Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.58 KB, 11 trang )

Nhóm tháng 2

LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, Chính phủ đã có nhiều biện pháp cấp bách
tăng cường bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới; các Bộ, các
ngành, các cấp và tồn thể nhân dân đã tích cực hưởng ứng và tham gia, tình
hình trật tự an tồn xã hội nói chung đã có những chuyển biến tích cực, đạt được
những kết quả nhất định, góp phần ổn định tình hình chung của đất nước. Tuy
nhiên, tình hình tội phạm ở nước ta hiện nay vẫn có xu hướng gia tăng và diễn
biến phức tạp với các tội phạm ngày càng tinh vi và xảo quyệt. Một trong những
tội phạm khá phổ biến hiện nay đó là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà tình
huống trong bài là một ví dụ.
NỘI DUNG
a. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS hãy xác định trường hợp phạm tội
của A thuộc loại tội phạm nào?
Có thể phân loại tội phạm theo nhiều tiêu chí khác nhau như:
- Mục đích nghiên cứu.
- Quan hệ xã hội bị xâm hại: sở hữu, tính mạng, an ninh quốc phịng…
- Lỗi: lỗi vơ ý, lỗi cố ý.
- Con người thực hiện hành vi: người đã thành niên, người chưa thành
niên…
Ở đây ta xác định loại tội phạm dựa trên tiêu chí tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi nhằm đảm bảo nguyên tắc phân hóa và cá thể hóa
hình phạt. Theo tiêu chí này, tội phạm được chia làm 4 loại: tội phạm ít nghiêm
trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng. Theo khoản 3 điều 8 thì các nhóm tội phạm được phân biệt với
nhau bởi cả dấu hiệu về mặt nội dung, chính trị, xã hội và về mặt hậu quả pháp
lý. Nếu như tội phạm nói chung có dấu hiệu về mặt nội dung, chính trị, xã hội là
tính nguy hiểm cho xã hội và có dấu hiệu về mặt pháp lý là tính phải chịu hình
1



Nhóm tháng 2

phạt thì các nhóm tội phạm cũng có những dấu hiệu đó, vì đều là tội phạm nhưng
với những nội dung cụ thể khác nhau trong hai dấu hiệu phân biệt các nhóm tội
phạm này với nhau, dấu hiệu về mặt nội dung, chính trị, xã hội sẽ quyết định dấu
hiệu về mặt pháp lý.
Ta khẳng định loại tội phạm mà A thực hiện là loại tội phạm nghiêm trọng
vì các lí do sau:
Xét về mặt nội dung, chính trị xã hội là xét về tính nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm. Nguy hiểm cho xã hội về mặt khách quan là gây ra hoặc đe dọa
gây ra thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội mà luật hình sự bảo vệ. Ở đây, A
và B đã dùng thủ đọan đánh tráo vàng thật thành vàng giả khi mua xe máy của
những người có nhu cầu bán đăng trên báo hàng ngày và kết quả là đã mua được
7 chiếc xe máy bằng vàng giả và tổng tài sản A và B chiếm đoạt được là
121.000.000 đồng. Hành vi của A và B cấu thành tội chiếm đoạt tài sản theo quy
định tại khoản 2 Điều 139 BLHS. Hành vi của A đã gây nguy hại lớn cho xã hội
có tính chất chiếm đoạt xâm phạm tới quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ
được xác định tại khoản 1 điều 8 Bộ luật Hình sự.
Xét về mặt hậu quả pháp lý, tình huống đề bài đưa ra: hành vi phạm tội
của A được quy định tại khoản 2 Điều 139 BLHS.
Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm
đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;


2


Nhóm tháng 2

e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu
đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
Như vậy, khoản 2 Điều 139 quy định khung hình phạt từ 2 năm đến 7 năm
tù, tức là mức cao nhất của khung hình phạt là đến 7 năm tù. Thực tế, A đã
chiếm đoạt tài sản với tổng giá trị lên đến 121.000.000 đồng, có một tiền án về
tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích, tức là A bị áp dụng theo quy định tại
điểm e Khoản 2 Điều 139: “chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng
đến dưới hai trăm triệu đồng”. Theo đúng quy định của BLHS Việt Nam tại
Khoản 3 Điều 8 được đối chiếu với hành vi của A xác định tội phạm mà A thực
hiện thuộc loại tội nghiêm trọng.
b/ Phân tích khách thể và đối tượng tác động của tội phạm trong
trường hợp này.
b.1. Khách thể của tội phạm:
Khách thể của tội phạm là một trong bốn dấu hiệu của cấu thành tội phạm.
Khách thể bảo vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội được nhà nước xác
định cần được bảo vệ bằng những quy phạm pháp luật hình sự. Những quan hệ
xã hội đó là khách thể của tội phạm trong trường hợp chúng bị gây thiệt hại hoặc
bị đe dọa gây thiệt hại ở mức độ nhất định. Có thể định nghĩa: “ Khách thể của
tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại”.1
Khoa học luật hình sự Việt Nam phân biệt ba loại khách thể của tội phạm:
khách thể chung, khách thể loại, khách thể trực tiếp. Các khái niệm này đều chỉ
các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại nhưng ở các
mức độ khác nhau.
Khách thể chung: Khách thể chung của tội phạm là tổng hợp các quan hệ

