Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

phép biệnchứng duy vật của Chủ nghĩa Mac-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.9 KB, 50 trang )

Khoỏ luận tốt nghiệp

1

Bựi Ngọc Quỳnh Giao

Lời mở đầu
1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của
tổ chức Thương mại thế giới WTO. Sự kiện này đánh dấu một bước phát triển
mới trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của chúng ta, tạo ra những cơ hội
lớn để phát triển đất nước nhanh hơn, toàn diện hơn, nhưng đồng thời cũng đặt
ra những thách thức to lớn trong quá trình thực thi các cam kết với WTO.
Thực thi đúng các nghĩa vụ thành viên đã cam kết với WTO, tận dụng cơ
hội, khắc phục những hạn chế và thách thức là nhu cầu cấp bách đối với nước ta
trong giai đoạn hiện nay.
Trước tình hình thực tế của đất nước, Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành
Trung ương Đảng Khóa X đã thảo luận và thông qua một số chủ trương, chính
sách lớn để phát triển đất nước nhanh và bền vững sau khi gia nhập tổ chức
WTO. Nghị quyết 08-NQ/TW và nghị quyết số 16/2007/NQ-CP đã nêu lên
những cơ hội thách thức đối với Việt Nam trong quá trình thực thi các cam kết
với WTO đồng thời đưa ra những phương hướng, giải pháp để tận dụng cơ hội,
vượt qua thách thức.
Xuất phát từ lý do trên, khóa luận nghiên cứu về đề tài: “ Thực thi các
cam kết của Việt Nam với WTO về Thương mại Dịch vụ. Những cơ hội và
thách thức đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” nhằm hệ thống hóa các
cơ hội, thách thức khi thực thi cam kết và các phương hướng, giải pháp để thực
thi cam kết, qua đó mong muốn đóng góp một phần rất nhỏ bé vào việc nghiên
cứu những vấn đề pháp lý nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo cho
Việt Nam thực thi đúng các nghĩa vụ thành viên đã cam kết với WTO.
2. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài


Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ một số vấn đề về
nghĩa vụ thực thi các cam kết của Việt Nam với WTO về Thương mại dịch vụ.
Từ đó nêu lên các cơ hội và thách thức trong việc thực thi các cam kết về


Khoỏ luận tốt nghiệp

2

Bựi Ngọc Quỳnh Giao

Thương mại Dịch vụ của Việt Nam với WTO, đồng thời rút ra bài học kinh
nghiệm trong việc thực thi cam kết từ quốc gia khác, cũng như những phương
hướng và giả pháp tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức đề phát triển.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong những quy định của pháp
luật WTO về nghĩa vụ thực thi các cam kết của quốc gia thành viên, những quy
định trong Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam cũng như pháp luật trong
nước về vấn đề thực thi Điều ước quốc tế.
3. Cơ sở phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu .
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là dựa trên phép biện
chứng duy vật của Chủ nghĩa Mac-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Việc nghiên cứu đề tài được tiến hành bằng các phương pháp nghiên cứu
như: phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, thống kê…
4. Những đóng góp của đề tài
Qua việc nghiên cứu về vấn đề thực thi các cam kết về Thương mại Dịch
vụ của Việt Nam và WTO, đề tài mong muốn hệ thống hóa một số vấn đề liên
quan đến thực thi; tổng hợp những cơ hội và thách thức của Việt Nam khi trở
thành thành viên WTO từ đó rút ra những phương hướng và giải pháp để tận
dụng cơ hội, vượt qua thách thức.
5. Cấu trúc Luận văn

Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Để đáp ứng
yêu cầu đề tài đặt ra, luận văn được trình bày với kết cấu gồm 3 chương:
CHƯƠNG I:

một số vấn đề lí luận chung về thực thi điều ước quốc tế và thực thi các cam kết của

Việt Nam với WTO về Thương mại dịch vụ
Chương II:

Cơ hội và thách thức đối với việt nam trong thực thi cam kết về thương mại dịch vụ

với wto trong giai đoạn hiện nay
Chương III:

Phương hướng và giải pháp tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức trong quá trình thực

thi các cam kết thương mại dịch vụ của việt nam với wto trong giai đoạn hiện nay


Khoỏ luận tốt nghiệp

3

Bựi Ngọc Quỳnh Giao

Chương I
một số vấn đề lí luận chung về thực thi điều ước
quốc tế và thực thi các cam kết của Việt Nam với WTO về Thương mại dịch
vụ
1. Một số vấn đề lí luận chung về thực thi điều ước quốc tế.

1.1. Nguyên tắc Pacta sunt servanda (Tận tâm thực hiện các cam kết
quốc tế)
1.1.1.Cơ sở pháp lý của nguyên tắc.
Nguyên tắc tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế được ghi nhận tại
khoản 2 Điều 2 Hiến chương Liên Hợp Quốc với tư cách là một nguyên tắc cơ
bản của Luật Quốc tế, trong đó: “Tất cả các nước thành viên phải làm tròn
những nghĩa vụ mà họ phải đảm nhận theo Hiến chương này.”
Điều 26 Công ước Viên 1969 về Luật Điều ước quốc tế cũng đã khẳng
định tính phổ cập của nguyên tắc thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế. Theo
Công ước Viên 1969: “Mỗi Điều ước quốc tế hiện hành đều ràng buộc các bên
tham gia và phải được các bên thực hiện một cách thiện chí.”
Tuyên bố về các nguyên tắc của Luật quốc tế 1970 đã mở rộng hơn nữa
phạm vi áp dụng của nguyên tắc Pacta sunt servanda. Theo tuyên bố về các
nguyên tắc của Luật quốc tế 1970: “Mỗi quốc gia phải thiện chí thực hiện các
nghĩa vụ quốc tế do hiến chương đặt ra, các nghĩa vụ phát sinh từ các quy phạm
và nguyên tắc được công nhận rộng rãi của Luật quốc tế. Khi nghĩa vụ theo Điều
ước quốc tế trái với nghĩa vụ của thành viên Liên hợp quốc theo Hiến chương
thì nghĩa vụ theo Hiến chương có giá trị ưu tiên.”
1.1.2.Nội dung nguyên tắc.
Theo các văn kiện pháp lý quốc tế hiện hành 1, nguyên tắc Pacta sunt
servanda bao gồm các nội dung sau:

1

Điều 2 Hiến chương Liên Hợp Quốc 1945;
Điều 26 Công ước Viên 1969 về Luật Điều ước quốc tế;
Tuyên bố 1970 về các nguyên tắc của Liên Hợp Quốc.


