Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh các trường trung học phổ thông dân tộc nội trú trên địa bàn tỉnh nghệ an hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.73 KB, 95 trang )

i
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÔ THANH BÌNH

NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC,
LỐI SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH NGHỆ AN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Nghệ An, 2015


ii
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÔ THANH BÌNH

NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC,
LỐI SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH NGHỆ AN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH : LÝ LUẬN VÀ PPDHBM
GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ : 60.14.01.11


Người hướng dẫn khoa học :
PGS. TS. ĐOÀN MINH DUỆ

Nghệ An, 2015


i
LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy giáo, cô giáo Khoa Giáo dục
Chính trị, Khoa Sau Đại học - Trường Đại học Vinh đã dành nhiều tâm huyết
truyền đạt những tri thức quý báu, giúp tôi hoàn thành khoá học và luận văn.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy giáo
PGS. TS. Đoàn Minh Duệ đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập,
nghiên cứu và đã hướng dẫn, đóng góp những ý kiến quý báu để tôi hoàn
thành luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Ban Giám hiệu, Tổ Sử - Địa - GDCD
Trường Phổ Thông Dân Tộc Nội Trú THPT Số 2 Nghệ An cùng các đồng
nghiệp, bạn bè và gia đình đã động viên, tạo điều kiện cho tôi trong quá trình
theo học chương trình Cao học tại Trường Đại học Vinh cũng như để hoàn
thành luận văn tốt nghiệp.

Vinh, tháng 11 năm 2015
Tác giả

Lô Thanh Bình


ii
MỤC LỤC

Trang
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... .

i

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH.............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................. .

ii

QUY ĐỊNH TỪ VIẾT TẮT

CNH HĐH:

Công nghiệp hoá Hiện đại hoá

GDCD:

Giáo dục công dân

GS:

Giáo sư

THPT:

Trung học phổ thông

TS:

Tiến sĩ


PGS:

Phó giáo sư

VS:

Viện sĩ

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

DT&MN:

Dân tộc và Miền núi

DTTS:

Dân tộc Thiểu số

DTNT:

Dân tộc nội trú


1
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lịch sử nhân loại đã bước sang một kỷ nguyên mới, yêu cầu đặt ra của

các Quốc gia là tạo mọi cơ hội để phát triển đất nước. Sự phát triển như vũ
bão của cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ cùng với xu hướng toàn
cầu hóa nền kinh tế đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của các nước
trên thế giới. Cùng với xu thế đó, một trong những nhiệm vụ hết sức quan
trọng của các quốc gia nói chung và ở Việt Nam nói riêng là phải đào tạo
những con người toàn diện, có đức, có tài, có kỹ năng lao động để đáp ứng
yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để đáp ứng yêu cầu đó, Đảng ta đã đề
ra các chiến lược: “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học, công nghệ là quốc
sách hàng đầu”, nhằm “ giáo dục công dân lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác- Lê
nin và những tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức và nhân văn, lịch sử
dân tộc và bản sắc văn hóa, ý chí vươn lên vì tương lai bản thân và tiền đồ đất
nước” [20; tr 35].
Trong hơn 20 năm qua, nền kinh tế thị trường đã tạo ra sự chuyển biến
căn bản, đem lại những khởi sắc mới trên mọi mặt của đời sống kinh tế - xã
hội. Tuy nhiên, những tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường đang
tác động vào mọi quan hệ của xã hội, làm sai lệch các giá trị đạo đức, ảnh
hưởng xấu đến lớp trẻ. Bên cạnh đó các thể lực thù địch lại thường xuyên
chống phá ta bằng nhiều thủ đoạn, trong đó âm mưu “Diễn biến hòa bình”
nhằm mục đích làm cho lớp trẻ có lối sống vị kỷ, thực dụng. Nhiều bạn trẻ
ngày nay sống không có phương hướng, thiếu lí tưởng và mục đích cao đẹp.
Những ảnh hưởng xấu của văn hóa đồi trụy phương Tây đã tác động đến nhận
thức của một số bộ phận thanh niên, học sinh. Trước thực trạng đó, yêu cầu
bức thiết đối với chúng ta là phải phát huy, tăng cường công tác giáo dục đạo
đức, lối sống cho học sinh, coi đây là nhiệm vụ sống còn, là sự nghiệp cách
mạng chung của đất nước và là yêu cầu hết sức quan trọng nhằm giúp thế hệ


