Tải bản đầy đủ (.docx) (98 trang)

giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty may tinh lợi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (688.37 KB, 98 trang )

Khóa luận tốt nghiệp Đại

Mục lục

MỤC LỤC

1


Khóa luận tốt nghiệp Đại

Danh mục các từ viết tắt

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ASEAN

Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á

AFTA

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN

CAD/CAM

Máy tính trợ giúp thiết kế và sản xuất

CBCNV

Cán bộ công nhân viên

CCDC



Công cụ dụng cụ

CMT

Cắt, May, Sửa (Hợp đồng uỷ thác xuất khẩu)

EU

European Union - Liên minh Châu Âu

FTA

Hiệp định thương mại tự do

FOB

Giao hàng trên phương thức vận chuyển (Free on Board)

GDP

Gross Domestic Product - Tổng sản phẩm nội địa

NVL

Nguyên vật liệu

PCCC

Phòng cháy chữa cháy


SWOT

Strengths Weaknesses Opportunities Threats - Ma trận SWOT

TSCĐ

Tài sản cố định

TCCN

Trung cấp chuyên nghiệp

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

VINATEX

Tổng công ty dệt may Việt Nam

VITAS

Hiệp Hội Dệt May Việt Nam

WTO

World Trade Organization - Tổ chức Thương mại thế giới

WIPO


Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới

XTTM

Xúc tiến thương mại

XNK

Xuất nhập khẩu

2


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Danh mục bảng biểu, hình vẽ

DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ

3


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Mở đầu

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh đóng vai trò vô cùng quan trọng và được

coi là động lực của sự phát triển của các doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói
chung. Trong cùng một thị trường càng có nhiều doanh nghiệp hoạt động thì cạnh
tranh càng trở nên gay gắt và phức tạp. Trong khi đó môi trường kinh doanh lại luôn
biến động không ngừng. Do vậy muốn tồn tại và phát triển thì các doanh nghiệp phải
tự khẳng định được năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường.
Ngành dệt may với tốc độ tăng trưởng trung bình 14,5%/năm giai đoạn 2008 –
2013, Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng ngành dệt may lớn
nhất thế giới. Năm 2013, dệt may là ngành xuất khẩu lớn thứ 2 cả nước với giá trị đạt
17,95 tỷ USD. Tuy nhiên ngành dệt may nước ta vẫn chưa vẫn chưa mang lại giá trị
gia tăng cao trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu do chủ yếu sản xuất gia công theo
phương thức CMT. Bên cạnh đó, ngành công nghiệp phù trợ vẫn chưa phát triển là
một trong những thách thức lớn trong việc khai thác những lợi ích từ các hiệp định
thương mại tự do như: Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương
(TPP), FTU-EU Việt Nam… Trong xu thế hội nhập và tự do hóa thương mại, các
doanh nghiệp ngành dệt may phải chịu nhiều áp lực nặng nề và đối mặt với nhiều khó
khăn, thử thách lớn, phải cạnh tranh gay gắt với các đối thủ xuất khẩu cùng ngành
hàng ở các nước lớn như: Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc,... trên thị trường ngoài nước
lẫn trong nước.
Do đó, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp là hết sức cần thiết,
đòi hỏi sự nhận thức đầy đủ, sự phân tích chính xác thực trạng, chủ động sắc bén khi
đưa ra giải pháp hợp lý và kịp thời nhằm đứng vững, thành công và khẳng định vị trí
trong khu vực và thế giới. Các doanh nghiệp may mặc Việt Nam cần phải vượt qua
những thách thức, áp lực hiện tại, có tầm nhìn chiến lược, những chiến lược kinh
doanh dài hạn và có những bước đi cụ thể vững chắc để tạo dựng uy tín, thương hiệu
của mình nhằm cạnh tranh thắng lợi trên thị trường.
Là một đơn vị kinh doanh trong ngành dệt may, công ty TNHH May Tinh Lợi cũng
đang đối mặc những vấn đề khó khăn và thách thức trên. Công ty đang giải quyết việc
làm cho hơn 10.000 nhân viên, đóng góp vào sự phát triển chung của ngành dệt may
cả nước. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu và đánh giá năng lực cạnh tranh của
công ty TNHH May Tinh Lợi để đưa ra giải pháp phù hợp nhằm nâng cao năng lực

cạnh tranh cho các doanh nghiệp của ngành nói chung, cũng như công ty TNHH May
Tinh Lợi nói riêng là vấn đề cấp thiết đang đặt ra. Do vậy, qua quá trình nghiên cứu
hoạt động kinh doanh của công ty tác giả đã chọn đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh
tranh của công ty TNHH May Tinh Lợi” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp đại học cho
mình với câu hỏi nghiên cứu:
4


Khóa luận tốt nghiệp Đại học
-

Mở đầu

Các nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của công ty TNHH May
Tinh Lợi?
Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của công ty?
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty?
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
-

Mục đích nghiên cứu:

Đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của công ty TNHH May Tinh Lợi từ đó
đưa ra các đề xuất, kiến nghị và giải pháp để nâng cao năng lực canh tranh của công
ty.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của công ty TNHH May
Tinh Lợi.
+ Thực trạng năng lực cạnh tranh của công ty, đưa ra các ưu điểm và tồn tại trong quá
trình cạnh tranh cũng như các nguyên nhân tồn tại của nó.

+ Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty TNHH May
Tinh Lợi.
-

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-

Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là năng lực cạnh tranh của công ty TNHH May
Tinh Lợi gắn với sản phẩm dệt may.
Phạm vi nghiên cứu:
Không gian: tại công ty TNHH May Tinh Lợi với sản phẩm dệt may và một số
đối thủ cạnh tranh của công ty.
+ Thời gian: trong giai đoạn từ năm 2012-2014.
+

4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng các phương pháp như sau:
-

-

Phần lý thuyết, tác giả tham khảo các tài liệu liên quan đề tài từ đó chọn lọc và hệ
thống hóa để làm cơ sở lý luận cho đề tài.
Phần đánh giá môi trường cạnh tranh được thực hiện từ nguồn thông tin thứ cấp và
thông tin sơ cấp.
Thông tin thứ cấp gồm thông tin từ các báo cáo của Công ty TNHH May Tinh Lợi, các
nguồn từ Tổng Cục thống kê Việt Nam, mạng Internet,...
Thông tin sơ cấp bằng cách lập bảng câu hỏi, phát phiếu điều tra trực tiếp với số lượng

30 phiếu, sử dụng phần mềm Excel để tổng hợp số liệu thu thập.
Tham khảo ý kiến chuyên gia bằng cách trao đổi với cán bộ phòng kế hoạch, xuất
nhập khẩu, phòng kế toán, phòng hành chính – nhân sự của công ty TNHH May Tinh
Lợi để xác định các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của công ty điểm mạnh,
điểm yếu về năng lực cạnh tranh của công ty và cơ hội, nguy cơ công ty đang đối mặt.
Phần giải pháp được thực hiện dựa vào kết quả phân tích thực trạng, giải quyết các
nguyên nhân gây ra điểm yếu, duy trì điểm mạnh, năng lực cạnh tranh của công ty, các
5


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Mở đầu

mục tiêu của công ty và tham khảo ý kiến một số CBCNV công ty TNHH May Tinh
Lợi.
5. Bố cục và kết cấu khóa luận
Ngoài phần mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, khóa luận được chia làm
3 chương cụ thể như sau:
-

Chương 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của công ty TNHH May Tinh Lợi.
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty TNHH May Tinh Lợi.

