanh màu tím. Trứng sâu khoang hình bán cầu, mặt trứng có nhiều đường khía
dọc ngang, lúc mới đẻ có màu trắng vàng sau chuyển thành màu vàng tro, sắp
nở có màu vàng tối. Trứng đẻ thành từng ổ hình bầu dục, dẹt và được phủ một
lớp lông màu nâu vàng bên trên. Sâu non hình ống, màu xanh xám tro, vạch

lưng màu vàng, có khoang đen ở đốt bụng thứ nhất, gần đầu có 2 chấm đen, sâu
đẫy sức dài 38- 51 mm. Sâu làm nhộng ở trong đất, nhộng dài 18- 20 màu nâu
đỏ bóng láng.
+ Tập tính sinh hoạt : Sau khi nở 1 vài ngày, sâu sống tập trung rồi sau đó
mới phân tán. Ở tuổi 1, 2 sâu khoang chỉ gặm chất xanh chừa lại màng và gân
lá. Tuổi 3 trở đi sâu phân tán và ăn khuyết lá, sâu phá hoại mạnh vào ban đêm,
ngày ẩn nấp dưới mặt đất. Bướm hoạt động về đêm, đẻ trứng ở lá, một bướm cái
có thể đẻ 1000 trứng. Hàng năm sâu thường phát sinh gây hại mạnh vào tháng 4
đến tháng 10 [2]
3/ Sâu xanh bướm trắng (Pieris rapae )
Sâu xanh bướm trắng là loại sâu hại chủ yếu trên các loại rau cải, xu hào,
sâu xanh bướm trắng thuộc bộ cánh phấn Lepidoptera.

14


Theo tác giả Phạm Thị Nhất [2] thì sâu xanh bướm trắng có một số đặc
điểm sau:
+ Vòng đời của sâu: Ở nhiệt độ 17,4oC và ẩm độ 78,5 % vòng đời sâu kéo
dài khoảng 30 ngày, còn ở nhiệt độ 29,3oC và ẩm độ 79,1 % thì vòng đời sâu
xanh bướm trắng chỉ kéo dài 19,5 ngày.
+ Đặc điểm hình thái: Bướm có thân dài từ 15 – 20 mm, cánh trước có
màu trắng xòe rộng từ 40 – 50 mm, trứng hình vỏ phích có nhiều khía dọc. Sâu
non có nhiều chấm đen, sâu đẫy sức dài 28 – 35 mm. Nhộng màu xanh nhạt hơi
vàng dài từ 18 – 20 mm, dính một đầu trên lá rau, hai bên sườn có những chấm
đen thưa, giữa lưng nổi hẳn lên một đường như hình xương sống.
+ Tập tính sinh hoạt: Hàng năm sâu thường xuất hiện nhiều vào tháng 2
đến tháng 5, chúng gây hại chủ yếu trên nhóm rau họ thập tự ( rau cải, su hào,
cải bắp, súp lơ...). Bướm cái đẻ trứng rải rác từng quả trên lá rau, một bướm có
thể đẻ được 150 trứng. Sau khi nở sâu non bắt đầu gặm nhấm lá xanh và chừa

lại màng lá, từ tuổi 2 trở đi sâu cắn thủng lá làm lá bị khuyết [2]
4/ Sâu tơ ( Plutella xylostella )
Sâu tơ là loại sâu hại nguy hiểm trên rau họ thập tự, sâu thuộc họ ngài rau
Yponomeutidae, bộ Thysanoptera. Sâu tơ hại tất cả các loại rau họ cải có giá trị
kinh tế như bắp cải, su hào, súp lơ... gây thiệt hại về năng suất cũng như chất
lượng rau. Ở tất cả các nước có trồng rau họ cải trên thế giới đều có nguy cơ bị
sâu tơ tấn công, đặc biệt là các nước trong vùng Nam và Đông Nam Châu Á.
Theo tác giả Phạm Thị Nhất [2] thì sâu tơ có một số đặc điểm sau:
+ Đặc điểm hình thái: Sâu tơ có bướm nhỏ, dài từ 6 – 7 mm, cánh trước
xòe rộng 13 – 16 mm màu nâu xám, dọc mép trong có đường sọc màu nhạt hơn,
chia thành ba đoạn. Cánh sau có màu xám, có lông nhỏ dài và mịn. Trứng sâu tơ
hình bầu dục, hơi tròn và dài khoảng 4 – 5 mm. Sâu non hình ống, màu xanh
nhạt có nhiều đốt thân, mỗi đốt thân có nhiều lông tơ, sâu đẫy sức dài khoảng 9
– 12 mm, đầu màu nâu vàng có các phiến cứng trên có những chấm màu nâu
nhạt. Nhộng sâu tơ màu xanh nhạt hoặc vàng nhạt, dài 6 – 10 mm được bọc
trong kén mỏng màu trắng xốp, dạng lưới.
15