2
trẻ hôm nay có bản lĩnh chính trị vững vàng trước mọi thử thách nghiệt ngã
trong quá trình thực hiện sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, góp phần thực hiện

thành công mục tiêu “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh” theo định hướng XHCN.
Giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh bậc THPT luôn được Đảng,
Nhà nước và xã hội đặc biệt quan tâm. Bởi vì đây là lứa tuổi chuẩn bị làm
người lớn, tâm lí chưa ổn định. Nhiều nơi, việc vi phạm đạo đức, lối sống chủ
yếu tập trung ở lứa tuổi này. Chính vì vậy, công tác giáo dục đạo đức trong
nhà trường là một việc làm hết sức quan trọng, nhất là trong sự nghiệp đổi
mới hiện nay, khi yếu tố con người được đặc biệt coi trọng, thì tiềm năng trí
tuệ cùng với sức mạnh tinh thần và đạo đức càng được đề cao và phát huy
mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực xã hội. Việc nâng cao chất lượng và hiệu quả
giáo dục đạo đức cho học sinh là đòi hỏi thường xuyên của công tác giáo dục,
đồng thời cũng là đòi hỏi cấp bách của việc nâng cao chất lượng giáo dục hiện
nay.
Ở tỉnh Nghệ An có hai trường phổ thông Trung học dân tộc nội trú, học
sinh của hai trường này đều là những em học khá, giỏi ở các huyện miền núi,
các xã vùng 135. Đa số cá em có tư cách đạo đức tốt, có lối sống lành mạnh,
có ý thức ham học, cầu tiến bộ. Tuy nhiên, bên cạnh đó do sự tác động và ảnh
hưởng của mặt trái cơ chế thị trường, nên hiện nay công tác giác dục đạo đức,
lối sống cho học sinh đã và đang đặt ra những bức xúc cho công tác giáo dục
của các nhà trường.
Từ những yêu cầu bức thiết trên, với sự mong muốn góp một phần sức
lực của mình vào việc nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống cho học
sinh các trường phổ thông Trung học dân tộc nội trú trên địa bàn tỉnh nhà,
chúng tôi chọn vấn đề: “Nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức, lối sống cho
học sinh các trường Trung học phổ thông dân tộc nội trú trên địa bàn tỉnh
Nghệ An hiên nay” làm đề tài luận văn Cao học.


3
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài

viết về vấn đề đạo đức, lối sống và giáo dục đạo đức dưới góc độ tâm lý học
như :
- PGS. TS Đoàn Minh Duệ và các cộng tác viên với đề tài “Tình hình
tư tưởng đạo đức, lối sống của sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng thuộc
các tỉnh Bắc miền Trung”( 1997). Mặc dầu đề tài đã khai thác khá sâu về các
vấn đề đạo đức, lối sống nhưng chưa đề cập đến làm thế nào để công tác
giảng dạy và học tập gắn liền với việc nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức, lối
sống cho học sinh các trường THPT hiện nay, bởi đề tài này chỉ đề cập ở bậc
Đại học, Cao đẳng.
- GS. VS. Phạm Minh Hạc trong nhiều công trinhg nghiên cứu về đạo
đức đã nhấn mạnh đến vấn đề cấu trúc của nhân cách, cũng như nhấn mạnh
vai trò của giáo dục đạo đức trong quá trình hình thành và phát triển nhân
cách.
- GS. Phạm Tất Dong đã đi sâu nhiên cứu các mối quan hệ giữa hoạt
động giáo dục hướng nghiệp, giáo dục lao động, dạy nghề với mục tiêu giáo
dục đạo đức cho thế hệ trẻ.
- Luận án Tiến sĩ triết học của Đỗ Tuyết Bảo (2001): “Giáo dục đạo
đức cho học sinh các trường cơ sở ở Thành phố Hồ Chinh Minh trong thời ki
đổi mới hiện nay”, đã phân tích ảnh hưởng của cơ chế thị trường đối với công
tác giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ nói chung và học sinh Trung học
cơ sở ở Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Công trình nghiên cứu “lối sống” của Giáo sư Vũ Khiêu (1974), đã tập
trung vào giới thuyểt khái niệm, phân tích những biểu hiện cơ bản của lối
sống và những đạc trưng cơ bản của lối sống XHCN, tuy nhiên chưa nghiên
cứu về lối sống của học sinh, trong tình trạng hiện nay .