xã hội được luật hình sự bảo vệ khỏi sự xâm hại của tội phạm. Bất cứ hành vi
1

Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội.

3


Nhóm tháng 2

phạm tội nào cũng đều xâm hại đến khách thể chung, đó là những quan hệ xã hội
được xác định trong Điều 1 và Điều 8 của BLHS. Đó là “Chế độ xã hội chủ
nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, quyền bình đẳng giữa các đồng bào dân
tộc, lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, trật tự
xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội…”, “độc lập, chủ quyền, thống
nhất, tồn vẹn lãnh thổ, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc
phịng, an ninh, trật tự an tồn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, những lĩnh vực khác của trật tự xã hội chủ nghĩa”.
Trong tình huống này hành vi của A và B đã xâm hại đến khách thể chung
đó chính là tài sản của cơng dân. Qua đó cũng xâm hại đến trật tự, an tồn xã
hội.
Khách thể loại: Khách thể loại của tội phạm là nhóm quan hệ xã hội cùng
tính chất được nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ khỏi sự xâm hại
của nhóm tội phạm. Căn cứ vào tính chất giống nhau hoặc gần giống nhau của
những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ mà tội phạm xâm hại, các nhà
làm luật đã chia phần tội phạm thành 14 chương: từ chương XI đến chương
XXIV BLHS. Khách thể loại mà hành vi phạm tội của A, B xâm phạm là nhóm
các quan hệ xã hội về quyền sở hữu được luật hình sự bảo vệ, quy định trong
chương XIV - Các tội phạm xâm phạm sở hữu của Bộ luật hình sự Việt Nam

năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.
Khách thể trực tiếp: Khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã hội cụ
thể bị loại tội phạm cụ thể trực tiếp xâm hại. Khách thể trực tiếp của tội phạm
trước hết phải là những quan hệ xã hội cụ thể trực tiếp gây thiệt hại và đe dọa
gây thiệt hại. Chính qua sự gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại này mà tội
phạm xâm phạm đến khách thể loại và khách thể chung. Trong tình huống này,
A và B đã có hành vi lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản. Tội lừa đảo chiếm đoạt
4


Nhóm tháng 2

tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối. Và
khách thể trực tiếp của tội này chính là quan hệ sở hữu. Đây là một quan hệ xã
hội được pháp luật hình sự bảo vệ, quy định tại chương XIV – Các tội xâm phạm
sở hữa và lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một tội danh được quy định tại Điều 139
của chương này.
b.2. Đối tượng tác động của tội phạm:
Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm,
bị hành vi phạm tội tác động đến nhằm gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại
cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.
Qua khái niệm trên ta có thể thấy tuy gần gũi với khách thể của tội phạm
nhưng thực chất đối tượng tác động của tội phạm khác với khách thể của tội
phạm. Nó khác ở chỗ khách thể của tội phạm nó mang tính trìu tượng cịn đối
tượng tác động mang tính cụ thể hơn. Đối tượng tác động của tội phạm là những
phần trong khách thể của tội phạm mà khi tác động đến nó người phạm tội gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm. Sự gây thiệt hại
cho khách thể dù ở hình thức cụ thể cũng luôn diễn ra trên cơ sở hành vi phạm
tội làm biến đổi tình trạng của các đối tượng tác động. Và bất cứ tội phạm nào
cũng đều tác động làm biến đổi tình trạng của những đối tượng tác động cụ thể.