Khoỏ luận tốt nghiệp


4

Bựi Ngọc Quỳnh Giao

Nguyên tắc Pacta sunt servanda chỉ được áp dụng đối với các Điều ước
quốc tế có hiệu lực, tức là đối với những Điều ước quốc tế được ký kết một cách
tự nguyện trên cơ sở bình đẳng.
Mọi quốc gia đều có nghĩa vụ thực hiện tự nguyện, có thiện chí, trung
thực và đầy đủ các nghĩa vụ Điều ước quốc tế của mình đó là:
• Các nghĩa vụ phát sinh từ Hiến chương của Liên Hợp Quốc.
• Các nghĩa vụ phát sinh từ các nguyên tắc và quy phạm được thừa nhận
rộng rãi của Luật quốc tế.
• Nghĩa vụ theo các Điều ước quốc tế mà quốc gia là thành viên.
Mọi quốc gia phải tuyệt đối tuân thủ việc thực hiện nghĩa vụ Điều ước
quốc tế một cách triệt để không phụ thuộc vào các sự kiện trong nước hay quốc
tế. Các sự kiện khách quan như: thay đổi chính phủ, thay đổi hình thức quản lý
hay chế độ xã hội, thiên tai, thay đổi lãnh thổ hay thay đổi hoàn cảnh quốc tế
không thể là lý do để quốc gia không thực hiện Điều ước quốc tế.
Các quốc gia thành viên Điều ước quốc tế không được viện dẫn các quy
định của pháp luật trong nước để coi đó là nguyên nhân và từ chối thực hiện
nghĩa vụ của mình. Yêu cầu này được coi là một bộ phận không tách rời của
nguyên tắc Pacta sunt servanda và được quy định tại Điều 27 Công ước Viên
năm 1969.
Các quốc gia không có quyền ký kết Điều ước quốc tế mâu thuẫn với
nghĩa vụ của mình được quy định trong Điều ước quốc tế hiện hành mà quốc gia
ký kết hoặc tham gia trước đó với các quốc gia khác.
Không cho phép các quốc gia đơn phương ngừng thực hiện và xem xét lại
Điều ước quốc tế. Hành vi này chỉ được thực hiện với phương thức đình chỉ và
xem xét hợp pháp theo sự thoả thuận của các bên thành viên theo Điều ước quốc

tế. Khi một bên cam kết không thực hiện nghĩa vụ Điều ước quốc tế thì một bên
khác (hoặc các bên khác) có quyền từ chối thực hiện vì nghĩa vụ Điều ước quốc
tế chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở có đi có lại.


Khoỏ luận tốt nghiệp

5

Bựi Ngọc Quỳnh Giao

Luật quốc tế đòi hỏi các quốc gia thực hiện tận tâm, có thiện chí và đầy đủ
các nghĩa vụ Điều ước. Tuy nhiên, theo nguyên tắc tận tâm thực hiện các cam
kết quốc tế thì các quốc gia có thể không phải thực hiện Điều ước quốc tế mà
mình là thành viên trong các trường hợp sau:
• Các quốc gia không phải thực hiện Điều ước quốc tế một khi quá trình
ký kết Điều ước quốc tế đã vi phạm pháp luật quốc gia về thẩm quyền và thủ tục
ký kết.
• Khi Điều ước quốc tế có nội dung trái với Hiến chương Liên Hợp Quốc,
trái với các nguyên tắc và quy phạm được thừa nhận rộng rãi của Luật quốc tế2.
• Việc cắt đứt quan hệ ngoại giao hay quan hệ lãnh sự giữa các nước
thành viên của Điều ước quốc tế không ảnh hưởng đến các quan hệ pháp lý phát
sinh giữa các quốc gia này, trừ trường hợp các quan hệ ngoại giao hay lãnh sự
này là điều kiện cần thiết để thực hiện Điều ước.
Quốc gia có quyền từ chối thực hiện Điều ước quốc tế nào đó khi điều
kiện để thực hiện đã thay đổi căn bản (Rebus sic stantibus) hoặc mục đích ký kết
Điều ước quốc tế đã không còn phù hợp với tình hình chính trị và kinh tế
xã hội của quốc gia.3 Nhưng khi các điều kiện để thực hiện Điều ước quốc tế
được phục hồi thì quốc gia đó phải thực hiện các cam kết của mình một cách tận
tâm và thiện chí.

1.1.3. ý nghĩa của nguyên tắc.
Việc thực thi nghiêm chỉnh cam kết quốc tế là điều kiện cho việc hưởng
các quyền quy định trong Điều ước quốc tế của các quốc gia.
Nguyên tắc Pacta sunt servanda là cơ sở của Luật quốc tế vì nếu các thành
viên của Điều ước quốc tế không thực hiện nghĩa vụ thành viên thì Luật quốc tế
chỉ tồn tại trên văn bản và không có chỗ đứng trong thực tiễn quan hệ quốc tế,
khi đó Điều ước quốc tế sẽ không có vai trò, vị trí trong đời sống thực tế.
2

Điều 103 Hiến chương Liên Hợp Quốc: “Trường hợp có xung đột giữa các nghĩa vụ thành
viên theo Hiến chương và nghĩa vụ theo bất cứ Điều ước quốc tế nào thì phải đặt nghĩa vụ
theo Hiến chương lên trên hết.”
3
Ví dụ: Sự thay đổi chủ thể của Luật quốc tế.


Khoỏ luận tốt nghiệp

6

Bựi Ngọc Quỳnh Giao

Sự thoả thuận của các thành viên Điều ước quốc tếlà cơ sở làm phát sinh
nghĩa vụ Điều ước và thực hiện các cam kết chính là sự tôn trọng những thoả
thuận đã đạt được giữa các bên.
Chỉ khi các quốc gia nghiêm chỉnh, tận tâm thực thi các nghia vụ cam kết
trong Điều ước thì họ mới có các cơ sở được hưởng đầy đủ các quyền hợp pháp
do Điều ước quốc tế mang lại cho mình. Thực hiện cam kết quốc tế trong Điều
ước quốc tế chính là thực hiện quyền của mỗi quốc gia thành viên.
1.2. Mối quan hệ giữa Điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia trong

thực thi Điều ước quốc tế.
1.2.1. Một số học thuyết về mối quan hệ giữa Điều ước quốc tế và pháp
luật quốc gia.
* Thuyết nhất nguyên
Thuyết nhất nguyên luận có nguồn gốc từ quan điểm pháp luật là một hệ
thống thống nhất bao gồm trong đó hai bộ phận là Luật quốc tế và Luật quốc gia
của trường phái “pháp luật tự nhiên”.
Quan điểm cơ bản của thuyết nhất nguyên thể hiện ở chỗ: Luật quốc tế và
Luật quốc gia là hai bộ phận trong cùng hệ thống pháp luật, không có sự tách
biệt, cùng nằm trong một thể thống nhất. Do đó việc thực thi Điều ước quốc tế
sẽ được coi là một quy trình thống nhất như thực thi pháp luật trong nước.
* Thuyết nhị nguyên
Thuyết nhị nguyên luận cho rằng Luật quốc tế và Luật quốc gia là hai hệ
thống pháp luật khác nhau, độc lập với nhau cho dù hai hệ thống pháp luật này
có mối quan hệ qua lại với nhau. Do đó việc thực thi Điều ước quốc tế ở đây cần
phải qua thủ tục nội luật hóa Điều ước quốc tế.
1.2.2. Mối quan hệ giữa Điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia.
Điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia không thể có sự tách biệt giữa hai
hệ thống mà trái lại chúng có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau.
* Luật quốc gia ảnh hưởng tích cực đến sự hình thành và phát triển của
pháp luật quốc tế.