+ Vòng đời sâu: Từ 20 – 22 ngày, sâu non có 4 tuổi, thời gian phát triển
kéo dài khoảng 11- 15 ngày, nhộng 7 ngày, các lứa sâu tơ nở gối nhau liên tiếp
trong suốt vụ rau.
+ Tập tính sinh hoạt: Bướm hoạt động cả ngày lẫn đêm, ban ngày đậu ở
mặt dưới lá, sâu non mới nở đục lá tạo thành các đường rãnh. Từ tuổi 2 sâu sống
ngay trên mặt lá và ăn lá, để lại biểu bì lá tạo thành các lỗ trong mờ. Sâu non
thường nhả tơ để di chuyển [2].

VI/ Một số kết quả đạt được trong phòng trừ sâu hại bằng
chế phẩm nấm Beauveria bassiana
1/ Trên thế giới

Vài chục năm gần đây, các công trình nghiên cứu ứng dụng chế phẩm
nấm Beauveria bassiana trở nên phong phú và phát triển trên thế giới.
Tác giả Phạm Thị Thùy (2004) cho biết: Ở Úc, các nhà khoa học đã sử
dụng nấm Beauveria bassiana để phòng trừ bọ hung hại mía và bọ hung hại củ
cải đường đạt hiệu quả tốt, những loài bọ hung trên rất khó phòng trừ bằng
thuốc hóa học. Các nhà khoa học sử dụng nấm Beauveria bassiana ở nồng độ 8
x 107 bào tử/ ml để phòng trừ ruồi hại rễ bắp cải, thí nghiệm ngoài đồng ruộng
được tiến hành với 15ml dung dịch nấm trên 1 cây, kết quả cho thấy nấm
Beauveria bassiana đạt hiệu quả cao với ruồi hại bắp cải, nấm Beauveria
bassiana đã làm giảm mật độ của sâu và nhộng khoảng 70%.
Tại Nhật Bản năm 1988 một số nhà khoa học đã phòng trừ ròi hại rễ củ
cải bằng nấm Beauveria bassiana. Thí nghiệm được tiến hành như sau: Dùng 1
bó củ cải có 10 trứng ròi hại rễ để trong 1 lọ. Trứng được sắp xếp quanh củ cải
với mỗi trứng đặt cách nhau 3cm. Nồng độ bào tử nấm đưa vào thí nghiệm là 1
x 109 bào tử/ml ( nấm phát triển trên môi trường PDA ) với 5 lần nhắc lại, kết
quả cho hiệu lực trên 75% ( trong điều kiện nhiệt độ 23 oC và ẩm độ không khí
trên 70% ) sau 10 ngày thí nghiệm.

16


Ở Mỹ, người ta còn dùng nấm Beauveria bassiana để phòng trừ ruồi
trắng hại lá khoai lang. Trường Đại học tổng hợp Florida (USA) phối hợp với
liên đoàn Ciba và Geigy sản xuất chế phẩm nấm Beauveria bassiana để phòng
trừ tập đoàn sâu voi hại rễ cây chanh và các côn trùng hại khác.
Ở Trung Quốc, các tác giả Am và Wu đã sử dụng chủng nấm
Paecilomyces farinosus và Beauveria bassiana để phòng trừ sâu róm thông đạt
hiệu quả cao [8].
2/ Ở Việt Nam
Từ năm 1990 thế kỷ XX, với sự giúp đỡ của Cục Bảo vệ thực vật và được

sự tài trợ của tổ chức bánh mỳ thế giới, năm 1991 nhờ chương trình Công nghệ
sinh học cấp nhà nước, Trung tâm sinh học Viện Bảo vệ thực vật đã nghiên cứu
nấm Beauveria bassiana, với mục đích: Xác định nấm Beauveria bassiana có
trên một số sâu hại cây trồng, đồng thời tiến hành nghiên cứu để tìm khả năng
phát triển của nấm Beauveria bassiana trên một số trường hợp nhân tạo nhằm
tiến tới nghiên cứu hoàn thiện quá trình sản xuất tạo chế phẩm trừ sâu sinh học.
Kết quả nghiên cứu sản xuất, thử nghiệm và ứng dụng chế phẩm nấm trừ sâu hại
cây trồng đến nay đã đạt được nhiều thành công đáng kể.
Năm 1992 – 1993, Phạm Thị Thùy và cộng sự đã tiến hành thử nghiệm
chế phẩm nấm Beauveria bassiana trừ sâu đo xanh hại đay tại hợp tác xã Liên
Khê