4
- Vũ Trọng Kim đăng trên Tạp chí Cộng sản số 21 (11-1997) khẳng
định công tác vận động thanh niên hiện nay trong đó có thanh niên là học

sinh, sinh viên là rất quan trọng. Tuy nhiên bài báo chưa đi sâu phân tích,
đánh giá thực trạng và các giải pháp công tác giáo dục đạo đức, lối sống đối
với học sinh THPT hiện nay.
- PGS.TS Nguyễn Lương Bằng “Giáo dục đạo đức cho học sinh Phổ
thông trung học trên địa bàn tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay” NXB
Nghệ An năm 2015 tác giả đã đề cập đến tình hình giáo dục đạo đức cho học
sinh từ bậc Tiểu học đến bậc trung học Phổ thông, tác giả cũng đã đưa ra các
giải pháp để giáo dục đạo đức cho học sinh nói chung một cách có hiểu quả
hơn.
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập tới công tác giáo dục đạo đức,
lối sống cả về mặt lý luận và thực tiễn, các tác giả đã đưa ra những giải pháp
thiết thực nhằm định hướng cho công tác giáo dục đạo đức, lối sống. Những
công trình trên là những tài liệu hết sức bổ ích khi nghiên cứu vấn đề này.
Cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách có hệ
thống và sâu sắc về vấn đề giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh các trường
Phổ thông trung học dân tộc nội trú trên địa bàn tỉnh Nghệ An
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích
Nghiên cứu về đạo đức, lối sống và vai trò của đạo đức lối sống của
học sinh các trường Phổ thông trung học dân tộc nội trú trên địa bàn tỉnh
Nghệ An, từ đó luận văn đề xuất một số phương hướng, giải giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh các trường
Phổ thông trung học dân tộc nội trú trên địa bàn tỉnh Nghệ An hiện nay.


5
2.2 Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở lý luận của việc giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh
Trung học phổ thông trong sự nghiệp giáo dục.
- Điều tra, khảo sát thực trạng giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh

các trường Phổ thông dân tộc nội trú trên địa bàn tỉnh Nghệ An hiện nay
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục
đạo đức, lối sống cho học sinh các trường Phổ thông trung học dân tộc nội trú
trên địa bàn tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Tập trung nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức, lối sống của học sinh
các trường Phổ thông dân tộc nội trú trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn hiện
nay
- Trong phạm nghiên cứu của đề tài này, chúng tôi chỉ giới hạn ở việc
điều tra, khảo sát ở các trường Phổ thông trung học dân tộc nội trú trên địa
bàn tỉnh Nghệ An.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng những phương pháp cụ thể:
- Phân tích, tổng hợp;
- Lôgic và lịch sử;
5. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn là tài liệu tham khảo cho các nhà giáo dục trong công tác giáo
dục đạo đức, lối sống cho học sinh Phổ thông trung học.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, cấu trúc
luận văn gồm có 3 chương 9 tiết:


6
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC LỐI SỐNG
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Đạo đức