Khoỏ luận tốt nghiệp

7

Bựi Ngọc Quỳnh Giao

Bản chất của quá trình xây dựng các quy phạm pháp luật quốc tế mà các

quốc gia tiến hành thông qua phương thức thoả thuận chính là quá trình đưa ý
chí quốc gia vào nội dung của pháp luật quốc tế. Mỗi quốc gia đều cố gắng đưa
những ảnh hưởng của mình tới các vấn đề lợi ích cần đạt được từ Điều ước quốc
tế do đó lợi ích quốc gia trở thành điều kiện cơ bản cho sự hình thành, phát triển
Luật quốc tế. Sự hợp tác là điều kiện thiết yếu để hình thành các quy phạm, các
nguyên tắc hoặc các chế định của Luật quốc tế. Luật quốc gia thể hiện sự định
hướng, nội dung các mối quan hệ quốc tế, làm phát triển, thay đổi Luật quốc tế.
* Luật quốc tế có tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện
pháp luật quốc gia.
Tính chất tác động của Luật quốc tế đối với Luật quốc gia được thể hiện
bằng thực tiễn thực thi nghĩa vụ thành viên Điều ước quốc tế. Để thực thi các
cam kết quốc tế, các quốc gia thành viên phải cân nhắc đến các quy định của
Điều ước quốc tế để có hành vi xử sự phù hợp với những nghĩa vụ quốc tế mà
mình đã cam kết.
Là kết quả của sự thoả thuận giữa các quốc gia, Luật quốc tế thể hiện rất
nhiều sự tiến bộ, các thành tựu mới của khoa học pháp lý hiện đại. Thông qua
nghĩa vụ quốc tế của quốc gia trong việc tuân thủ các cam kết, những thành tựu
này khi được áp dụng tại các quốc gia đã mang lại cho pháp luật quốc gia những
tư tưởng mới, những mô hình xử sự mới vì quá trình thực hiện Điều ước quốc tế
ở từng quốc gia luôn phản ánh bản chất giai cấp của quốc gia đó.
1.2.3.Vấn đề chuyển hoá (nội luật hoá) Điều ước quốc tế và vấn đề áp
dụng trực tiếp Điều ước quốc tế.
Pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia là hai hệ thống pháp luật tồn tại
song song. Do đó, để thực thi Điều ước quốc tế sẽ có hai cách:
• Chuyển hóa (nội luật hóa) Điều ước quốc tế vào pháp luật quốc gia
• áp dụng trực tiếp Điều ước quốc tế.
Việc chuyển hóa pháp luật được thực hiện bằng chuyển hóa các quy phạm
Điều ước quốc tế thành quy phạm pháp luật trong nước thông qua cơ chế làm



Khoỏ luận tốt nghiệp

8

Bựi Ngọc Quỳnh Giao

luật (sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản pháp luật trong nước để có nội
dung của Điều ước quốc tế).
áp dụng trực tiếp Điều ước quốc tế bằng cách coi Điều ước quốc tế như
văn bản quy phạm pháp luật trong nước và áp dụng, không có sự chuyển hóa các
quy phạm Điều ước quốc tế.
1.2.4. Một số vấn đề khác liên quan đến thực thi Điều ước quốc tế
* Giải thích Điều ước quốc tế
Để thực thi đúng nội dung các quyền và nghĩa vụ theo Điều ước quốc tế
đòi hỏi các bên phải hiểu đúng, chính xác các quy định của Điều ước quốc tế.
Yêu cầu đó dẫn đến việc phải giải thích Điều ước quốc tế. Yêu cầu của việc giải
thích Điều ước thường là:
a. Điều ước phải được giải thích phù hợp với nội dung, ngữ nghĩa thông
thường của các thuật ngữ được sử dụng trong Điều ước quốc tế và trong các mối
quan hệ với đối tượng và mục đích của Điều ước quốc tế.
b. Việc giải thích Điều ước quốc tế phải căn cứ vào nội dung của chính
văn bản Điều ước quốc tế, các thoả thuận có liên quan đến Điều ước quốc tế
được các bên chấp nhận trong quá trình đàm phán, ký kết Điều ước quốc tế được
ghi nhận trong hồ sơ của Điều ước quốc tế cũng như thực tiễn các nước áp dụng
các quy định tương tự của Điều ước quốc tế cụ thể đó.
* Đăng ký và công bố Điều ước quốc tế
Việc đăng ký hay không đăng ký Điều ước quốc tế là tùy thuộc vào sự lựa
chọn của các bên kết ước. Tuy vậy, việc đăng ký mà đặc biệt là đăng ký tại Ban
thư ký của Liên Hợp Quốc theo Điều 102 Hiến chương Liên Hợp Quốc lại có ý
nghĩa tạo ra cơ sở pháp lý cho phép quốc gia kết ước dẫn chiếu đến Điều ước

quốc tế đã ký kết trước Tòa án của Liên Hợp Quốc khi có tranh chấp. Điều này
được quy định rõ tại Điều 102 Hiến chương như sau:
“ Mọi hiệp định và công ước do bất cứ thành viên nào của Liên Hợp Quốc
ký kết, sau khi Hiến chương này có hiệu lực phải được đăng ký tại ban thư ký và
do ban này công bố càng sớm càng tốt” (Khoản 1 Điều 102 Hiến chương)


Khoỏ luận tốt nghiệp

9

Bựi Ngọc Quỳnh Giao

“ Nếu không đăng ký theo quy định tại Khoản 1 điều này thì không một
bên nào của Điều ước hoặc công ước được quyền viện dẫn hiệp ước hoặc công
ước trước đó trước các cơ quan của Liên Hợp Quốc” (Khoản 2 Điều 102 Hiến
chương)
Việc công bố Điều ước quốc tế bảo đảm nguyên tắc minh bạch, công
khai, không có Điều ước bí mật. Và mọi người đều có thể biết.
2. WTO và vấn đề thực thi các cam kết của thành viên WTO.
Vấn đề thực thi các cam kết của thành viên WTO theo các quy định của
Điều XVI Hiệp định Marrakesh thành lập tổ chức Thương mại thế giới WTO
ngày 15/04/19944, bao gồm các nội dung sau:
a. Trong trường hợp có mâu thuẫn giữa quy định của Hiệp định
Marrakesh với các quy định của bất kỳ một Hiệp định Thương mại Đa phương
nào, thì các quy định của Hiệp định Marrakesh sẽ được áp dụng để giải quyết
mâu thuẫn.
b. Mỗi nước thành viên sẽ đảm bảo thống nhất các luật, quy định và
những thủ tục hành chính với những nghĩa vụ của mình được quy định trong
Hiệp định.

c. Không một bảo lưu nào đối với bất kỳ quy định nào của Hiệp định
Marrakesh được thực hiện. Những bảo lưu đối với bất kỳ một quy định nào của
các Hiệp định Thương mại Đa phương chỉ được thực hiện trong phạm vi được
quy định trong các Hiệp định đó. Những bảo lưu đối với bất kỳ một quy định
nào của một Hiệp định Thương mại nhiều bên được điều chỉnh theo quy định
của Hiệp định đó.
Như vậy, theo quy định tại Điều XVI của Hiệp định Marrakesh, khi một
thành viên của WTO thực hiện các cam kết của mình thì phải đảm bảo rõ ràng
hệ thống pháp luật của nước mình phải thống nhất với các nghiac vụ thành viên
của WTO trên các phương diện đã cam kết, đồng thời thực thi một cách triệt để,
Khoản 3; Khoản 4; Khoản 5 Điều XVI Hiệp định Marrakesh thành lập WTO ngày
15/04/1994.
4