(Châu Giang – Hưng Yên). Kết quả đạt 66,4% - 86,4% tỷ lệ sâu chết

sau 7 – 10 ngày phun thuốc. Năm 1995-1996 tác giả đã nghiên cứu sản xuất ra
chế phẩm Beauveria bassiana trừ sâu hại cây trồng và đã được thử nghiệm trên
rầy nâu hại lúa ngoài đồng ruộng ở một số địa phương, kết quả sau 10 ngày
phun hiệu lực trừ rầy nâu đạt từ 50 – 60 % và kéo dài đến 15 ngày sau phun
thuốc.
Năm 1998, Phạm Thị Thùy và cộng sự đã ứng dụng nấm Beauveria
bassiana để phòng trừ sâu róm thông Dendrolimus punctatus ở Lâm trường
Hà Trung – Thanh Hóa và Lâm trường Phù Bắc Yên – Sơn La, kết quả phun
nấm Beauveria bassian với nồng độ 4 x 10 13 bào tử/ha, tỷ lệ sâu róm thông
17


chết trung bình sau một tháng là 78,2%, sau 1,5 tháng thì tỷ lệ sâu chết
trung bình đạt 93,6% trong điều kiện nhiệt độ trung bình là 29,1 oC và ẩm
độ trung bình là 83,7%. [4], [6]
Các ứng dụng chế phẩm nấm Beauveria bassiana phòng trừ sâu hại rau

của tác giả Phạm Thị Thùy và cs từ năm 2002 đến nay đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn, điển hình là phòng trừ sâu xanh bông, sâu tơ, sâu xanh
bướm trắng hại rau ở An Hải – Hải Phòng năm 2001, ở Đồn Bẩm – Đồng Hỷ
– Thái Nguyên năm 2002 – 2004. [8]

Tóm lại: Nấm Beauveria bassiana có hiệu quả cao trong phòng trừ sâu
hại cây trồng, đặc biệt là sâu róm thông, do đó việc nghiên cứu hoàn thiện công
nghệ sản xuất để tạo chế phẩm nấm Beauveria bassiana đạt chất lượng là hoàn
toàn cần thiết, nhằm cung cấp cho nông dân để phòng trừ sâu hại cây trồng đạt
hiệu quả cao theo hướng bảo vệ môi trường.

18


PHẦN III:
VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
I/ THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU:
1. Địa điểm:
Tại phòng thí nghiệm nấm côn trùng thuộc Trung tâm Đấu tranh sinh học
– Viện Bảo vệ thực vật – Từ Liêm – Hà Nội.
2. Thời gian:
Đề tài được thực hiện từ tháng 1/2010 đến hết tháng 5/2010
II/ VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU:
1. Chủng vi sinh vật sử dụng:
Chủng vi nấm Beauveria bassiana do Viện Bảo vệ thực vật cung cấp.
2. Một số côn trùng sử dụng trong thí nghiệm:
- Sâu róm thông (Dendrolimus punctatus) thu bắt tại rừng thông Đông
Sơn – Thanh Hóa. Lấy sâu tuổi 2 – 3 thử nghiệm
- Sâu xanh bướm trắng (Pieris rapae) thu bắt và nuôi tại Viện BVTV
bằng lá rau để lấy sâu tuổi 2 – 3 làm thử nghiệm.

- Sâu khoang (Spodoptera litura) thu bắt và nuôi tại Viện BVTV bằng lá
rau để lấy sâu tuổi 2 – 3 làm thử nghiệm.
- Sâu tơ (Plutella xylostella) thu bắt và nuôi tại Viện BVTV bằng lá rau
lấy sâu tuổi 2- 3 làm thử nghiệm.
3. Dụng cụ và hóa chất dùng trong thí nghiệm :
a) Hóa chất gồm:
- Agar
- Pepton
- Glucoza
19


- NaNO3
- FeSO4
- Muối khoáng, cồn, nước cất, chất bám dính agral
b) Một số thiết bị và dụng cụ:
- Kính hiển vi,
- Buồng đếm hồng cầu,
- Nồi khử trùng,
- Tủ sấy,
- Tủ định ôn,
- Buồng cấy nấm,
- Dụng cụ thủy tinh và một số dụng cụ khác.
III/ NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
1. Nghiên cứu ảnh hưởng của tỷ lệ thành phần môi trường sản xuất
đến chất lượng chế phẩm nấm Beauveria bassiana.
Sử dụng phương pháp lên men bề mặt ( lên men xốp)
Môi trường sản xuất ( mt cơ bản)
- Cám gạo
- Bột ngô

- Bột đậu tương

( Phạm Thị Thùy .2004.)