Đạo đức là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm
điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và
quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền
thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
Khái niệm đạo đức có những nội dung chính như sau:
- Đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội mà
nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với tiêu chuẩn tiến
bộ chung của xã hội.
- Đạo đức phản ánh các quan hệ xã hội trên cơ sở sản xuất vật chất và
sinh hoạt vật chất.
- Ý thức đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là toàn bộ những quan
niệm về thiện,ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công băng,
danh dự, lòng tự trọng, ước mơ, ý chí, lý tưởng… và về những quy tắc đánh
giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân và xã hội, giữa cá nhân với cá
nhân trong xã hội.
Khi xã hội chưa phân chia giai cấp, đạo đức là công cụ chủ yếu để điều
tiết hành vi cá nhân. Khi xã hội đã phân chia giai cấp, đạo đức cùng với pháp
luật trở thành phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Đạo đức và
pháp luật có cùng chức năng xã hội, song không phải là một. Pháp luật là sản
phẩm của xã hội có giai cấp, là công cụ của giai cấp thống trị. Khi xã hội
không còn giai cấp thì pháp luật không còn lý do tồn tại. Pháp luật chỉ ra đời


7
và tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Đạo đức xuất hiện và tồn tại
mãi với xã hội loài người. Khi xã hội không còn giai cấp, pháp luật mất đi,
còn đạo đức vẫn là một công cụ đắc lực để giữu vững trật tự và ổn định xã
hội. Khác với tất cả những phạm trù lịch sử khác, đạo đức là một hiện tượng
lịch sử mang tính trường tồn. Đạo đức ra đời, tồn tại và phát triển cùng với
cộng đồng nhân loại.

1.1.2. Lối sống
Hiện nay, có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về phạm trù lối sống,
cũng có nhiều thuật ngữ khác nhau để diễn đạt cách hiểu về lối sống, tùy theo
góc tiếp cận của mỗi nhà nghiên cứu.Thông thường thuật ngữ lối sống được
sử dụng để mô tả và kèm theo đó là sự đánh giá, định giá về một kiểu hoạt
động sống nào đó. Ví dụ: lối sống giản dị, lối sống xa hoa, lối sống lành
mạnh, lối sống sa đọa, lối sống giả tạo, lối sống công nghiệp, lối sống hiện
đại, lối sống thành thị, lối sống nông thôn,...


8
Mặc dù cách hiểu về lối sống rất phong phú, nhưng có thể quy các ý
kiến thành hai khuynh hướng chính.
Khuynh hướng thứ nhất cho rằng: không phải bất cứ hoạt động sống,
bất cứ phương thức tiến hành hoạt động sống nào của con người cũng đều
được coi là lối sống, mà chỉ những hoạt động sống và phương thức tiến hành
các hoạt động sống được lặp đi lặp lại, có tầm ảnh hưởng mạnh và độ phổ
biến cao trong đa số cá thể của một nhóm, một cộng đồng người hay trong
toàn xã hội thì mới được coi là lối sống và các biểu hiện của lối sống. Đương
nhiên, khi một lối sống mới ra đời thì tầm ảnh hưởng, tính phổ biến và tần
suất lặp lại của nó sẽ không cao.
Khuynh hướng thứ hai quan niệm: lối sống là tất cả những hoạt động
sống và phương thức tiến hành các hoạt động sống được một bộ phận lớn
hoặc toàn thể các nhóm, các cộng đồng người chấp nhận và thực hành trong
một khoảng thời gian tương đối ổn định, trong một môi trường cụ thể.
Để làm rõ hơn khái niệm lối sống, chúng tôi xin được đưa ra một quan
niệm về lối sống như sau:
Lối sống của con người là các chiều cạnh chủ quan của văn hóa, là quá
trình hiện thực hóa các giá trị văn hóa thông qua hoạt động sống của con
người. Lối sống bao gồm tất cả những hoạt động sống và phương thức tiến

hành các hoạt động sống được một bộ phận lớn hoặc toàn thể nhóm hay cộng
đồng người chấp nhận và thực hành trong một khoảng thời gian tương đối ổn
định, đặt trong mối tương tác biện chứng của các điều kiện sống hiện hữu và
trong các mối liên hệ lịch sử của chúng.
Như vậy, lối sống là một thành tố của văn hóa, một phương thức tồn tại
và biểu hiện của văn hóa, lối sống dĩ nhiên phải có liên quan mật thiết với văn
hóa nhưng nó không hoàn toàn đồng nhất với văn hóa.