Khoỏ luận tốt nghiệp

10

Bựi Ngọc Quỳnh Giao

tận tâm, thiện chí theo đúng các nghĩa vụ đã cam kết khi trở thành thành viên của
WTO.
Điều này là điểm khác biệt vì theo quy định của Công ước Viên 1969 về
Luật Điều ước quốc tế: khi một quốc gia thành viên thực hiện các cam kết quốc
tế theo nguyên tắc Pacta sunt servanda thì trong một số trường hợp pháp luật
trong nước có thể “vênh” với các quy định của Luật quốc tế. Tuy nhiên, trong
trường hợp có sự mâu thuẫn hoặc “vênh” giữa Điều ước quốc tế và pháp luật
quốc gia thì quy định của Điều ước quốc tế được ưu tiên thực hiện.
3. Cam kết của Việt Nam với WTO về Thương mại Dịch vụ. Yêu cầu

của WTO về thực thi các cam kết về dịch vụ.
3.1. Khái niệm Thương mại Dịch vụ.
Theo Khoản 2 Điều I GATS5, Thương mại Dịch vụ được định nghĩa là
việc cung cấp dịch vụ:
Từ lãnh thổ của một Thành viên đến lãnh thổ của bất kỳ một Thành viên
nào khác (Cung cấp dịch vụ qua biên giới);
Trên lãnh thổ của một Thành viên cho người tiêu dùng dịch vụ của bất kỳ
Thành viên nào khác (Tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài);
Bởi một người cung cấp dịch vụ của một Thành viên, thông qua sự hiện
diện thương mại trên lãnh thổ của bất kỳ Thành viên nào khác (Hiện diện
thương mại);
Bởi một người cung cấp dịch vụ của một Thành viên thông qua sự hiện
diện thể nhân trên lãnh thổ của bất kỳ Thành viên nào khác (Hiện diện thể
nhân);
3.2. Cam kết của Việt Nam với WTO về Thương mại Dịch vụ
3.2.1. Cam kết chung về Thương mại Dịch vụ
Công ty nước ngoài không được hiện diện tại Việt Nam dưới hình thức
chi nhánh, trừ phi điều đó được Việt Nam cho phép trong từng ngành cụ thể.
GATS ( The General Agreement on Trade in Services) : Hiệp định chung về Thương mại
Dịch vụ
5


Khoỏ luận tốt nghiệp

11

Bựi Ngọc Quỳnh Giao

Việt Nam bảo lưu những ưu đãi đã dành cho các nhà cung cấp dịch vụ

nước ngoài trước khi Việt Nam gia nhập WTO để đảm bảo rằng hoạt động kinh
doanh của họ không bị ảnh hưởng bởi các cam kết trong Biểu cam kết dịch vụ.
Việt Nam cho phép tổ chức và cá nhân nước ngoài được mua cổ phần
trong các doanh nghiệp Việt Nam nhưng mức mua cổ phần trong từng ngành
phải phù hợp với mức độ cam kết của ngành đó trong Biểu cam kết dịch. Riêng
ngân hàng, ta chỉ cho phép nước ngoài được mua tối đa 30% cổ phần.
Việt Nam cho phép công ty nước ngoài đưa cán bộ quản lý và các chuyên
gia có trình độ cao vào làm việc tại Việt Nam theo thông lệ của WTO nhưng tối
thiểu 20% cán bộ quản lý của công ty phải là người Việt Nam. Ngoài ra, để
được phép vào Việt Nam làm việc, ngoài việc tuân thủ các quy định hiện hành
của Việt Nam về thủ tục xuất nhập cảnh và lưu trú, cán bộ quản lý mà công ty
nước ngoài đưa vào phải đáp ứng được các tiêu chí được quy định rất rõ tại phần
Cam kết chung.
3.2.2.Các cam kết cụ thể
* Dịch vụ khai thác hỗ trợ dầu khí
Việt nam cho phép các Doanh nghiệp nước ngoài được thành lập công ty
100% vốn nước ngoài sau 5 năm kể từ khi gia nhập để đáp ứng các dịch vụ hỗ
trợ khai thác dầu khí. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn giữ nguyên quyền quản lý các
hoạt động trên biển, thềm lục địa và quyền chỉ định các công ty thăm dò, khai
thác tài nguyên;
Việt Nam bảo lưu được một danh mục các dịch vụ dành riêng cho các
Doanh nghiệp Việt Nam như dịch vụ bay, dịch vụ cung cấp trang thiết bị và vật
phẩm cho dàn khoan xa bờ... Tất cả các công ty vào Việt Nam cung ứng dịch vụ
hỗ trợ dầu khí đều phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
*Dịch vụ viễn thông
Về cung cấp dịch vụ viễn thông có hạ tầng mạng: Việt Nam cho phép
thành lập liên doanh đa số vốn nước ngoài để cung cấp dịch vụ viễn thông. Bên


Khoỏ luận tốt nghiệp


12

Bựi Ngọc Quỳnh Giao

nước ngoài chỉ được phép đầu tư dưới hình thức liên doanh với nhà khai thác
Việt Nam, được cấp phép với vốn góp tối đa là 49%.
Về cung cấp dịch vụ viễn thông không có hạ tầng mạng: Trong 3 năm đầu
kể từ khi gia nhập WTO, bên nước ngoài chỉ được phép đầu tư dưới hình thức
liên doanh với nhà khai thác Việt Nam, được cấp phép với phần vốn góp tối đa
là 51%. Ba năm sau khi gia nhập, bên nước ngoài mới được phép tự do lựa chọn
đối tác liên doanh và nâng mức vốn góp lên 65%.
Về cung cấp dịch vụ viễn thông qua biên giới: 3 năm sau khi gia nhập,
các công ty đa quốc gia hoạt động tại Việt Nam sẽ được cấp phép sử dụng trực
tiếp dịch vụ vệ tinh của nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài. Ta cũng có cam kết
cho phép bên nước ngoài được kết nối và bán dung lượng cáp quang biển kết nối
với các trạm cập bờ của Việt Nam với lộ trình cụ thể.
* Dịch vụ phân phối
Việt Nam không mở cửa thị trường phân phối xăng dầu, dược phẩm, sách,
báo, tạp chí, băng hình, thuốc lá, gạo, đường và kim loại quý cho nước ngoài.
Bên cạnh đó, với nhiều sản phẩm nhạy cảm như sắt thép, phân bón, xi-măng...,
Việt Nam chỉ mở cửa thị trường sau 3 năm. Quan trọng nhất, Việt Nam hạn chế
rất chặt khả năng mở điểm bán lẻ của Doanh nghiệp có vốn ĐTNN.
Các công ty nước ngoài được phép liên doanh với công ty VN với phần
vốn góp không quá 49% cho đến năm 2008. Quy định này sẽ được bãi bỏ vào
ngày 01-01-2009.
Các công ty nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực phân phối được phép
tham gia làm đại lý, kinh doanh bán lẻ, bán sỉ đối với những hàng hóa nhập khẩu
hoặc sản xuất trong nước trừ xi măng, lốp xe (trừ lốp máy bay), giấy, máy kéo,
xe gắn máy, xe hơi, sắt thép, thiết bị nghe nhìn, rượu và phân bón. Trong vòng 3

năm kể từ khi gia nhập, công ty nước ngoài được phép hoạt động dưới hình thức
làm đại lý, kinh doanh lẻ và sỉ đối với tất cả các sản phẩm nhập khẩu và hàng
hóa sản xuất trong nước.