- Trấu
- Nước
1.1/ Nghiên cứu ảnh hưởng của tỷ lệ cám gạo đến sự phát triển của nấm
Beauveria bassiana trên môi trường sản xuất.
Bố trí thí nghiệm với 4 công thức:
- Công thức 1: 80% cám gạo, 10% bột ngô, 10% trấu, 35 ml nước.
20


- Công thức 2: 70% cám gạo, 20% bột ngô, 10% trấu, 35 ml nước
- Công thức 3: 60% cám gạo, 30% bột ngô, 10% trấu, 35 ml nước
- Công thức 4: 50% cám gạo, 40% bột ngô, 10% trấu, 35 ml nước
1.2/ Nghiên cứu ảnh hưởng của tỷ lệ bột ngô đến sự phát triển của nấm
Beauveria bassiana trên môi trường sản xuất:
Bố trí thí nghiệm với 4 công thức
- Công thức 1: 80% cám gạo, 10% bột ngô, 10% trấu, 35 ml nước.
- Công thức 2: 70% cám gạo, 20% bột ngô, 10% trấu, 35 ml nước.
- Công thức 3: 60% cám gạo, 30% bột ngô, 10% trấu, 35 ml nước.
- Công thức 4: 50% cám gạo, 40% bột ngô, 10% trấu, 35 ml nước.
1.3/ Nghiên cứu ảnh hưởng của tỷ lệ nước (ml) trên môi trường sản xuất
đến sự phát triển của nấm Beauveria bassiana:
Bố trí 4 công thức thí nghiệm:

Phần tỷ lệ giữa
Công thức


Lượng nước

Môi trường sản xuất

(ml)

(gr)

CT1

1

4

CT2

1

3

CT3

1

2

CT4

1


1

* Phương pháp chung cho cả 3 thí nghiệm:

21


- Mỗi công thức nhắc lại 3 lần, mỗi lần nhắc lại với 100gr nguyên liệu theo các tỉ lệ
như trên.
- Cân nguyên liệu theo các công thức
- Khử trùng môi trường ở 121oC/30 phút/ 1at
- Để nguội rồi cấy giống cấp 1: Sử dụng chủng giống nấm Bb thuần đã tuyển chọn.
- Đặt thí nghiệm trong điều kiện bình thường trong phòng thí nghiệm.
- Chỉ tiêu theo dõi hàng ngày.
* Ghi chép sổ theo dõi nhiệt độ, ẩm độ...
* Mô tả cách thức mọc của nấm ở mỗi lần nhắc lại trong mỗi công thức
* Màu sắc và sự phát triển của nấm trong môi trường sản xuất
* Sau 2 – 3 ngày nuôi cấy ( khi lượng bào tử hình thành nhiều, không tăng) đem
rải ra, sau đó cân 1gr chế phẩm tươi và 1gr chế phẩm khô ( sau khi đã sấy và nghiền
nhỏ) pha loãng bằng nước cất rồi đếm số lượng bào tử khô và tươi.

1.4/ Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ, ẩm độ trong thời gian nuôi cấy đến
sự phát triển của nấm Beauveria bassiana.
- Bố trí thí nghiệm theo 2 công thức:
+ Nhiệt độ và ẩm độ trung bình ở ( tháng 3)
+ Nhiệt độ và ẩm độ trung bình ở ( tháng 4)
- Pha loãng bằng nước cất rồi đếm số lượng bào tử.
1.5/ Nghiên cứu ảnh hưởng của thời gian sấy tới năng suất và chất lượng của
chế phẩm Beauveria bassiana.
- Bố trí thí nghiệm theo 4 công thức:


Thời gian sấy ở nhiệt độ 45oC ( giờ)