6


Khóa luận tốt nghiệp Đại học


Chương 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 Cơ sở lý luận về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và lợi thế cạnh tranh
1.1.1 Khái niệm về cạnh tranh
Cạnh tranh xuất hiện và tồn tại khách quan trong quá trình hình thành, phát triển
của sản xuất hàng hoá. Cạnh tranh gắn liền với sự vận động của các quy luật giá trị,
quy luật cung - cầu, tạo thành cơ chế vận động của nền kinh tế thị trường, là quy luật
tất yếu và là động lực của phát triển nền kinh tế thị trường. Trong lịch sử phát triển của
nền kinh tế thế giới đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về cạnh tranh.
Các nhà kinh tế học thuộc trường phái cổ điển cho rằng, cạnh tranh là quá trình bao
gồm các hành vi phản ứng. Quá trình này tạo ra trong mỗi thành viên trong thị trường
một dư địa hoạt động nhất định và mang lại cho mỗi thành viên một phần xứng đáng
so với khả năng của mình ( PGS. TSKH. Lê Du Phong, Nguồn lực và động lực phát
triển trong nền Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Lý
luận chính trị, HN 2006, tr 39).
Cạnh tranh theo hàm nghĩa kinh tế học học là chỉ quá trình tranh đấu tiến hành
không ngừng giữa các chủ thể kinh tế trong thị trường nhằm thực hiện lợi ích kinh tế
và mục tiêu đã định của bản thân. Động lực nội tại của cạnh tranh là lợi ích kinh tế của
tự thân chủ kinh tế, biểu hiện cụ thể trong quá trình cạnh tranh là giữ hoặc mở rộng
mức chiếm hữu thị trường, gia tăng mức tiêu thụ, nâng cao lợi nhuận. Áp lực bên
ngoài của cạnh tranh là đọ sức kịch liệt giữa các đối thủ cạnh tranh, kẻ bại tất sẽ bị đào
thải.
Từ điển kinh doanh của Anh (Xuất bản năm 1992): Cạnh tranh được xem là sự ganh
đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một
loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình.
Theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam: Cạnh tranh là hoạt động tranh đua giữa
những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền

kinh tế thị trường, bị chi phối bởi quan hệ cung - cầu, nhằm dành các điều kiện sản
xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất.
Cạnh tranh buộc những người sản xuất và buôn bán phải cải tiến kĩ thuật, tổ chức
quản lí để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng hàng hoá, thay đổi mẫu mã,
bao bì phù hợp với thị hiếu của khách hàng; giữ tín nhiệm; cải tiến nghiệp vụ thương
mại và dịch vụ, giảm giá thành, giữ ổn định hay giảm giá bán và tăng doanh lợi.
Qua các khái niệm đã nêu ở trên, ta có thể hiểu một cách đầy đủ: Cạnh tranh là quá
trình kinh tế mà trong đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau, tìm mọi biện pháp cả
nghệ thuật kinh doanh lẫn thủ đoạn để đạt được mục tiêu kinh tế của mình như chiếm
7


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Chương 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp

lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như đảm bảo tiêu thụ có lợi nhất nhằm
nâng cao vị thế của mình.
Có thể nói rằng ở đâu có lợi ích kinh tế thì ở đó có cạnh tranh. Mục đích cuối cùng
của cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích đối với các doanh nghiệp là lợi nhuận, đối với
người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng. Nhà nước khuyến khích sự cạnh tranh giữa các
chủ thể sản xuất kinh doanh nhằm đẩy nhanh tiến bộ khoa học - kĩ thuật và công nghệ,
nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, giảm giá thành, trên cơ sở
đó, tăng lợi nhuận cho người sản xuất, kinh doanh giỏi, đồng thời có lợi cho người tiêu
dùng và toàn xã hội, nhưng chỉ thừa nhận sự cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật,
chống những hoạt động phạm pháp đẻ ra những hệ quả tiêu cực trong xã hội (làm hàng
giả, buôn lậu, trốn thuế, ăn cắp bản quyền, đầu cơ tích trữ, độc quyền, hối lộ, lừa
đảo…) làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, bất ổn kinh tế dẫn tới sự phân
hoá giàu nghèo ngày càng tăng.

1.1.2 Năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp
a. Khái niệm về năng lực cạnh tranh
Theo quan điểm tổng hợp của Van Duren, Martin và Westgren thì năng lực cạnh
tranh là khả năng tạo ra và duy trì lợi nhuận, thị phần trên các thị trường trong và
ngoài nước. Các chỉ số đánh giá là năng suất lao động, công nghệ, tổng năng suất các
yếu tố sản xuất, chi phí cho nghiên cứu và phát triển, chất lượng và tính khác biệt của
sản phẩm, chi phí đầu vào. Ngoài ra, theo lý thuyết tổ chức công nghiệp xem xét năng
lực cạnh tranh dựa trên khả năng sản xuất ra sản phẩm ở một mức giá ngang bằng hay
thấp hơn mức giá phổ biến mà không có trợ cấp, đảm bảo đứng vững trước các đối thủ
khác hay sản phẩm thay thế.
Theo Michael E. Porter, năng lực cạnh tranh là khả năng sáng tạo ra sản phẩm có
quy trình công nghệ độc đáo để tạo ra giá trị gia tăng cao phù hợp với nhu cầu khách
hàng, chi phí thấp, năng suất cao nhằm tăng nhanh lợi nhuận.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng vượt qua các đối thủ cạnh tranh
để duy trì và phát triển chính bản thân doanh nghiệp.
Như vậy, năng lực cạnh tranh có thể hiểu là khả năng khai thác, huy động, quản lý
và sử dụng các nguồn lực và các điều kiện khách quan một cách có hiệu quả nhằm tạo
ra lợi thế cạnh tranh trước đối thủ, đảm bảo cho doanh nghiệp có thể tồn tại và phát
triển trên thị trường.
Thông thường người ta đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua
các yếu tố nội tại như quy mô, khả năng tham gia cạnh tranh và rút khỏi thị trường, sản
phẩm, năng lực quản lý, năng suất lao động, trình độ công nghệ. Tuy nhiên, khả năng
này lại bị tác động bởi nhiều yếu tố bên ngoài (Nhà nước và các thể chế trung gian).
Doanh nghiệp nào có khả năng đổi mới và sáng tạo lớn thì doanh nghiệp đó có khả
năng cạnh tranh cao.
8


Khóa luận tốt nghiệp Đại học


Chương 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp

Ngoài ra, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp còn được thể hiện ở chiến lược
kinh doanh thích hợp và hiệu quả kinh doanh từ khâu nắm bắt thông tin đến khâu tổ
chức sản xuất, từ đổi mới công nghệ đến phương pháp quản lý phục vụ, từ đổi mới mặt
hàng, các loại hình dịch vụ đến công việc tiếp thị, quảng cáo.
Như vậy, thuật ngữ “năng lực cạnh tranh” dù đã được sử dụng rộng rãi nhưng vẫn
còn nhiều quan điểm khác nhau về nó, dẫn đến cách thức đo lường năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp vẫn chưa được xác định một cách thống nhất và phổ biến.
Tuy thế, từ các quan điểm trên, tác giả cho rằng: Năng lực cạnh tranh là khả năng
khai thác, huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực giới hạn như nhân
lực, vật lực, tài lực,… để tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn so với đối thủ cạnh
tranh; đồng thời, biết lợi dụng các điều kiện khách quan một cách có hiệu quả để tạo ra
lợi thế cạnh tranh trước các đối thủ, xác lập vị thế cạnh tranh của mình trên thị trường;
từ đó, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập và lợi nhuận cao, đảm bảo cho doanh
nghiệp tồn tại, tăng trưởng và phát triển bền vững.
b. Các cấp độ của năng lực cạnh tranh
-

Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia

Hệ thống chỉ số - chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp (GCI) gồm 9 yếu tố cũng
chính là chín nhóm cho thấy năng suất cũng như năng lực cạnh tranh của quốc gia, bao
gồm: thể chế, kết cấu hạ tầng, hiệu quả thị trường, kinh tế vĩ mô, y tế và giáo dục cơ
bản, đào tạo và giáo dục bậc cao, trình độ kinh doanh, mức độ sẵn sàng về công nghệ,
đổi mới và sáng tạo.
-

Năng lực cạnh tranh cấp độ ngành


Năng lực cạnh tranh cấp độ ngành thường được xem xét qua các chỉ số định lượng
như: tỷ lệ bảo hộ hữu hiệu và lợi thế so sánh. Một ngành có năng lực cạnh tranh nếu có
năng lực duy trì được lợi nhuận, thị phần trên các thị trường trong và ngoài nước. Có
ba nhóm yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh cấp ngành như sau:
Nhóm các yếu tố thuộc về ngành: chiến lược phát triển, sản phẩm chế tạo, lựa chọn
công nghệ, đầu tư nghiên cứu, đào tạo cán bộ, quan hệ với bạn hàng…
+ Nhóm các yếu tố được quyền quyết định của chính phủ: thuế, lãi suất ngân hàng, tỷ giá
hối đoái, chi ngân sách nghiên cứu, hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ thị trường.
+ Nhóm các yếu tố mà ngành và chính phủ chỉ tác động một phần: năng lực sản xuất,
nhu cầu tiêu dùng, môi trường thương mại quốc tế.
- Năng lực cạnh tranh cấp độ doanh nghiệp
+