Khoỏ luận tốt nghiệp

13

Bựi Ngọc Quỳnh Giao

Với hình thức nhượng quyền thương mại, công ty nước ngoài được phép
liên doanh với mức vốn góp không quá 49% cho đến ngày 01-01-2008, đến năm
2009 quy định này được bãi bỏ. Sau 3 năm gia nhập, hình thức nhượng quyền
thương mại được cho phép.
* Dịch vụ bảo hiểm
Việt Nam cho phép nhà cung cấp nước ngoài được cung cấp qua biên
giới một số loại hình dịch vụ bảo hiểm như bảo hiểm cho Doanh nghiệp có vốn
ĐTNN và người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, tái bảo hiểm, bảo hiểm đối
với vận tải quốc tế... Nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm nước ngoài được thành lập
công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài sau khi gia nhập WTO, được cung cấp
các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc từ ngày 01-01-2008 và không được phép cung
cấp dịch vụ bảo hiểm đối với những thương vụ được chỉ định như trách nhiệm
pháp lý bên thứ 3 đối với xe gắn máy, bảo hiểm trong xây dựng và lắp đặt, bảo
hiểm cho các dự án dầu và gas, bảo hiểm cho các dự án xây dựng mang tính
nguy hiểm cao và liên quan đến an ninh công cộng... Tất cả những giới hạn này
sẽ được dỡ bỏ từ ngày 01-01-2008. Sau 5 năm kể từ ngày gia nhập, các công ty
bảo hiểm nước ngoài được phép lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ.
* Dịch vụ ngân hàng
Trong lĩnh vực dịch vụ Ngân Hàng, Việt Nam cũng đưa ra một số bước

tiến phù hợp với thực trạng và chính sách của ngành, như cho phép các ngân
hàng nước ngoài thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài, đẩy nhanh lộ
trình cho phép các chi nhánh ngân hàng nước ngoài được huy động tiền gửi
bằng đồng Việt Nam. Ta vẫn giữ được hạn chế về mua cổ phần trong ngân hàng
Việt Nam, không quá 30%. Như vậy, các tổ chức tín dụng nước ngoài chỉ được
phép thiết lập hiện diện thương mại ở Việt Nam dưới hình thức:
• Đối với ngân hàng thương mại nước ngoài: Văn phòng đại diện, chi
nhánh, ngân hàng thương mại liên doanh với số vốn đầu tư chiếm không quá
50%, công ty cho thuê tài chính, công ty liên doanh tài chính và công ty tài


Khoỏ luận tốt nghiệp

14

Bựi Ngọc Quỳnh Giao

chính 100% vốn nước ngoài. Từ ngày 01-4-2007, ngân hàng 100% vốn đầu tư
nước ngoài được phép thành lập.
• Đối với công ty tài chính nước ngoài: Được phép thành lập văn phòng
đại diện, công ty tài chính liên doanh và 100% vốn nước ngoài, công ty cho thuê
tài chính liên doanh và 100% vốn nước ngoài.
* Dịch vụ chứng khoán
Việt Nam cho phép các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán cung cấp qua
biên giới một số hoạt động liên quan đến chứng khoán như thông tin tài chính,
tư vấn tài chính, các dịch vụ trung gian và hỗ trợ kinh doanh chứng khoán...
Ngoài ra, ta cũng cho phép thành lập liên doanh 49% vốn nước ngoài ngay từ
khi gia nhập WTO. Sau 5 năm, ta cho phép thành lập công ty 100% vốn nước
ngoài và chi nhánh để cung cấp dịch vụ chứng khoán đối với một số loại hình
dịch vụ như quản lý tài sản, thanh toán, tư vấn liên quan đến chứng khoán, trao

đổi thông tin tài chính.


Khoỏ luận tốt nghiệp

15

Bựi Ngọc Quỳnh Giao

* Các cam kết khác
Đối với các lĩnh vực dịch vụ còn lại như: Du lịch, vận tải, pháp lý, giáo
dục…Việt nam cam kết:
• Dịch vụ pháp lý: Các tổ chức, công ty luật sư nước ngoài được quyền
thiết lập hiện diện thương mại tại Việt Nam dưới các hình thức: chi nhánh, công
ty trực thuộc các tổ chức luật sư nước ngoài; công ty luật nước ngoài tại Việt
Nam; liên kết với các đối tác Việt Nam.
• Trong lĩnh vực giáo dục chỉ được tiến hành dưới hình thức liên doanh. 7
năm sau khi có hiệu lực mới được thành lập trường có 100% vốn nước ngoài.
• Đối với lĩnh vực Dịch vụ in ấn – xuất bản, Việt nam không cam kết mở
cửa.
3.3. Yêu cầu của WTO về thực thi các cam kết Thương mại Dịch vụ của
Việt Nam
WTO quy định các nước thành viên có nghĩa vụ nội luật hóa các quy định
trong các Hiệp định đa biên, trong đó có Hiệp định chung về Dịch vụ (GATS)
của WTO. Họ có nghĩa vụ thông báo cho WTO biết về việc tiến hành sửa đổi,
bổ sung hoặc xây dựng mới các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với nghĩa
vụ thành viên. Còn đối với các nước đang trong quá trình đàm phán gia nhập
WTO thì vấn đề điều chỉnh luật trong nước cho phù hợp với các quy định của
WTO được xem là một điều kiện quan trọng để được xem xét chấp thuận là
thành viên của Tổ chức. Vì đây được xem như một khả năng thực hiện những

cam kết đối với những nước xin gia nhập khi họ đã là thành viên.
Việc tuân thủ các cam kết của Việt Nam với WTO có thể nhìn thấy từ
việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan đến Thương mại Dịch
vụ. Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung và ban hành mới nhiều văn bản quy phạm
pháp luật trong lĩnh vực này như: Luật đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương
mại, Luật Luật sư, Luật Điện ảnh, Luật Chứng khoán… là những văn bản liên
quan trực tiếp đến các đối tượng trong cam kết Thương mại Dịch vụ.