Với vai trò là bộ phận của khách thể của tội phạm thì đối tượng tác động là dấu
hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm, vì mọi hành vi phạm tội đều nhằm vào
một đối tượng cụ thể nào đó với một mục đích nhất định. Vì vậy để định tội danh
thì phải căn cứ vào đối tượng tác động của tội phạm cũng như mức độ thiệt hại
cho đối tượng tác động do hành vi của người phạm tội gây ra. Trên cơ sở phân
tích trên có thể đưa ra một số loại đối tượng tác động của tội phạm như sau:
Thứ nhất: con người có thể là đối tượng tác động của tội phạm ví dụ như
hành vi tước đoạt tính mạng của người khác, hành vi xúc phạm danh dự nhân
phẩm…
5


Nhóm tháng 2

Thứ hai: đối tượng vật chất với ý nghĩa là khách thể của quan hệ xã hội
có thể là đối tượng tác động của tội phạm. Tất cả những hành vi làm biến đổi
tình trạng bình thường sản cùa người khác một cách trái pháp luật đều là những
hành vi gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu. Sự biến đổi tình trạng này có thể là do
những hành vi khác nhau như là chiếm đoạt, chiếm giữ tài sản…
Thứ ba: các hoạt động bình thường của chủ thể có thể là đối tượng tác
động của tội phạm. Ví dụ như hành vi đưa hối lộ làm biến dạng cách xử sự của
người có chức vụ quyền hạn…
Dựa trên cơ sở của sự phân loại trên, thì trong tình huống đề bài cho
đối tượng tác động của tội phạm trong trường hợp này là đối tượng vật chất với ý
nghĩa là khách thể của quan hệ xã hội. Mà đối tượng cụ thể ở đây là “ những
chiếc xe máy cũ của những người đăng quảng cáo trên báo hàng ngày” với
hành vi chiếm đoạt và thủ đoạn ở đây là đánh tráo vàng thật thành vàng giả để
đánh lừa những chủ thể xe máy cũ có nhu cầu bán. Và thực tế thì hành vi trên
của hai chị em A và B đã đánh lừa nhiều chủ thể và mua được 7 chiếc xe máy
bằng vàng giả với giá trị lớn lên tới 121.000.000 đồng. Hành vi phạm tội của A,

B xâm hại đến quan hệ sở hữu, cụ thể là sở hữu tài sản. Khi xâm hại đến quan hệ
tài sản cái mà người phạm tội hướng tới chính là tài sản. Đó phải là tài sản của
người khác chứ không thể là tài sản của chính người phạm tội, có giá trị vật chất
nhất định, thường có hình thức hiện vật là chủ yếu. A và B đã xâm hại đến quan
hệ sở hữu tài sản của những người chủ sở hữu những chiếc xe máy.
Việc xác định đối tượng tác động có ý nghĩa trong việc đánh giá tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và do vậy cũng có ý nghĩa
trong việc định khung hình phạt. Điểm e khoản 2 Điều 139 “ Chiếm đoạt tài sản
có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng” là một tình tiết
định khung tăng nặng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với mức hình phạt là
phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
6


Nhóm tháng 2

c. A phạm tội thuộc trường hợp tái phạm.
Vì:
A có một tiền án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xố án tích.
Với trộm cắp tài sản của A nằm trong khoản nào của Điều 133 thì A vẫn phạm
tội với trường hợp tái phạm. Hành vi phạm tội lần sau của A được quy định tại
khoản 2 Điều 139 BLHS “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây,
thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chun nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ
chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm

triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.”
Căn cứ theo khoản 3 điều 8 “tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại
lớn cho xã hội mà mức cao nhất là của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy
năm tù”, như vậy mức cao nhất của khung hình phạt là 7 năm tù nên hành vi
phạm tội lần thứ 2 của A đươc phân vào loại tội phạm nghiêm trọng, và A phạm
tội lần 2 là cố ý phạm tội.
Khoản 1 điều 49 về “Tái phạm, tái phạm nguy hiểm” quy định: “Tái phạm là
trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc
phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý”. Trong trường hợp
này, A đã phạm tội lừa đảo, chiếm đoạt tài sản bằng cách đánh tráo vàng thật