Năng lực cạnh tranh cấp độ doanh nghiệp là khả năng duy trì và nâng cao lợi thế
cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút và sử
dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và đảm bảo sự phát
triển kinh tế bền vững. Để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thì thường
xét đến các yếu tố:
9


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Chương 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp

Năng lực về tài chính: Năng lực tài chính phản ánh năng lực, hiệu quả tài chính của
doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần có đủ tiềm lực về tài chính, có khả năng tài trợ vốn
cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: vốn đầu tư mua sắm

thiết bị kĩ thuật công nghệ mới hay chi phí cho việc tu bổ, sửa chữa máy móc, thiết bị
hiện có nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu tài chính
thường được quan tâm khi phân tích năng lực tài chính như: vốn điều lệ, cơ cấu tài
sản, cơ cấu nguồn vốn, tổng tài sản, khả năng thanh toán, tỷ suất lợi nhuận.
+ Quản trị nhân lực: Lao động là yếu tố đầu tiên cũng như là yếu tố cuối cũng tạo nên sự
thành bại của một doanh nghiệp. Muốn nâng cao khả năng cạnh tranh của mình doanh
nghiệp phải chú ý quan tâm đến tất cả mọi người trong doanh nghiệp, từ những người
lao động bậc thấp đến nhà quản trị cấp cao nhất, bởi mỗi người đều có một vị trí quan
trọng trong các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Những người lãnh đạo chính
là những người cầm lái con tàu doanh nghiệp, họ là những người đứng mũi chịu sào
trong mỗi bước đi của doanh nghiệp, là những người có quyền lực cao nhất và trách
nhiệm thuộc về họ cũng là nặng nề nhất. Họ chính là những người xác định hướng đi
và mục tiêu cho doanh nghiệp, còn thực hiện quyết định của họ là những người nhân
viên dưới quyền.
+

Một số chỉ tiêu để đánh giá về nguồn nhân lực mỗi công ty là cơ cấu lao động theo
giới tính, đối tượng, trình độ, các chính sách đào tạo, lương thưởng, phúc lợi xã hội,
năng suất lao động. Trong đó, năng suất lao động là nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến
hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi thông qua
năng suất lao động ta có thể đánh giá được trình độ quản lý, trình độ lao động và trình
độ công nghệ của doanh nghiệp.
Chiến lược kinh doanh: Có tầm quan trọng đặc biệt, là mối quan tâm hàng đầu, định
hướng cho mọi hoạt động kinh doanh, chiến lược kinh doanh vạch ra phương hướng
phát triển của công ty trong ngắn hạn và trong dài hạn phù hợp với điều kiện kinh
doanh của công ty.
+ Quản trị công nghệ: Trình độ máy móc, thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng mạnh mẽ
tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có hệ thống trang thiết
bị, máy móc, công nghệ hiện đại thì các sản phẩm của doanh nghiệp nhất định sẽ được
bản toàn về chất lượng khi đến tay người tiêu dùng. Có hệ thống máy móc hiện đại sẽ

thúc đẩy nhanh quá trình tiêu thụ hàng hóa, tăng nhanh vòng quay về vốn, giảm bớt
được khâu kiểm tra về chất lượng hàng hóa có được bảo đảm hay không. Nếu xét về
công nghệ máy móc có ảnh hưởng đến giá thành của sản phẩm và như vậy sẽ ảnh
hưởng đến giá bán của doanh nghiệp thương mại. Ngày nay, do tác động của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ, cuộc chiến giữa các doanh nghiệp đang trở thành
cuộc cách mạng về trí tuệ, về trình độ công nghệ. Công nghệ tiên tiến không những
đảm bảo về năng suất lao động, chất lượng sản phẩm cao, giá thành hạ mà còn có thể
xác lập tiêu chuẩn mới cho từng ngành sản xuất kỹ thuật. Mặt khác, khi mà việc bảo
+

10


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Chương 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp

vệ môi trường như hiện nay đang trở thành vấn đề của toàn cầu thì doanh nghiệp nào
có trình độ công nghệ cao, thiết bị máy móc hiện đại nhất định sẽ giành được ưu thế
cạnh tranh. Tuy nhiên, công nghệ luôn luôn thay đổi, do vậy mỗi doanh nghiệp cần
không ngừng cải tiến và đổi mới kỹ thuật, công nghệ.
+ Trình độ tổ chức hoạt động quản trị: Tổ chức hoạt động quản trị là công việc rất quan
trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Hoạt động
quản trị bao gồm nhiều công việc như: bố trí công việc cho từng người nhằm phát huy
năng lực công tác của người lao động và hiệu quả kinh doanh, tránh hao phí trong quá
trình sản xuất, xây dựng những định mức tiêu hao nguyên vật liệu và có kế hoạch bố
trí, sử dụng nguyên vật liệu hiệu quả.
- Năng lực cạnh tranh cấp độ sản phẩm hàng hóa
Năng lực cạnh tranh cấp độ sản phẩm là khả năng sản phẩm tiêu thụ được nhanh

chóng khi có nhiều người cùng bán loại sản phẩm đó trên thị trường. Hay nói một cách
khác, năng lực cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào chất lượng, giá cả, tốc độ cung
ứng, dịch vụ đi kèm, uy tín của người bán, thương hiệu, quảng cáo… Đánh giá năng
lực cạnh tranh cấp độ sản phẩm hàng hóa người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau: thị
phần, quản trị hệ thống kênh phân phối, giá, chất lượng, kiểm dáng, mẫu mã, thương
hiệu.
1.1.3 Lợi thế cạnh tranh
Theo thạc sĩ Lê Thị Bích Ngọc “Những lợi thế được doanh nghiệp tạo ra và sử dụng
cho cạnh tranh thì được gọi là lợi thế cạnh tranh” [trang 45, giáo trình Quản trị chiến
lược]
Lợi thế cạnh tranh còn được hiểu như là các đặc điểm hay các biến số của sản phẩm
hoặc nhãn hiệu mà nhờ đó có chúng doanh nghiệp tạo ra một số tính trội hơn, ưu việt
hơn so với những người cạnh tranh trực tiếp.
Lợi thế cạnh tranh được coi là bên ngoài khi chúng dựa trên chiến lược phân biệt
sản phẩm, hình thành nên giá trị cho người mua, hoặc bằng cách giảm chi phí sử dụng,
hoặc bằng cách tăng khả năng sử dụng. Lợi thế này tạo cho doanh nghiệp “quyền lực
thị trường”.
Lợi thế cạnh tranh bên trong dựa trên tính ưu việt của doanh nghiệp trong việc làm
chủ chi phí sản xuất. Nó tạo nên giá trị cho người sản xuất bằng cách tạo ra cho doanh
nghiệp một giá thành thấp hơn so với người cạnh tranh chủ yếu.
Lợi thế cạnh tranh của một doanh nghiệp là những gì làm cho doanh nghiệp ấy khác
biệt và chiếm ưu thế hơn so với đối thủ cạnh tranh. Đó là những thế mạnh mà doanh
nghiệp có hay khai thác tốt hơn đối thủ cạnh tranh. Việc tạo dựng và duy trì lợi thế
cạnh tranh đóng một vai trò rất lớn trong sự thành công của doanh nghiệp.

11


Khóa luận tốt nghiệp Đại học


Chương 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp

Theo quan điểm truyền thống cổ điển, các nhân tố sản xuất như: đất đai, vốn, lao
động là những yếu tố thuộc về tài sản hữu hình được coi là những nhân tố để tạo ra lợi
thế cạnh tranh.
Theo Michael Porter: Lợi thế cạnh tranh xuất phát chủ yếu từ giá trị mà doanh
nghiệp có thể tạo ra cho khách hàng. Lợi thế có thể dưới dạng giá cả thấp hơn đối thủ
cạnh tranh (trong khi lợi ích cho người mua là tương đương) hoặc việc cung cấp
những lợi ích vượt trội so với đối thủ như về chất lượng, độ tin cậy, đặc điểm kỹ thuật,
dịch vụ,... khiến người mua chấp nhận thanh toán một mức giá cao hơn hoặc việc tập
trung vào một phân khúc thị trường hay nhiều thị trường để phát triển.
Theo tác giả, lợi thế cạnh tranh là nền tảng cho sự cạnh tranh của doanh nghiệp,
những gì làm cho doanh nghiệp khác với đối thủ, nổi bật hơn mà các đối thủ cạnh
tranh không làm được, hay bản thân doanh nghiệp thực hiện cách nổi trội hơn. Lợi thế
cạnh tranh có thể mất dần theo thời gian do sự bắt chước của các đối thủ. Vì vậy, để
duy trì lợi thế cạnh tranh của mình, các doanh nghiệp cần có chiến lược cạnh tranh
hiệu quả.
1.2 Các yếu tố bên ngoài tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.1 Môi trường vĩ mô
a. Yếu tố kinh tế
Yếu tố kinh tế luôn chứa đựng những cơ hội và đe dọa khác nhau đối với từng
doanh nghiệp trong các ngành khác nhau và có ảnh hưởng tiềm tàng đến các chiến
lược của doanh nghiệp. Yếu tố kinh tế được thể hiện đặc trưng bởi các biến số cơ bản
như: tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân đầu người, tỉ lệ lạm phát, lãi suất,
tỉ giá hối đoái, cán cân thanh toán quốc tế, hệ thống thuế, các biến động trên thị trường
chứng khoán, thất nghiệp, đầu tư nước ngoài...
⇒ Nhận xét: Đây là nhóm nhân tố ảnh hưởng quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời đây là yếu tố mà các doanh nghiệp khi xác lập
kế hoạch, mục tiêu, nghiên cứu thị trường,... đều cần tham khảo.