Khoỏ luận tốt nghiệp

16

Bựi Ngọc Quỳnh Giao

Về cơ bản, quy định của pháp luật Việt Nam về Thương mại Dịch vụ đã
phù hợp với các quy định chung của WTO. Tuy nhiên, với một hệ thống pháp
luật rất phức tạp được ban hành bởi nhiều cơ quan ở nhiều cấp khác nhau như
Việt Nam hiện nay thì vấn đề điều chỉnh những quy định trong hệ thống pháp
luật cho phù hợp với những quy định của WTO vẫn còn nhiều khó khăn. Hiện
nay hệ thống văn bản pháp luật của chúng ta còn nhiều hạn chế, chồng chéo,
chưa thể đáp ứng được các yêu cầu thực tế để thực hiện các cam kết thương mại
dịch vụ của Việt Nam với WTO. Chẳng hạn khái niệm “thương mại” trong luật
pháp quốc tế được hiểu theo nghĩa rất rộng. Trong khi đó, pháp luật thương mại
Việt Nam lại có quan niệm hẹp về vấn đề này và điều này trên thực tế đã làm
phát sinh không ít phức tạp. Hay khi so sánh các quy định của WTO về đối xử
quốc gia (NT) với các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan có thể thấy
pháp luật hiện hành của Việt Nam đã có quy định về NT trong một mức độ rất
chung trong một văn bản Pháp lệnh công bố năm 2002. Trong khi đó, Việt Nam
chưa có một văn bản nào giải thích về khái niệm đó, về nội hàm của nó, cũng

như cơ chế vận hành, áp dụng NT. Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn chưa có quy định
hướng dẫn cụ thể về việc xác định và cách thức áp dụng thuế chống bán phá giá,
trợ cấp và tự vệ theo quy định của WTO. Rồi một loạt quy định liên quan đến
quyền sở hữu trí tuệ; pháp luật về đầu tư; tính minh bạch, công khai, giải quyết
tranh chấp thương mại theo WTO cũng cần được nghiên cứu để làm rõ phù hợp
với các quy định của WTO. Đáp ứng được các yêu cầu của WTO đối với Việt
Nam về thực thi các cam kết Thương mại Dịch vụ.


Khoỏ luận tốt nghiệp

17

Bựi Ngọc Quỳnh Giao

Chương II
Cơ hội và thách thức đối với việt nam trong thực thi cam kết về thương mại
dịch vụ với wto trong
giai đoạn hiện nay
1.Tổng quan về cơ hội và thách thức đối với Việt nam khi là thành
viên WTO.
1.1. Những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam theo bài phát biểu
của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Ngày 11/01/2007, tại trụ sở Giơnevơ - Thụy Sĩ, đã diễn ra nghi lể kết nạp
Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO. Sự kiện Việt Nam gia nhập
WTO đã chứng tỏ sự thừa nhận của cộng đồng thế giới với những đổi thay tích
cực, to lớn và toàn diện của Việt Nam trong suốt 20 năm qua. Gia nhập WTO,
Việt Nam đã được cộng đồng thế giới thừa nhận trong quá trình toàn cầu hóa và
đã đi thêm được một bước trên con đường hội nhập kinh tế thế giới. Sự kiện này
đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước

ta, mở ra một giai đoạn mới, tạo ra những cơ hội lớn để đất nước ta phát triển
nhanh hơn, toàn diện hơn, sớm thoát khỏi tình trạng kém phát triển, đồng thời
cũng đặt ra những thách thức gay gắt, đòi hỏi sự nỗ lực để vượt qua. Nhân sự
kiện Việt Nam trở thành thành viên WTO, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có
bài phát biểu, trong đó nêu lên những cơ hội và thách thức của Việt Nam khi gia
nhập WTO.6
1.1.1.Những cơ hội cơ hội đối với Việt Nam khi là thành viên WTO.
Theo Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, tham gia vào Tổ chức thương mại thế
giới, nước ta đứng trước những cơ hội lớn như sau:
Một là: Được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước
thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà
các nước mở cửa theo các Nghị định thư gia nhập của các nước này, không bị
Bài viết của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đăng trên Website Chính phủ (www.chinhphu.vn)
ngày 08/11/2006
6


Khoỏ luận tốt nghiệp

18

Bựi Ngọc Quỳnh Giao

phân biệt đối xử. Điều đó, tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng thị trường xuất
khẩu và trong tương lai - với sự lớn mạnh của doanh nghiệp và nền kinh tế nước
ta - mở rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Với một nền kinh tế
có độ mở lớn như nền kinh tế nước ta, kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên
60% GDP thì điều này là đặc biệt quan trọng, là yếu tố bảo đảm tăng trưởng.
Hai là: Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết

chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của nước ta ngày
càng được cải thiện. Đây là tiền đề rất quan trọng để không những phát huy tiềm
năng của các thành phần kinh tế trong nước mà còn thu hút mạnh đầu tư nước
ngoài, qua đó tiếp nhận vốn, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý, thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra công ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao
động, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo đảm tốc độ tăng
trưởng và rút ngắn khoảng cách phát triển.
Thực tế trong những năm qua đã chỉ rõ, cùng với phát huy nội lực, đầu tư
nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta và xu thế này ngày
càng nổi trội: năm 2006, đầu tư nước ngoài chiếm 37% giá trị sản xuất công
nghiệp, gần 56% kim ngạch xuất khẩu và 15,5% GDP, thu hút hơn một triệu lao
động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Ba là: Gia nhập WTO chúng ta có được vị thế bình đẳng như các thành
viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để
đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có
điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp. Đương nhiên kết
quả đấu tranh còn tuỳ thuộc vào thế và lực của ta, vào khả năng tập hợp lực
lượng và năng lực quản lý điều hành của ta.
Bốn là: Mặc dầu chủ trương của chúng ta là chủ động đổi mới, cải cách
thể chế kinh tế ở trong nước để phát huy nội lực và hội nhập với bên ngoài
nhưng chính việc gia nhập WTO, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc


Khoỏ luận tốt nghiệp

19

Bựi Ngọc Quỳnh Giao

đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của ta đồng

bộ hơn, có hiệu quả hơn.
Năm là: Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm
đổi mới, việc gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo
điều kiện cho ta triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại theo phương châm:
Việt Nam mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
thế giới vì hoà bình, hợp tác và phát triển.
1.1.2.Những thách thức đối với Việt Nam khi trở thành thành viên WTO.
Theo Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, trong khi nhận thức rõ những cơ hội
có được do việc gia nhập WTO mang lại, cần thấy hết những thách thức mà
chúng ta phải đối đầu, nhất là trong điều kiện nước ta là một nước đang phát
triển ở trình độ thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập, doanh
nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé. Những thách thức này bắt nguồn từ
sự chênh lệch giữa năng lực nội sinh của đất nước với yêu cầu hội nhập, từ
những tác động tiêu cực tiềm tàng của chính quá trình hội nhập. Những thách
thức này gồm:
Một là: Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều “đối thủ” hơn, trên
bình diện rộng hơn, sâu hơn. Đây là sự cạnh tranh giữa sản phẩm của ta với sản
phẩm các nước, giữa doanh nghiệp nước ta với doanh nghiệp các nước, không
chỉ trên thị trường thế giới và ngay trên thị trường nước ta do thuế nhập khẩu
phải cắt giảm từ mức trung bình 17,4% hiện nay xuống mức trung bình 13,4%
trong vòng 3 đến 5 năm tới, nhiều mặt hàng còn giảm mạnh hơn. Cạnh tranh
không chỉ diễn ra ở cấp độ sản phẩm với sản phẩm, doanh nghiệp với doanh
nghiệp. Cạnh tranh còn diễn ra giữa nhà nước và nhà nước trong việc hoạch
định chính sách quản lý và chiến lược phát triển nhằm phát huy nội lực và thu
hút đầu tư từ bên ngoài. Chiến lược phát triển có phát huy được lợi thế so sánh
hay không, có thể hiện được khả năng “phản ánh vượt trước” trong một thế giới
biến đổi nhanh chóng hay không. Chính sách quản lý có tạo được chi phí giao
dịch xã hội thấp nhất cho sản xuất kinh doanh hay không, có tạo dựng được môi