9
Lối sống cũng không đồng nhất với hoạt động sống bởi thực chất giữa
chúng chỉ là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa cái đặc thù và cái
phổ biến. Lối sống hình thành và thể hiện ở mọi lĩnh vực của cuộc sống, dưới
hai hình thức: lối sống cá nhân và lối sống tập thể.
Dưới tác động của kinh tế xã hội, của môi trường văn hóa và điều kiện
tự nhiên, lối sống không đứng yên mà luôn vận động và biến đổi, song không
phải lúc nào cũng biến đổi theo chiều hướng tích cực.
Có thể nói, lối sống là một hình thức biểu hiện của văn hóa. Nói đến lối
sống là nói đến cả khía cạnh văn minh nhân loại và truyền thống của một dân
tộc, cả các giá trị phổ quát và cả các giá trị phù hợp với điều kiện lịch sử của
từng thời kỳ nhất định. Lối sống hiểu một cách chung nhất là một tập hợp
những nét cơ bản, tiêu biểu, ổn định của các hình thức hoạt động sống đặc
trưng cho mỗi dân tộc, quốc gia, vùng địa lý, nhóm xã hội và cá nhân trong
những điều kiện chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội cụ thể. Đó là cách thức
hoạt động, ứng xử của chủ thể (cá nhân, tập thể) để đáp ứng nhu cầu sống, từ
ăn, mặc, ở, đi lại, tái tạo giống nòi đến học hành, vui chơi, giao tiếp và thoả
mãn nhu cầu trí tuệ, thẩm mỹ,vv..; từ hoạt động kinh doanh, chính trị, văn hoá
đến việc tổ chức đời sống cá nhân, gia đình và xã hội.
Lối sống người Việt Nam được hình thành do điều kiện địa lý, kinh tế,
chính trí, trước hết là tâm lý và văn hoá dân tộc Việt Nam. Vì vậy, lối sống

người Việt Nam chính là sự hoá thân của các đặc điểm truyền thống dân tộc,
mang những nét riêng bản sắc con người và văn hoá Việt Nam.
Có nhiều yếu tố cấu thành nên lối sống, có thể kể ra một vài thành tố
quan trọng nhất của nó như: Cách thức lao động, làm ăn, kinh doanh; Các
phong tục tập quán; Cách thức giao tiếp, ứng xử của con người; Quan niệm về
đạo đức và nhân cách...


10
Như vậy, lối sống chịu sự quy định của phương thức sản xuất xã hội và
toàn bộ những điều kiện sống của con người. Nhưng nó không phải là sản
phẩm thụ động bởi lối sống của con người là do con người tạo ra mà con
người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh, vừa là chủ thể sáng tạo ra hoàn cảnh
sống của chính mình. Do đó, lối sống có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực
đến phương thức sản xuất và toàn bộ đời sống xã hội.
Giống như một số nước phương Đông khác, đời sống tinh thần xã hội
Việt Nam truyền thống dựa trên nền tảng vật chất là nền sản xuất nhỏ. Trải
qua hàng nghìn năm phát triển lối sống truyền thống ít nhiều có sự biến đổi
chứ không phải bất di bất dịch.
Từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến nay, dân tộc ta đã
bước vào thời kỳ bảo vệ độc lập và phát triển đất nước trong thế giới hiện đại.
Sau khi giành được độc lập, dân tộc ta đã tiến hành hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp (1945 - 1954) và đế quốc Mỹ (1955 - 1975) để bảo vệ
nền độc lập, thống nhất của tổ quốc.
Bước vào thời kỳ CNH, HĐH, phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, lối sống của con người Việt Nam tất yếu phải có sự thay
đổi. Bước chuyển về mặt sản xuất vật chất xã hội đã phức tạp, bước chuyển
về mặt lối sống càng phức tạp hơn. Đặc biệt, lối sống truyền thống, vốn dựa
trên nền sản xuất tiểu nông, có nhiều nhân tố không tương hợp với tính chất
của kinh tế thị trường. Có thể nói, ngoài mặt tích cực thì mặt trái của kinh tế