b. Yếu tố Chính phủ, chính trị, pháp luật
Hệ thống các quan điểm, đường lối chính sách của Chính phủ, hệ thống luật pháp
hiện hành, các xu hướng ngoại giao của Chính phủ và những diễn biến chính trị trong
nước, trong khu vực và trên toàn thế giới. Sự ổn định hay không về chế độ chính trị, hệ
thống pháp luật và các chính sách điều tiết vĩ mô của Chính phủ… tác động đến việc
hoạch định chiến lược và chương trình hành động của doanh nghiệp nhằm nắm bắt cơ
hội và giảm thiểu nguy cơ xảy ra, tạo ra môi trường thuận lợi cho hoạt động của doanh
nghiệp.
⇒ Nhận xét: Đây là yếu tố có tác động gián tiếp nhưng rất quan trọng ảnh hưởng
đến sự tồn tại và phát triển của ngành. Các doanh nghiệp phải quan tâm đến các yếu tố
12


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Chương 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp

này để hoạt động kinh doanh theo đúng khuôn khổ pháp luật và đầu tư phát triển lâu
dài.
c. Yếu tố văn hóa - xã hội
Gồm những chuẩn mực, những giá trị, trình độ dân trí, phong tục tập quán, thói
quen tiêu dùng, dân số, tỷ lệ tăng dân số, nghề nghiệp và phân phối thu nhập, tuổi thọ
và tỷ lệ sinh tự nhiên và sự phân bố dân cư. Những biểu biết và thông tin về văn hoá
xã hội và dân cư giúp nhà quản trị hoạch định chiến lược một cách hiệu quả.
⇒ Nhận xét: Sự thay đổi của các yếu tố văn hóa – xã hội có thể tác động tích cực
hay tiêu cực đến hoạt động của doanh nghiệp, do đó, cần phải thường xuyên nắm bắt
những thay đổi trong môi trường văn hóa – xã hội để có những phản ứng kịp thời
trước đối thủ cạnh tranh.
d. Yếu tố tự nhiên

Những tác động của thiên nhiên có ảnh hưởng lớn đến các quyết định kinh doanh
của các doanh nghiệp. Chính quyền ngày càng quan tâm đến vấn đề ô nhiễm môi
trường, thiếu năng lượng và sử dụng lãng phí nguồn tài nguyên thiên nhiên. Ngoài ra,
khách hàng đặc biệt quan tâm đến sản phẩm có nguồn gốc tự nhiên, những sản phẩm
thỏa mãn các điều kiện môi trường trong quá trình sản xuất. Do đó, đòi hỏi các nhà
quản trị chiến lược phải có các biện pháp đảm bảo phù hợp.
⇒ Nhận xét: Yếu tố tự nhiên có tác động rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh,
khi đầu tư nhà quản trị nào biết tận dụng kịp thời lợi thế của các yếu tố tự nhiên và
tránh những thiệt hại do tác hại của các yếu tố này gây ra sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh
hơn các đối thủ trong ngành.
e. Yếu tố công nghệ và kỹ thuật
Ngày càng có nhiều công nghệ và kỹ thuật mới ra đời, tạo ra các cơ hội cũng như
nguy cơ cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần phải xem xét công nghệ và kỹ
thuật mà mình đang sử dụng có bị lạc hậu không. Việc áp dụng công nghệ và kỹ thuật
mới hiệu quả thường tạo ra áp lực lớn cho doanh nghiệp đang ở giai đoạn phát triển
ban đầu hơn là doanh nghiệp lớn đã hoạt động lâu năm. Vì vậy, việc triển khai công
nghệ phải ổn định tương đối và phải phù hợp với khả năng của doanh nghiệp và thời
gian sử dụng công nghệ. Yếu tố công nghệ được xem là yếu tố rất năng động, hàm
chứa nhiều cơ hội và đe dọa đối với doanh nghiệp. Áp lực và đe dọa của yếu tố công
nghệ như: công nghệ mới làm xuất hiện các sản phẩm thay thế đe dọa các sản phẩm
truyền thống của ngành hiện hữu; sự phát triển của công nghệ mới làm cho công nghệ
hiện hữu bị lỗi thời tạo áp lực đổi mới công nghệ lên doanh nghiệp nhưng tạo điều
kiện thuận lợi cho những người mới xâm nhập ngành; sự bùng nổ của công nghệ mới
làm rút ngắn vòng đời công nghệ tạo, áp lực rút ngắn thời gian khấu hao so với trước
đây. Bên cạnh những đe dọa thì sự phát triển của công nghệ cũng tạo ra cơ hội cho
doanh nghiệp trong việc tạo ra sản phẩm chất lượng hơn, giá rẻ hơn làm tăng khả năng
13


Khóa luận tốt nghiệp Đại học


Chương 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp

cạnh tranh, đồng thời cũng có thể tạo ra thị trường mới cho sản phẩm và dịch vụ của
doanh nghiệp.
⇒ Nhận xét chung: Các yếu tố trong môi trường vĩ mô có mối quan hệ chặt chẽ, tác
động lẫn nhau, vì thế, để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành, cần xem xét trong
mối quan hệ tổng thể, từ đó, tiên đoán, dự báo và xây dựng các chính sách phát triển
của doanh nghiệp cho phù hợp.
1.2.2 Các yếu tố môi trường vi mô
Môi trường vi mô bao gồm các yếu tố trong ngành và các yếu tố ngoại cảnh đối với
doanh nghiệp. Nó quyết định tính chất và mức độ cạnh tranh trong ngành sản xuất
kinh doanh đó. Có năm yếu tố cơ bản trong môi trường vi mô cần phân tích là: đối thủ
cạnh tranh, khách hàng, nhà cung ứng, đối thủ tiềm ẩn mới và sản phẩm thay thế, (xem
Hình 1.1), như sau:

Hình 1.1: Mô hình 5 lực lượng cạnh tranh của Michael E.Porter
(Nguồn: website marketing.edu.vn)
a. Khách hàng
Đây là một phần của công ty, khách hàng là người mua sản phẩm, dịch vụ của công
ty, có được khách hàng trung thành là một lợi thế lớn của công ty. Sự trung thành của
khách hàng được tạo dựng bởi sự thỏa mãn những nhu cầu của khách hàng và mong
muốn làm tốt hơn. Các doanh nghiệp cần lập bảng phân loại các khách hàng hiện tại
và tương lai. Các thông tin thu được từ bảng phân loại này là cơ sở định hướng quan
14