Khoỏ luận tốt nghiệp

20

Bựi Ngọc Quỳnh Giao

trường kinh doanh, đầu tư thông thoáng, thuận lợi hay không v.v… Tổng hợp
các yếu tố cạnh tranh trên đây sẽ tạo nên sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế,
sức cạnh tranh quốc gia.
Hai là: Trên thế giới sự “phân phối” lợi ích của toàn cầu hoá là không
đồng đều. Những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. ở
mỗi quốc gia, sự “phân phối” lợi ích cũng không đồng đều. Một bộ phận dân cư
được hưởng lợi ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá; nguy
cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên, phân
hoá giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách phúc lợi và an
sinh xã hội đúng đắn; phải quán triệt và thực hiện thật tốt chủ trương của Đảng:
“Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”.
Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ
thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường các nước
sẽ tác động mạnh đến thị trường trong nước, đòi hỏi chúng ta phải có chính sách
kinh tế vĩ mô đúng đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình hình, cơ chế quản
lý phải tạo cơ sở để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế được
ảnh hưởng tiêu cực trước những biến động trên thị trường thế giới. Trong điều
kiện tiềm lực đất nước có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm
vận hành nền kinh tế thị trường chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ, đòi
hỏi chúng ta phải phấn đấu vươn lên mạnh mẽ, với lòng tự hào và trách nhiệm
rất cao trước quốc gia, trước dân tộc.
Bốn là: Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo
vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống

tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền.
Cùng với bài phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nghị quyết số
08 – NQ/TW tại hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa 10 về
một số chủ trương chính sách lớn để phát triển bền vững khi Việt Nam gia nhập


Khoỏ luận tốt nghiệp

21

Bựi Ngọc Quỳnh Giao

WTO7 cũng đã nêu lên những thách thức và cơ hội của Việt Nam khi trở thành
thành viên WTO.
1.2.Những cơ hội và thách thức của Việt Nam khi trở thành thành viên
WTO theo quan điểm của nghị quyết số 08-NQ/TW
1.2.1. Những cơ hội đối với Việt Nam
Theo quan điểm của Ban chấp hành Trung ương Đảng trong Nghị quyết
số 08-NQ/TW, chúng ta có những cơ hội trong việc thực thi các cam kết về
Thương mại Dịch vụ như sau:
Một là: Chúng ta có điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu vào các nứơc
thành viên của tổ chức Thương mại thế giới với tư cách là một đối tác bình
đẳng, không bị phân biệt đối xử và theo các mức thuế các thành viên WTO cam
kết. Đây là những yếu tố quan trọng để thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa,
dịch vụ của nước ta, tạo thêm việc làm, góp phần giữ vững tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao.
Hai là: Thực hiện các cam kết khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới,
thể chế kinh tế chính trị ở nước ta ngày càng hoàn thiện, môi trường đầu tư, kinh
doanh trong nước ngày càng thuận lợi, thúc đẩy mạnh mễ đầu tư của các thành
phần kinh tế, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, đầu tư trực tiếp và đầu tư gián

tiếp, trong đó có các công ty xuyên quốc gia có tiềm lực tài chính, công nghệ
cao, trình độ quản lý tiên tiến, đóng góp ngày càng quan trọng vào quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta.
Ba là: Gia nhập tổ chức thương mại thế giới sẽ thúc đẩy nền kinh tế nước
ta phát triển, chính sách kinh tế, cơ chế quản lý ngày càng minh bạch hơn, môi
trường kinh doanh thuận lợi hơn, khơi dậy mạnh mẽ những tiềm năng to lớn của
đất nước và sức sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, việc phân bổ và sử dụng các
nguồn lực sẽ hiệu quả hơn; tăng trưởng kinh tế sẽ nhanh và bền vững hơn.
Nghị quyết số 08/2006/NQ-TW hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa10
về một số chủ trương, chính sách lớn để phát triển bền vững khi Việt nam gia nhập WTO.
7


Khoỏ luận tốt nghiệp

22

Bựi Ngọc Quỳnh Giao

Bốn là: Là thành viên của tổ chức Thương mại thế giới, nước ta có địa vị
bình đẳng với các thành viên khác khi tham gia vào việc hoạch định chính sách
thương mại toàn cầu, thiết lập một trật tự kinh tế công bằng hơn; có điều kiện
thuận lợi để đấu tranh bảo vệ quyền lợi doanh nghiệp Việt Nam trong các cuộc
tranh chấp thương mại với các thành viên khác, hạn chế những thiệt hại xảy ra
đối với Việt nam.
Năm là: Chúng ta có những thuận lợi mới để thực hiện đường lối đối
ngoại của Đảng: “ Việt nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, phát huy vai trò của nước ta trong các tổ chức khu vực và quốc tế, xây
dựng quan hệ đối tác bình đẳng với các nước trên thế giới.
Ngoài ra, khi là thành viên Tổ chức thương mại thế giới, người tiêu dùng

trong nước sẽ có thêm sự lựa chọn và hàng hóa, dịch vụ có chất lượng cao, giá
cả cạnh tranh; các doanh nghiệp trong nước có thể tiếp cận nguồn nguyên liệu
đầu vào với giá cạnh tranh hơn, dịch vụ hỗ trợ tiện lợi hơn, có chất lượng hơn,
tiết kiệm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh doanh.
1.2.2.Những thách thức đối với Việt Nam.
Theo quan điểm của Ban chấp hành Trung ương Đảng trong Nghị quyết
số 08-NQ/TW, bên cạnh những cơ hội khi trở thành thành thành viên WTO
chúng ta cũng đồng thời gặp những thách thức trong việc thực thi các cam kết về
Thương mại Dịch vụ như sau:
Thứ nhất: Nước ta phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt trên cả 3 cấp độ:
sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia. Các sản phẩm và doanh nghiệp của Việt
Nam sẽ phải cạnh tranh với sản phẩm và doanh nghiệp nước ngoài, không chỉ
trên thị trường thế giới mà ngay cả trên thị trường trong nước. Chính phủ ta phải
cạnh tranh với chính phủ các nước trong việc cải thiện môi trường thu hút đầu
tư.
Cùng với việc được tiếp cận thị trường tại các nước thành viên khác của
WTO, chúng ta cũng phải mở cửa thị trường cho các nước thành viên khác. Điều