Công thức
22


CT1

6

CT2

7

CT3

8

CT4

9

* Phương pháp sấy khô:
- Sấy ở 45 oC để có thông gió
- Rải để trên khay sấy
- Cứ sau 30 phút lại đảo chế phẩm 1 lần
* Chỉ tiêu theo dõi:
- Xác định số lượng bào tử trên 1gr chế phẩm trước khi sấy
- Xác định số lượng bào tử trên 1gr chế phẩm sau khi sấy ứng với mỗi công

thức.
- Pha loãng và đếm bào tử
* So sánh và đánh giá kết quả số lượng bào tử trong mỗi thí nghiệm để rút
ra được thời gian sấy thích hợp nhất để bảo quản chế phẩm tốt nhất mà
không ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng của chế phẩm nấm Beauveria
bassian.
2/ Phương pháp pha loãng và đếm số lượng bào tử bằng buồng
đếm hồng cầu cho các thí nghiệm
2.1/ Phương pháp pha loãng:
Cân 1gr chế phẩm, nghiền nhỏ trong cối sau đó cho thêm 9ml nước cất
vào và tiếp tục nghiền, được dịch bào tử có độ pha loãng 10 -1 cho vào ống
nghiệm và thêm 9ml nước cất lắc đều ta được dịch bào tử có độ pha loãng 10 -2.
Làm như vậy đến khi thu được dịch bào tử có độ pha loãng đếm được (10-n).
- Cách thức pha loãng bào tử được minh họa như sau:
23


1 gr

1 ml

1 ml

1 ml

đem đếm



9 ml

nước
cất

9 ml
nước
cất

9 ml
nước
cất

10-1

10-2

10-3

9 ml
nước
cất
10-n

2.2/ Phương pháp đếm số lượng bào tử bằng buồng đếm hồng cầu:
Sau khi có dịch bào tử ở độ pha loãng đếm được, dùng pipet hút dịch bào
tử và nhỏ 1 giọt xuống khoảng giữa lưới đếm của buồng đếm hồng cầu. Đậy
lamen lên trên đưa buồng đếm đến kính hiển vi, lấy tiêu cự để đếm.
Số lượng bào tử được tính theo công thức.
a x 10n x 400
A=


x 10000
b

Trong đó:
A: Số lượng bào tử đếm được trên 1ml
a: Số lượng bào tử đếm được trên buồng đếm hồng cầu
b: Số ô đếm được ( 16 ô lớn x 25 ô nhỏ = 400 ô nhỏ)
n: hệ số pha loãng
10000: hằng số
Đếm 3 lần lấy giá trị trung bình.

24


* So sánh và đánh giá kết quả số lượng bào tử tươi và khô giữa các môi
trường bổ xung thành phần khác nhau trong mỗi công thức thí nghiệm để rút ra
công thức có tỷ lệ tốt nhất.

3/ Đánh giá hiệu lực của chế phẩm nấm Beauveria bassiana để phòng
trừ sâu hại cây trồng :
3.1/ Đối với sâu róm thông ( Dendrolimus punctatus ):
- Bố trí 4 công thức thí nghiệm:
+ Công thức 1: Đối chứng ( không phun thuốc)
+ Công thức 2: Phun dịch bào tử nấm Bb ở nồng độ 3 x 108 bt/ml
+ Công thức 3: Phun dịch bào tử nấm Bb ở nồng độ 6 x 108 bt/ml
+ Công thức 4: Phun dịch bào tử nấm Bb ở nồng độ 9 x 108 bt/ml
3.2/ Đối với sâu khoang ( Spodoptera litura ):
- Bố trí 4 công thức thí nghiệm:
+ Công thức 1: Đối chứng ( không phun thuốc)
+ Công thức 2: Phun dịch bào tử nấm Bb ở nồng độ 2 x 108 bt/ml

+ Công thức 3: Phun dịch bào tử nấm Bb ở nồng độ 4 x 108 bt/ml
+ Công thức 4: Phun dịch bào tử nấm Bb ở nồng độ 6 x 108 bt/ml
3.3/ Đối với sâu xanh bướm trắng ( Pieris rapae ):
- Bố trí 4 công thức thí nghiệm:
+ Công thức 1: Đối chứng ( không phun thuốc)
+ Công thức 2: Phun dịch bào tử nấm Bb ở nồng độ 3 x 108 bt/ml
+ Công thức 3: Phun dịch bào tử nấm Bb ở nồng độ 6 x 108 bt/ml
+ Công thức 4: Phun dịch bào tử nấm Bb ở nồng độ 9 x 108 bt/ml
3.4/ Đối với sâu tơ ( Plutella xylostella ):
25


×