Khóa luận tốt nghiệp Đại học


Chương 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp

trọng cho việc hoạch định kế hoạch nhất là các kế hoạch liên quan trực tiếp đến
marketing.
Khách hàng hiện tại cũng như khách hàng tiềm ẩn của doanh nghiệp là một phần
không thể tách rời với môi trường cạnh tranh. Doanh nghiệp bán được hàng thì có thị
trường, không bán được thì không có thị trường, bán nhiều hàng thì có nhiều khách
hàng, thị phần doanh nghiệp gia tăng, nâng cao vị thế trên thị trường. Sự tín nhiệm của
khách hàng là tài sản có giá trị nhất của doanh nghiêp, đạt được điều này là do doanh
nghiệp biết thoả mãn tốt nhu cầu và thị hiếu của khách hàng so với đối thủ cạnh tranh.
Khách hàng tìm đến doanh nghiệp là do họ có nhu cầu về hàng hoá dịch vụ. Trong
một thời kỳ nhất định, số cầu vừa tác động trực tiếp đến việc nghiên cứu quyết định
cung của doanh nghiệp, lại vừa tác động đến mức độ và cường độ cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp cùng ngành. Doanh nghiệp có khả năng thoả mãn nhu cầu của khách
hàng khi hàng hóa dịch vụ doanh nghiệp cung ứng ra thích hợp với nhu cầu của họ,
đáp ứng đầy đủ số lượng, chất lượng, giá cả phù hợp, hoạt động dịch vụ tốt, địa điểm
gần khách hàng, hàng hoá thuộc nhãn hiệu nổi tiếng…
Mối quan hệ giữa khách hàng với doanh nghiệp: Khả năng mặc cả của khách hàng
và khả năng đáp ứng của doanh nghiệp là vấn đề thường xuyên phải giải quyết. Thông
thường khách hàng yêu cầu giảm giá hoặc yêu cầu chất lượng tốt đi kèm với các dịch
vụ, điều này làm cho chi phí của doanh nghiệp tăng suy ra tạo nguy cơ cạnh tranh giá.
Chỉ có một doanh nghiệp duy nhất đáp ứng hàng hoá thì cơ hội giảm giá của khách
hàng là ít và thường khách hàng không thể ép doanh nghiệp trong việc thoả mãn nhu
cầu của mình.
Tuy nhiên khách hàng có thế mạnh khi: Khách hàng mua khối lượng hàng hoá lớn,
khách hàng có thể dễ dàng chuyển sang mua của các doanh nghiệp khác mà không tốn
kém về thời gian chi phí, khách hàng có nhiều khả năng lựa chọn với hàng thay thế đa
dạng, khách hàng có lợi thế trong chiến lược hội nhập dọc ngược chiều, tiếp xúc trực
tiếp với nguồn cung ứng của doanh nghiệp thương mại.

Doanh nghiệp phân tích các đặc điểm của khách hàng về: Khu vực địa lý, nhân
khẩu, tâm lý, thái độ, tuổi tác, tôn giáo… Sẽ là cơ sở cho hoạch định kế hoạch bán
hàng và có chính sách đối với từng nhóm khách hàng cho phù hợp.
⇒ Nhận xét: Doanh nghiệp phải thường xuyên nghiên cứu nhu cầu khách hàng, thu
thập thông tin, định hướng tiêu thụ trong hiện tại và tương lai, làm cơ sở hoạch định kế
hoạch sản xuất kinh doanh và làm tăng số lượng khách hàng hiện tại của công ty từ đó
năng cao khả năng cạnh tranh.
b. Nhà cung ứng
Các nhà cung ứng hình thành các thị trường cung ứng các yếu tố đầu vào khác nhau
bao gồm cả người bán thiết bị nguyên vật liệu, người cấp vốn, người cung cấp lao
15


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Chương 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp

động và cung cấp các dịch vụ tư vận chuyển quảng cáo, tư vấn, sức lao động cho
doanh nghiệp
Tính chất của các thị trường cung cấp khác nhau sẽ ảnh hưởng khác nhau tới hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Thị trường mang tính chất cạnh tranh
(cạnh tranh không hoàn hảo hay độc quyền), thị trường có hay không có sự điều tiết
của nhà nước cũng như mức độ, tính chất điều tiết, tính ổn định hay không ổn định của
thị trường cũng tác động trực tiếp đến hoạt động mua sắm, dự trữ cũng như tuyển dụng
lao động của từng doanh nghiệp.
Nhà cung ứng là nguy cơ khi họ đòi nâng giá hoặc giảm chất lượng, số lượng cung
ứng. Để tránh sức ép của nhà cung ứng doanh nghiệp phải mở rộng mối quan hệ, đa
dạng hoá các nguồn cung ứng khác nhau hoặc xây dựng mối quan hệ đầu tư liên doanh
liên kết lâu dài hai bên cùng có lợi.

Nhà cung ứng có ưu thế khi:
-

Họ có sự chuyên biệt hoá sản phẩm cung ứng, thì doanh nghiệp khó lựa chọn nhà cung
ứng thay thế.
Nguồn cung ứng không có nhiều sản phẩm thay thế khác trên thị trường buộc doanh
nghiệp phải lựa chọn họ.
Khi nhà cung ứng có khả năng hội nhập dọc thuận chiều và có khả năng cạnh tranh với
chính doanh nghiệp thương mại kinh doanh hàng hoá của họ.
Sản phẩm cung ứng không thuộc nhóm sản phẩm quan trọng của nhà cung ứng nên họ
không bị áp lực giảm giá hoặc cải thiện chất lượng sản phẩm cung ứng.
Khi nhà cung ứng độc quyền và sản phẩm của họ không thể sản xuất trong thời gian
ngắn.
Nhà cung ứng là những công ty kinh doanh và những cá thể cung cấp cho công ty
và các đối thủ cạnh tranh các nguồn vật tư cần thiết để sản xuất ra những mặt hàng cụ
thể hay dịch vụ nhất định. Các nhà cung cấp có thể gây một áp lực mạnh trong hoạt
động của một doanh nghiệp. Việc nghiên cứu để hiểu biết về những người cung cấp
các nguồn lực cho doanh nghiệp là không thể bỏ qua trong quá trình nghiên cứu môi
trường.
⇒ Nhận xét: Đây là nhân tố có tác động rất lớn đến hoạt động doanh nghiệp, là
nguồn đầu vào góp phần tạo nên sản phẩm có chất lượng.
c. Đối thủ tiềm ẩn
Đối thủ mới tham gia kinh doanh trong ngành có thể là yếu tố làm giảm lợi nhuận
của doanh nghiệp do họ đưa vào khai thác các năng lực sản xuất mới với mong muốn
giành được thị phần và các nguồn lực cần thiết. Mặc dù không phải bao giờ doanh
nghiệp cũng gặp phải đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn mới, nhưng các doanh nghiệp cần đề
phòng, nếu có thì cần các biện pháp để phòng chống.

16



Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Chương 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp

Tác động của các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn đối với hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp đến đâu hoàn toàn phụ thuộc vào sức mạnh cạnh tranh của doanh
nghiệp. Sự xuất hiện của các đối thủ này sẽ làm gia tăng mức độ cạnh tranh của ngành.
Đổi thủ mới tham gia kinh doanh trong ngành thường đưa vào khai thác các năng
lực công nghệ mới tiên tiến hiện đại với mong muốn giành được thị phần trên thị
trường đó sẽ là yếu tố làm giảm lợi nhuận của các doanh nghiệp.
Nguy cơ đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn được đánh giá tuỳ theo các rào cản nhập cuộc
của ngành và các biện pháp trả đũa từ phía các doanh nghiệp hiện tại. Theo Michel
Porter các rào cản nhập cuộc chính là: Tiết kiệm quy mô, mức độ khác biệt hoá sản
phẩm, yêu cầu về vốn đầu tư cho thâm nhập, chi phí chuyển đổi, kênh phân phối, các
quy định của chính phủ… Vì vậy, bên cạnh phát triển kinh doanh mở rộng thị trường
doanh nghiệp bảo vệ vị thế cạnh tranh của mình bằng cách duy trì hàng rào hợp pháp
ngăn cản sự xâm nhập từ bên ngoài như: đa dạng hoá sản phẩm, mạng lưới phân phối
tiêu thụ hàng hóa hợp lý, sự trung thành của khách hàng, lợi thế chi phí thấp dịch
vụ hoàn hảo, tiềm lực tài chính, mối quan hệ truyền thống lâu dài. Nếu các rào cản
nhập cuộc của ngành là lớn và nếu các doanh nghiệp sẵn sàng trả đũa thì nguy cơ xâm
nhập là rất nhỏ.
d. Sản phẩm thay thế
Những sản phẩm thay thế là những sản phẩm của các doanh nghiệp khác mà phục
vụ những nhu cầu của khách hàng tương tự như đối với ngành đang phân tích.
Mỗi một doanh nghiệp đang hoạt động trong một ngành nào đó, theo nghĩa rộng
đều là cạnh tranh với các doanh nghiệp khác ở ngành khác. Sự tồn tại của sản phẩm
thay thế tác động đến hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp, biểu hiện một sự đe doạ
cạnh tranh làm giảm khả năng đặt giá cao và qua đó trực tiếp làm giảm lợi nhuận của

doanh nghiệp.
Để giảm sức ép của sản phẩm thay thế doanh nghiệp cần có các giải pháp cụ thể
như: phải luôn chú ý tới khâu đầu tư đổi mới kỹ thuật - công nghệ, các các giải pháp
đồng bộ nâng cao chất lượng sản phẩm, khác biệt hoá sản phẩm cũng như trong từng
giai đoạn phát triển cụ thể phải biết tìm và rút về phân đoạn thị trường hay thị trường
“ngách” phù hợp.
Sức ép do có sản phẩm thay thế làm hạn chế tiềm năng lợi nhuận của ngành do mức
giá cao nhất bị khống chế. Nếu không chú ý tới các sản phẩm thay thế tiềm ẩn, doanh
nghiệp có thể bị tụt lại với các thị trường nhỏ bé. Vì vậy, các doanh nghiệp cần không
ngừng nghiên cứu và kiểm tra các mặt hàng thay thế tiềm ẩn. Phần lớn sản phẩm thay
thế mới là kết quả của cuộc bùng nổ công nghệ. Muốn đạt được thành công, các doanh
nghiệp cần chú ý và dành nguồn lực để phát triển hoặc vận dụng công nghệ mới vào
chiến lược của mình.
e. Đối thủ cạnh tranh
17