Khoỏ luận tốt nghiệp

23

Bựi Ngọc Quỳnh Giao

đó sẽ tạo ra thách thức cho chúng ta trong việc cạnh tranh sản phẩm, cạnh tranh
môi trường thu hút đầu tư với các quốc gia khác.
Thứ hai: Gia nhập tổ chức thương mại thế giới, tham gia vào tiến trình
toàn cầu hóa kinh tế có thể làm tăng thêm sự phân phối lợi ích không đồng đều
giữa các khu vực, các ngành, các vùng, miền đất nước; có những bộ phận doanh

nghiệp có thể bị phá sản, thất nghiệp có thể tăng lên; khoảng cách giàu nghèo,
mức sống giữa nông thôn và thành thị và có thể cách biệt lớn hơn, từ đó có thể
dẫn đến những yếu tố gây bất ổn định xã hội, ảnh hưởng đến định hướng xã hội
chủ nghĩa của đất nước.
Thứ ba: Với sự hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, những biến
động trên thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường hàng hóa quốc tế sẽ tác động
mạnh hơn, nhanh hơn đến thị trường trong nước, tiềm ẩn nguy cơ không kiểm
soát được thị trường, có thể gây ra rối loạn, thậm chí khủng hoảng kinh tế, tài
chính, ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước.
Thực thi các cam kết của WTO, nền kinh tế nước ta chắc chắn bị ảnh
hưởng bởi những cam kết và quy luật của nền kinh tế thị trường, mở cửa thị
trường, giảm thuế sẽ làm cho sản phẩm và sự đầu tư của các quốc gia khác vào
Việt Nam một cách ồ ạt. Điều đó sẽ tác động mạnh mẽ tới các doanh nghiệp, có
thể làm các doanh nghiệp Việt Nam phá sản, gây rối loạn kinh tế.
Thứ tư: Đội ngũ cán bộ, công chức nước ta (bao gồm cán bộ quản lý nhà
nước, quản trị doanh nghiệp và chuyên gia trong các lĩnh vực còn thiếu và yếu
cả về năng lực và chuyên môn, trình độ tin học, ngoại ngữ. Đặc biệt, chúng ta
còn thiếu một đội ngũ luật sư giỏi, thông thạo luật pháp quốc tế và ngoại ngữ để
giả quyết các tranh chấp thương mại và tư vấn cho các doanh nghiệp trong kinh
doanh. Lực lượng lao động chưa qua đào tạo còn chiếm tỉ trọng lớn, số lao động
không có trình độ chuyên môn và tay nghề cao còn thiếu nhiều.
Thứ năm: Cùng với những thách thức trong lĩnh vực kinh tế, quá trình hội
nhập quốc tế cũng đặt ra những thách thức lớn đối với chế độ chính trị, vai trò
lãnh đạo của Đảng và việc giữ vững định hướng xá hội chủ nghĩa, việc bảo đảm


Khoỏ luận tốt nghiệp

24


Bựi Ngọc Quỳnh Giao

quốc phòng, an ninh, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh
thái cho phát triển bền vững đất nước.
2. Một số cơ hội và thách thức cơ bản đối với Việt Nam trong thực thi
cam kết về Thương mại Dịch vụ với WTO trong giai đoạn hiện nay
2.1. Một số cơ hội cơ bản đối với Việt Nam trong thực thi cam kết về
Thương mại Dịch vụ với WTO trong giai đoạn hiện nay.
Khi thực hiện các cam kết về dịch vụ với WTO, khả năng tiếp cận thị
trường cạnh tranh được mở rộng đối với nền kinh tế Việt Nam thể hiện ở hai
khía cạnh:
• Khía cạnh thứ nhất là mở rộng quy chế tối huệ quốc (MFN-The most
favored nation) và đối xử quốc gia (NT - Nation treament) lâu dài và vô điều
kiện gắn liền với quy chế thành viên của WTO. Dịch vụ của Việt Nam được
hưởng chế độ đãi ngộ tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia đa phương vô điều kiện
và ổn định, có quyền tự do quá cảnh tới hơn 150 nước thành viên.
• Khía cạnh thứ hai là khi thực thi các cam kết với WTO thì Việt Nam sẽ
tránh được những biện pháp trong các hành động chống phá giá của các đối tác
thương mại. Thực tiễn cho thấy rằng các biện pháp chống bán phá giá thường
được áp dụng mạnh hơn cho đối với những nước chưa phải là thành viên WTO
so với những nước là thành viên của WTO.
Các quy định của Hiệp định chung về dịch vụ thương mại của WTO yêu
cầu các nước thành viên từng bước mở cửa thị trường dịch vụ, bao gồm các
ngành dịch vụ: dịch vụ thương nghiệp, tiền tệ, điện tín, du lịch, giáo dục... trên
cơ sở nguyên tắc không phân biệt đối xử. Với nguyên tắc như vậy, khi trở thành
thành viên của WTO, thực thi các cam kết về thương mại dịch vụ, Việt nam sẽ
từng bứơc mở cửa thị trường dịch vụ của mình cho nước ngoài và như vậy sẽ
thúc đẩy thị trường trong nước phát triển và có tính cạnh tranh hơn. Sự cạnh
tranh sẽ thúc đẩy chi phí về dịch vụ giảm và nâng cao chất lượng dịch vụ từ đó
nâng cao hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế.



Khoỏ luận tốt nghiệp

25

Bựi Ngọc Quỳnh Giao

Khi chính thức trở thành thành viên WTO, vấn đè xuất khẩu, doanh
nghiệp, hàng hoá của Việt Nam sẽ không bi bó hẹp trong các Hiệp định song
phương và khu vực mà sẽ có thị trường toàn cầu; không bị phân biệt đối xử so
với hàng hoá và doanh nghiệp của các quốc gia khác. Việc giảm bớt hàng rào
thương mại sẽ thúc đẩy thương mại tăng trưởng đối với nước ta.
Bên cạnh đó, khi thực hiện yêu cầu về việc minh bạch hoá hệ thống chính
sách quốc gia theo yêu cầu của WTO, Việt Nam sẽ tạo được niềm tin cho các
nhà đầu tư nước ngoài, tăng khả năng thu hút vốn, tạo ra ngoại lực cho đất nước
phát triển.
Môi trường thương mại quốc tế đã trở nên thông thoáng hơn sau nhiều nỗ
lực của WTO. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại những hạn chế trong thương mại quốc
tế. Đó là những rào cản thương mại ẩn dưới các công cụ được WTO cho phép.
Tranh chấp thương mại là điều khó tránh khỏi mà phần thua thiệt thường thuộc
về các nước nhỏ. Gia nhập WTO, thực thi các cam kết chúng ta được sử dụng cơ
chế giải quyết tranh chấp để bảo vệ quyền lợi của mình, đảm bảo được đối xử
bình đẳng như các quốc gia thành viên khác của WTO, Việt Nam sẽ có một vị
thế bình đẳng như các thành viên khác, được tham gia hoạch định chính sách
thương mại toàn cầu, có cơ hội bảo vệ lợi ích của đất nước mình.
Thực thi các cam kết có nghĩa là việt nam phải có những thay đổi phù hợp
với tình hình mới của đất nước, là động lực để Việt Nam tiến hành cải cách các
đường lối, chính sách đối nội cũng như đối ngoại, tạo ra nguồn nội lực, và các
điều kiện giúp việt nam tránh sự tụt hậu khi tham gia vào tiến trình hội nhập của

cả thế giới. Việc thực hiện các cam kết của WTO đòi hỏi đẩy nhanh quá trình cải
cách hành chính của Việt Nam, Chính phủ và các cơ quan nhà nước phải đổi
mới phương thức hoạt động phù hợp với đòi hỏi của WTO. Những cản trở,
vướng mắc trong quản lý hành chính sẽ được bãi bỏ, nhiều dịch vụ hành chính
công sẽ ra đời, tạo điều hỗ trợ cho các doanh nghiệp và người dân trong quá
trình phát triển.


×