7


Nhóm tháng 2

thành vàng giả khi mua bán và “mua” được 7 chiếc xe máy bằng vàng giả, tội
phạm lần 2 của A là tội nghiêm trọng, hành vi phạm tội của A phạm là cố ý.
Như vậy, căn cứ theo quy định của pháp luật tại khoản 1 Điều 49, A thuộc
trường hợp tái phạm.
c. Vụ án trên có phải là đồng phạm khơng? Vì sao?
Trước tiên phải khẳng định vụ án trên không phải là đồng phạm.
Điều 20 BLHS quy định: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên
cố ý cùng thực hiện một tội phạm”
Về mặt khách quan, đồng phạm địi hỏi có hai dấu hiệu.
Một là, phải có từ hai người trở lên và những người này có đủ năng lực
chủ thể của tội phạm. Đó là điều kiện có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Hai là những người này phải cùng thực hiện tội phạm. Trường hợp trên,

hai chị em A và B đã dùng vàng giả để mua lại xe máy cũ. Như vậy, cả hai đã
cùng tham gia hành vi phạm tội.
Về mặt chủ quan, đồng phạm đòi hỏi những người cùng thực hiện tội
phạm đều có lỗi cố ý, tức là họ biết hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội,
biết người khác cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng với mình và cùng
mong muốn cho hậu quả xảy ra. Mỗi người đồng phạm không chỉ cố ý với hành
vi của mình mà cịn biết và mong muốn sự cố ý tham gia của những người đồng
phạm khác. Đồng thời với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại khoản
1 Điều 139 thì đó là một tội danh mà mục đích phạm tội là một dấu hiệu bắt
buộc nên chỉ có đồng phạm trong tội này khi hai người tham gia có cùng mục
đích phạm tội. Trường hợp trên, hai chị em A và B đã cố ý dùng vàng giả để mua
lại những chiếc xe máy cũ, cùng nhằm lừa đảo chiếm đoạt tài sản và hai người
đã đạt được mục đích của mình. Họ đã mua được 7 chiếc xe máy với tổng giá trị
121.000.000đ.
8


Nhóm tháng 2

Như vậy, có thể thấy hành vi của A và B hầu hết đã thỏa mãn các dấu hiệu
của đồng phạm. Tuy nhiên, lại không thỏa mãn dấu hiệu thứ nhất về mặt khách
quan, đó là dấu hiệu đồng phạm phải là những người có đủ điều kiện chủ thể.
Trường hợp nêu trên, A 19 tuổi, B 15 tuổi. Hành vi phạm tội của A và B được
quy định tại khỏan 2 điều 139 BLHS. Theo quy định tại khoản 3 điều 8 BLHS,
loại tội mà A thực hiện thuộc loại tội phạm nghiêm trọng vì mức cao nhất của
khung hình phạt là đến 7 năm tù.
Theo quy định tại điều 12 BLHS:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi loại tội
phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm

hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng”
Trong trường hợp trên, B mới 15 tuổi, tội phạm mà hai chị em thực hiện
thuộc loại tội phạm nghiêm trọng. Trường hợp của B là trường hợp người chưa
thành niên phạm tội, B không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này theo quy
định tại khoản 2 Điều 12 và khoản 2 Điều 69 BLHS. Trong độ tuổi từ tuổi bắt
đầu có năng lực trách nhiệm hình sự ( 14 tuổi) đến tuổi có năng lực trách nhiệm
đầy đủ ( 16 tuổi), năng lực trách nhiệm hình sự cịn hạn chế. Do vậy người trong
độ tuổi này chỉ bị coi là có năng lực trách nhiệm hình sự trong những trường hợp
nhất định. Và ở trường hợp này, B là người khơng có năng lực trách nhiệm hình
sự do B chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS. Như
vậy, tình huống này tuy thỏa mãn hầu hết các dấu hiệu của đồng phạm nhưng
không thỏa mãn tất cả các dấu hiệu. Vì thế, có thể khẳng định vụ án trên không
phải là đồng phạm.
KẾT LUẬN

9


Nhóm tháng 2

Qua giải quyết tình huống trên chúng ta có thể hiểu sâu hơn về tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản - một trong những tội phạm đã và đang ra tăng trong xã hội
hiện nay xâm phạm tới tài sản của cơng dân. Mặt khác chúng ta cịn hiểu ý nghĩa
của hình phạt đặt ra tương ứng với mức độ nguy hiểm mà tội phạm gây ra. Cũng
như việc quyết định hình phạt với người phạm tội cần phải xem xét và cân nhắc
kỹ lưỡng. Nhưng thực tiễn áp dụng luật để giải quyết thì khơng hề đơn giản đòi
hỏi các nhà áp dụng luật phải năng động sáng tạo để không để lọt tội phạm và
gây oan sai.


10


Nhóm tháng 2

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình “ Luật hình sự Việt Nam”, trường Đại học Luật Hà Nội.
2. Bộ luật hình sự Việt Nam sửa đổi, bổ sung năm 2009.
3. Bình luận khoa học luật hình sự phần các tội phạm, Tập 2 - Đinh
Văn Quế- NXB TPHCM.
4. www.luatvietnam.vn

11



×