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Chương 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp

Là những doanh nghiệp sản xuất những sản phẩm có chức năng tương đương và sẵn
sàng thay thế nên việc nghiên cứu về đối thủ cạnh tranh là quan trọng cho một doanh
nghiệp. Các doanh nghiệp cạnh tranh xác định bản chất và mức độ cạnh tranh trong
kinh doanh hay dùng những thủ đoạn để giữ vững vị trí. Những doanh nghiệp cũng
phải nhận ra rằng sự cạnh tranh không ổn định. Ví dụ, những ngành trưởng thành
thường gặp sự cạnh tranh lớn khi tốc độ tăng trưởng giảm sút. Những doanh nghiệp
cạnh tranh mới cải tiến kỹ thuật thường thay đổi mức độ và bản chất cạnh tranh. Các
doanh nghiệp phải phân tích mỗi đối thủ cạnh tranh để có được hiểu biết về những

hành động và đáp ứng của họ.

(Nguồn: website marketing.edu.vn)
Hình 1.2: Những yếu tố trong phân tích đối thủ cạnh tranh
⇒ Nhận xét: Doanh nghiệp phải thường xuyên phân tích, đánh giá những điểm
mạnh, điểm yếu của đối thủ để xác định vị thế của mình, từ đó, xây dựng các chiến
lược kinh doanh phù hợp, nâng cao năng lực cạnh tranh so với đối thủ.
Môi trường vi mô là loại môi trường gắn trực tiếp với từng doanh nghiệp và phần
lớn các hoạt động và cạnh tranh của doanh nghiệp diễn ra trong môi trường này. Các
yếu tố chủ yếu cấu thành là: đối thủ cạnh tranh trong ngành, khách hàng, nhà cung
cấp, các đối thủ tiềm ẩn và sản phẩm thay thế. Sức mạnh cạnh tranh của từng áp lực
cạnh tranh trong ngành sẽ quy định mức độ của đầu tư, cường độ cạnh tranh và mức
lợi nhuận của ngành. Khi áp lực của yếu tố nào đó tăng lên sẽ tăng nguy cơ giảm lợi
nhuận của doanh nghiệp, ngược lại áp lực giảm sẽ tạo cơ hội cho doanh nghiệp tăng
lợi nhuận. Như vậy, quá trình phân tích cần nhận ra bản chất và cơ chế tác động của
18


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Chương 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp

các áp lực để giúp doanh nghiệp hình thành chiến lược thích ứng với các lực lượng
cạnh tranh.
1.3 Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trước hết phải tạo ra từ thực lực của doanh
nghiệp. Đây là yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp, không chỉ được tính bằng các
tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp… một cách
riêng biệt mà còn đánh giá, so sánh với các đối tác cạnh tranh hoạt động trong cùng

một lĩnh vực, cùng một thị trường. Trên cơ sở các so sánh đó, muốn tạo nên năng lực
cạnh tranh, đòi hỏi doanh nghiệp phải tạo lập được lợi thế so sánh với đối tác của
mình. Nhờ lợi thế này, doanh nghiệp có thể thỏa mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách
hàng mục tiêu, lôi kéo được khách hàng mục tiêu cũng như lôi kéo khách hàng của đối
thủ cạnh tranh.
Để đánh giá được năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp cần phải xác định
được các yếu tố phản ánh năng lực cạnh tranh từ những lĩnh vực hoạt động khác nhau
và cần thực hiện việc đánh giá đó bằng cả định tính và định lượng. Các doanh nghiệp
hoạt động sản xuất kinh doanh ở những ngành khác nhau, lĩnh vực khác nhau có các
yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh khác nhau.
1.3.1 Nguồn lực của doanh nghiệp
Các nguồn lực của doanh nghiệp bao gồm vốn, nhân lực, cơ sở vật chất kỹ - kỹ
thuật.
a. Nguồn vốn và tiềm lực tài chính
Vốn là nguồn lực mà doanh nghiệp cần có trước tiên vì không có vốn không thể
thành lập được doanh nghiệp và không thể tiến hành hoạt động được. Một doanh
nghiệp có năng lực cạnh tranh là doanh nghiệp có nguồn vốn dồi dào luôn đảm bảo
huy động được vốn trong những trường hợp cần thiết, doanh nghiệp đó phải sử dụng
đồng vốn có hiệu quả và hạch toán chi phí một cách rõ ràng. Như vậy, doanh nghiệp
cần đa dạng nguồn cung vốn bởi nếu thiếu vốn thì hạn chế rất lớn đến kết quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp như đổi mới, đầu tư công nghệ hiện đại, hạn chế
đào tạo nâng cao trình độ cán bộ, công nhân, nghiên cứu thị trường…
Năng lực tài chính là yếu tố rất quan trọng để xem xét tiềm lực của doanh nghiệp
mạnh, yếu thế nào. Trong tiêu chí này có các nhóm chỉ tiêu chủ yếu:
1. Chỉ tiêu đánh giá cơ cấu nguồn vốn

Tỷ lệ nợ = Tổng nợ phải trả/ Tổng vốn
Tỷ lệ này càng thấp càng chứng tỏ doanh nghiệp càng ít phụ thuộc vào nguồn vay
từ bên ngoài. Tỷ lệ này cần duy trì ở mức trung bình của ngành là hợp lý.
2. Nhóm các chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán


19


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Chương 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp

Khả năng thanh toán nhanh = (Tổng tài sản lưu động – Hàng tồn kho)/Tổng nợ
ngắn hạn
Hệ số này cho biết một đồng nợ ngắn hạn được đảm bảo bằng bao nhiêu tiền hiện
có. Hệ số này càng cao càng tốt, tuy nhiên còn phải xem xét kỹ các khoản phải thu ảnh
hưởng tới khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Doanh nghiệp hoạt động bình
thường thì hệ số này thường bằng 1.
Khả năng thanh toán nợ ngắn hạn = Tổng tài sản lưu động/Tổng nợ ngắn hạn
Hệ số này cho biết một đồng nợ ngắn hạn được đảm bảo bằng bao nhiêu tài sản lưu
động. Nếu hệ số này quá nhỏ doanh nghiệp sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh
toán. Hệ số này quá cao tức doanh nghiệp đã đầu tư vào tài sản lưu động quá nhiều
không mang lại hiệu quả lâu dài. Nếu tỷ số này nhỏ hơn 1 thì có nghĩa doanh nghiệp
không đủ tài sản có thể sử dụng ngay để thanh toán nợ ngắn hạn sắp đáo hạn.
3. Nhóm các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả

Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu = Lợi nhuận/Doanh thu (%)
Chỉ số này cho biết trong một đồng hay 100 đồng doanh thu thì có bao nhiêu đồng
lợi nhuận thu được. Chỉ số này càng cao càng tốt.
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có = Lợi nhuận/Tổng vốn chủ sở hữu (%)
Các tiêu chí trên tốt sẽ giúp doanh nghiệp có được năng lực cạnh tranh so với các
đối thủ cạnh tranh của mình.
b. Nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh
nghiệp có nguồn nhân lực có chất lượng cao, doanh nghiệp sẽ có khả năng cạnh tranh
trên thị trường. Đội ngũ công nhân lành nghề, có tay nghề cao, trách nhiệm với công
việc sẽ tạo ra được sản phẩm có chất lượng cao, tăng năng suất lao động. Đội ngũ cán
bộ quản lý có năng lực, đạo đức kinh doanh, đưa ra các quyết định đúng đắn và đúng
thời điểm có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại, phát triển của doanh
nghiệp. Nếu đội ngũ cán bộ quản lý yếu kém thì hoạt động của doanh nghiệp sẽ gặp
nhiều khó khăn trong tổ chức quản lý, bỏ lỡ nhiều cơ hội trong kinh doanh, nhân công
trình độ tay nghề thấp sẽ sản xuất ra sản phẩm có chất lượng thấp, năng suất lao động
thấp gây lãng phí thời gian cũng như tiền bạc.
Trong bối cảnh cạnh tranh gây gắt hiện nay, sự khác biệt hóa về nguồn nhân lực là
vũ khí cạnh tranh hữu hiệu nhất cho các doanh nghiệp. Hoàn thiện kỹ năng, trình độ
chuyên môn của người lao động và đảm bảo duy trì mối quan hệ tốt giữa những người
lao động với nhau và bộ phận quản lý là điều kiện sống còn trong việc tạo ra giá trị,
tăng năng suất và giảm chi phí.
c. Trình độ công nghệ sản xuất
20


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Chương 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp

Công nghệ là phương pháp, là bí mật, là công thức tạo sản phẩm. Để sử dụng công
nghệ có hiệu quả doanh nghiệp cần lựa chọn công nghệ thích hợp để tạo ra các sản
phẩm phù hợp với yêu cầu của thị trường; phải đào tạo công nhân có đủ trình độ để
điều khiển và kiểm soát công nghệ, nếu không công nghệ hiện đại mà sử dụng không
hiệu quả.
Để đánh giá về công nghệ của doanh nghiệp ta cần đánh giá nội dung sau:

Thứ nhất, chi phí cho nghiên cứu phát triển, ứng dụng công nghệ mới
Sức cạnh tranh hàng hóa của doanh nghiệp sẽ tăng lên khi giá cả hàng hóa của họ
thấp hơn giá cả trung bình trên thị trường. Để có lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp
phải tăng năng suất lao động, hạ thấp chi phí đầu vào, nâng cao chất lượng hàng hóa.
Thực tế chứng minh các doanh nghiệp muốn tồn tại và cạnh tranh được trên thị
trường cần có dây chuyền công nghệ mới. Do đó, doanh nghiệp càng quan tâm, đầu tư
nhiều cho nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất thì năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp càng tăng.
Thứ hai, mức độ hiện đại của công nghệ
Để có năng lực cạnh tranh, doanh nghiệp phải trang bị những công nghệ hiện đại.
Đó là những công nghệ sử dụng ít nhân lực, thời gian tạo ra sản phẩm ngắn, tiêu hao
năng lượng, nguyên liệu thấp, năng suất cao, tính linh hoạt cao, chất lượng sản phẩm
tốt, không gây ô nhiễm môi trường. Công nghệ của công ty càng hiện đại sẽ giúp cho
doanh nghiệp tăng năng suất lao động, giảm giá thành, chất lượng sản phẩm tốt do đó
làm cho năng lực cạnh tranh của sản phẩm tăng và qua đó nâng cao năng lực cạnh
tranh cho doanh nghiệp.
1.3.2 Tổ chức quản lý điều hành sản xuất của doanh nghiệp
Tổ chức quản lý điều hành sản xuất là nhân tố quan trọng trong quá trình sản xuất
của doanh nghiệp. Tổ chức quản lý sản xuất tốt trước hết phải áp dụng các phương
pháp quản lý hiện đại được nhiều doanh nghiệp áp dụng, quản lý chất lượng như áp
dụng ISO 9001-2008, ISO 9000, SA 8000… Tổ chức quản lý sản xuất tốt cũng có
nghĩa phải phối hợp linh hoạt giữa các bộ phận phòng ban trong hoạt động sản xuất,
bố trí nhân viên phù hợp với yêu cầu công việc để tăng năng suất lao động, chuẩn bị
tốt máy móc thiết bị, thực hiện hoạt động kiểm tra một cách thường xuyên để đảm bảo
sản phẩm sản xuất ra đạt tiêu chuẩn chất lượng cao, tiết kiệm nguyên vật liệu. Ngược
lại, tổ quản lý sản xuất không tốt, không có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận thì
doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, gây lãng phí nguồn lực, giảm năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp.
1.3.3 Chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp
Chất lượng sản phẩm là mức độ tập hợp các đặc tính của sản phẩm làm thỏa mãn

những nhu cầu của xã hội và của cá nhân, trong những điều kiện xác định về sản xuất
21


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Chương 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp

và tiêu dùng. Chất lượng sản phẩm được thể hiện thông qua các chỉ tiêu chất lượng đặc
trưng cho tính chất của sản phẩm như độ tin cậy, tính công nghệ, tính dễ vận hành, vận
chuyển, tính an toàn đối với con người và môi trường, độ bền, độ chính xác, tính thẩm
mỹ… Chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: khâu nghiên cứu thiết kế,
khâu tạo sản phẩm và phụ thuộc rất lớn vào nguồn nhân lực con người cũng như công
nghệ sản xuất.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu hàng hóa thì
chất lượng sản phẩm là yếu tố đặc biệt quan trọng bởi mức sống của người tiêu dùng
ngày một tăng, các doanh nghiệp không chỉ cạnh tranh bằng giá cả mà phải cạnh tranh
bằng chất lượng sản phẩm, dịch vụ đi kèm… Cung cấp hàng hóa có chất lượng cao sẽ
giúp doanh nghiệp định giá sản phẩm cao hơn, bán được nhiều hàng hơn so với đối thủ
cạnh tranh qua đó tăng doanh thu.
Mặt khác, sản xuất được sản phẩm có chất lượng cao đồng nghĩa với doanh nghiệp
đó có được đội ngũ cán bộ công nhân viên sáng tạo, lành nghề, áp dụng công nghệ
hiện đại vào sản xuất. Chất lượng sản phẩm là một tiêu chuẩn kinh tế - kĩ thuật rất
quan trọng để nâng cao hiệu quả sản xuất và có ý nghĩa kinh tế to lớn (mở rộng quy
mô sản xuất, mở rộng thị trường tiêu thụ, nhất là thị trường quốc tế). Tất cả những yếu
tố đó đều làm tăng năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp.
1.3.4 Năng suất lao động của doanh nghiệp
Năng suất lao động là chỉ tiêu quan trọng nhất thể hiện tính chất và trình độ tiến bộ
của một tổ chức, một đơn vị sản xuất. Năng suất lao động là một chỉ tiêu tổng hợp của

mọi yếu tố: con người, công nghệ - cơ sở vật chất kỹ thuật, tổ chức phối hợp… Có
năng suất cao là nhờ tổ chức sản xuất kinh doanh tốt, sử dụng tối ưu các nguồn lực,
giảm tối đa các chi phí. Vì thế, năng suất lao động là tiêu chí rất quan trọng để đánh
giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Năng suất lao động là năng lực tạo ra của
cải, hay hiệu suất của lao động cụ thể trong quá trình sản xuất, được đo bằng lượng sản
phẩm đảm bảo chất lượng trên một đơn vị lao động.
Công thức: NS = R/L
Trong đó:
NS: năng suất lao động (đơn vị là số lượng sản phẩm đảm bảo chất lượng/lao động
hoặc đồng/lao động).
R: đầu ra tính theo giờ, ca, ngày,... đơn vị đo là lượng sản phẩm đảm bảo chất lượng
hoặc bằng tiền.
L: số lượng lao động làm ra đầu ra đó.
Năng suất lao động của doanh nghiệp càng cao bao nhiêu thì năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp càng cao bấy nhiêu (về tiêu chí đó) so với các doanh nghiệp cùng
ngành.
22


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Chương 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp

1.3.5 Thương hiệu và uy tín doanh nghiệp
Thương hiệu (theo định nghĩa của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới WIPO) là một dấu
hiệu (hữu hình hoặc vô hình) đặc biệt để nhận biết một sản phẩm hàng hóa hay một
dịch vụ nào đó được sản xuất hay được cung cấp bởi một cá nhân hay một tổ chức.
Xây dựng một thương hiệu mạnh mang đến cho doanh nghiệp lợi thế rất to lớn, không
chỉ vì nó tạo ra hình ảnh của sản phẩm hoặc doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa quan

trọng trong việc tạo uy tín cho doanh nghiệp, thúc đẩy việc tiêu thụ hàng hóa và là vũ
khí sắc bén trong cạnh tranh. Với một thương hiệu mạnh người tiêu dùng sẽ có niềm
tin với sản phẩm của doanh nghiệp, sẽ yên tâm và tự hào khi sử dụng sản phẩm, trung
thành với sản phẩm và vì vậy tính ổn định về lượng khách hàng hiện tại là rất cao. Hơn
nữa, thương hiệu mạnh cũng có sức hút lớn với thị trường mới, tạo thuận lợi cho
doanh nghiệp trong việc mở rộng thị trường và thu hút khách hàng tiềm năng, thậm chí
còn thu hút cả khách hàng của các doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh.
1.3.6 Mạng lưới phân phối, thị trường tiêu thụ
Mạng lưới phân phối đảm bảo hợp lý, đáp ứng được cho việc thực hiện thị trường
mục tiêu của doanh nghiệp. Trong đó, thể hiện cho thấy phần thị trường tiêu thụ của
doanh nghiệp hiện tham gia vào ngành đang nắm giữ trong mối tương quan với các đối
thủ cạnh tranh. Tiêu chí phản ánh thực trạng năng lực cạnh tranh hiện tại của doanh
nghiệp, qua đó, có thể xác định vị thế của doanh nghiệp trên thị trường so với đối thủ
cạnh tranh.
1.3.7 Hoạt động nghiên cứu thị trường và Marketing
Nghiên cứu thị trường là một nghiệp vụ vô cùng quan trọng. Để kinh doanh thành
công, doanh nghiệp phải thực hiện nghiên cứu thị trường để lựa chọn thị trường mục
tiêu. Nếu thực hiện việc nghiên cứu thị trường một cách có bài bản giúp doanh nghiệp
giảm thiểu được những rủi ro trong hoạt động kinh doanh, giảm được các chi phí
không cần thiết, đưa ra các quyết định về bán cái gì, tập trung vào ai, khuyến mại và
định giá sản phẩm như thế nào, sử dụng những nhà cung cấp nào, sẽ gặp khó khăn gì
về pháp luật thủ tục hành chính và làm thế nào để xác định những cơ hội mới hoặc
những lỗ hổng trên thị trường. Ngược lại, nếu công tác nghiên cứu thị trường thu thập
về những thông tin không chính xác, không phản ánh đúng tình hình thực tế thị
trường, và do không dựa trên cơ sở thông tin vững chắc nên quyết định được đưa ra sẽ
không sát với thực tế, dẫn đến hoạt động của doanh nghiệp sẽ không hiệu quả, lãng phí
vật lực.
Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, hoạt động Marketing trở nên vô cùng quan trọng
đối với các doanh nghiệp. Marketing tốt là thỏa mãn các nhu cầu và mong muốn của
khách hàng, đảm bảo được cung cấp sản phẩm dịch vụ ổn định với chất lượng theo

yêu cầu, giá cả phù hợp giúp doanh nghiệp dành thắng lợi trong cạnh tranh và đạt
được lợi nhuận cao trong dài hạn. Marketing giúp cho doanh nghiệp lựa chọn được
23


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Chương 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp

khách hàng, xác định được đối thủ cạnh tranh của mình là ai, khuyếch trương được
hình ảnh uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Hoạt động Marketing của doanh
nghiệp càng có chất lượng và ở phạm vi rộng bao nhiêu doanh nghiệp càng có thể tạo
ra các lợi thế chiến thắng đối thủ cạnh tranh bấy nhiêu.
1.4 Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.4.1 Ma trận các yếu tố bên ngoài (EFE)
Ma trận EFE được sử dụng để tóm tắt và đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố
thuộc môi trường bên ngoài. Theo Fred R. David, để xây dựng ma trận EFE chúng ta
phải trải qua năm bước sau đây:
Bước 1: Lập danh mục các yếu tố có vai trò quyết định đối với sự thành công như
đã nhận diện trong quá trình kiểm tra các yếu tố từ bên ngoài (tổng số từ 10 đến 20 yếu
tố) bao gồm cả những cơ hội và mối đe dọa ảnh hưởng đến công ty và ngành kinh
doanh.
Bước 2: Phân loại tầm quan trọng từ 0,0 (không quan trọng) đến 1,0 (rất quan trọng)
cho mỗi yếu tố. Sự phân loại này cho thấy tầm quan trọng tương ứng của yếu tố đó đối
với sự thành công trong ngành kinh doanh của công ty. Các cơ hội thường có mức độ
phân loại cao hơn mối đe dọa. Tuy nhiên, mối đe dọa cũng có thể nhận được mức phân
loại cao nếu nó đặc biệt nghiêm trọng hay mang tính đe dọa. Mức phân loại thích hợp
có thể xác định được bằng cách so sánh những nhà cạnh tranh thành công với những
nhà cạnh tranh không thành công, hoặc bằng cách thảo luận về yếu tố này và đạt được

sự nhất trí của nhóm. Tổng số các mức phân loại được ấn định cho các nhân tố này
phải bằng 1,0.
Bước 3: Phân loại từ 1 đến 4 cho mỗi yếu tố quyết định sự thành công để cho thấy
cách thức mà các chiến lược hiện tại của công ty phản ứng với yếu tố này, trong đó
4 là phản ứng tốt, 3 là phản ứng trên trung bình, 2 là phản ứng trung bình, 1 là phản
ứng ít. Các mức này dựa trên hiệu quả của chiến lược công ty.
Bước 4: Nhân tầm quan trọng của mỗi biến số với loại của nó để xác định số điểm
quan trọng.
Bước 5: Cộng số điểm về tầm quan trọng cho mỗi biến số để xác định tổng số điểm
quan trọng cho tổ chức.
Bất kể số các cơ hội chủ yếu và mối đe dọa được bao nhiêu trong ma trận EFE, tổng
số điểm quan trọng cao nhất mà một tổ chức có thể có là 4,0 và thấp nhất là 1,0. Căn
cứ vào tổng điểm này để đánh giá mức độ phản ứng của doanh nghiệp đối với môi
trường như sau:
- Tổng số điểm quan trọng là 4 cho thấy rằng tổ chức đang phản ứng rất tốt với các
cơ hội và mối đe dọa hiện tại trong môi trường của họ.
- Tổng số điểm quan trọng là 1 cho thấy những chiến lược mà tổ chức đề ra không
24


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Chương 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp

tận dụng được các cơ hội hoặc né tránh được các mối đe dọa từ bên ngoài.
- Tổng số điểm quan trọng là 2,5 cho thấy rằng tổ chức đang phản ứng ở mức trung
bình với các cơ hội và mối đe dọa hiện tại trong môi trường của họ.
Bảng 1.1: Ma trận các yếu tố bên ngoài
TT

1
2

Yếu tố bên ngoài chủ yếu
1…

Trọng số

Phân loại

Tổng điểm

Tổng cộng
(Nguồn: website quantri.vn)
1.4.2 Ma trận SWOT
Ma trận SWOT dùng để tổng hợp những nghiên cứu về môi trường bên ngoài và
bên trong doanh nghiệp. Phân tích môi trường bên ngoài để phát hiện cơ hội và những
đe dọa đối với doanh nghiệp. Phân tích môi trường nội bộ để xác định thế mạnh và
điểm yếu của chính doanh nghiệp.
Trên cơ sở phân tích các yếu tố trong ma trận, căn cứ vào mục tiêu, phương hướng
phát triển kinh doanh và các nguồn lực của mình, doanh nghiệp có thể thiết lập các kết
hợp. Về nguyên tắc có 4 loại kết hợp:
-

Cơ hội với điểm mạnh (O-S)
Cơ hội với điểm yếu (O-W)
Đe dọa với điểm mạnh (T-S)
Đe dọa với điểm yếu (T-W)

Bảng 1.2: Ma trận SWOT

Ma trận SWOT
Cơ hội (O)

Điểm mạnh (S)
Là chiến lược sử dụng những
điểm mạnh bên trong của doanh
nghiệp để tận dụng những cơ hội
bên ngoài. Tất cả các nhà quản
trị đều mong muốn tổ chức của
họ ở vào vị trí mà những điểm
mạnh bên trong có thể sử dụng
để lợi dụng những xu hướng và
biến cố của môi trường bên
25

Điểm yếu (W)
Là chiến lược nhằm cải thiện
những điểm yếu bên trong
bằng cách tận dụng những cơ
hội bên ngoài. Đôi khi những
cơ hội lớn bên ngoài đang tồn
tại, những doanh nghiệp có
những điểm yếu bên trong
ngăn cản nó khai thác những
cơ hội này


×