thị trường có tác động tiêu cực làm phai nhạt lối sống tình nghĩa, làm rạn vỡ
tinh thần tập thể, sự ổn định gia đình, đồng thời làm nảy sinh lối sống cá nhân
chủ nghĩa, lối sống gấp, trụy lạc …


11
Trong lĩnh vực đạo đức: Trong thời kỳ cách mạng dân tộc, dân chủ
trước đây, đạo đức xã hội hướng tới việc đề cao ý thức cộng đồng, nhấn mạnh
tinh thần hy sinh cá nhân phục vụ lợi ích tập thể là trung với Đảng, hiếu với
dân, cần kiệm liêm chính chí công vô tư, là nét đẹp lý tưởng của con người có
đạo đức mẫu mực. Hiện nay, những chuẩn mực đạo đức đó vẫn được phát huy
cho phù hợp với thời kỳ mới. Đó là, Các khái niệm luân lý như kính trên
nhường dưới, tôn sư, trọng đạo, nhân nghĩa, chung thủy, hiếu thảo, các chuẩn
mực về quan hệ gia đình, dòng họ, làng xóm, quan hệ trong làm ăn, cư
trú...đang dần dần mang thêm diện mạo mới.
Giá trị đạo đức được đánh giá không chỉ trên phương diện quan hệ giữa
người với người trong sinh hoạt đời thường, mà chuyển dần về cái gốc của nó
là quan hệ giữa con người với lao động sản xuất. Tài năng trong lao động
được coi trọng và được xem là phẩm chất đạo đức. Người tốt phải là người
biết làm giàu chính đáng cho mình, đồng thời giúp đỡ người khác thoát khỏi
cảnh nghèo khó. Sự quan tâm đến người khác không chỉ dừng ở lời nói, mà
phải được thể hiện thành hành động cụ thể. Đó chính là xu thế vận động tích
cực của giá trị đạo đức. Trong nền kinh tế thị trường, ý thức đạo đức đối với
lao động đã thay đổi. Bất cứ lao động nào, làm việc gì, nghề gì, bằng sức lao
động của mình đem lại hiệu quả cao, bảo được đời sống của bản thân và gia
đình, đóng góp đống góp tích cực cho xã hôi không trái với pháp luật đều
được xem như là lao động có ích, được thừa nhận và có giá trị xã hội như
nhau về mặt đạo đức.



12
Một quan niệm mới về đạo đức và một lối sống mới hình thành, đó
là đạo đức hướng tới hành động, hướng vào hiệu quả công việc, hướng vào sự
hình thành và phát triển cá nhân, như một chủ thể mang nhân cách khẳng định
cá nhân, cá tính, ý thức về vai trò chủ thể, con người làm quen với lối sống
thiết thực, khẩn trương, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm, có trách nhiệm với bản
thân và xã hội.
Hiện nay, trong xã hội mới – xã hội chủ nghĩa, người được coi là có
đạo đức, có tinh thần yêu nước, phải là người có năng lực để lao động tự giác,
làm việc hết mình vì trách nhiệm với mình và với xã hội. Đạo đức trong xã
hội mới còn có biểu hiện tích cực thông qua những hành động cụ thể như:
nghĩa cử đền ơn đáp nghĩa đối với những người có công, gia đình thương binh
liệt sĩ, những người cô đơn, những người mắc bệnh hiểm nghèo... đã nói lên
tình cảm đạo đức cao đẹp, sự cố kết cộng đồng của dân tộc ta.
Trên thực tế, đạo đức xã hội nước ta hiện nay vừa có mặt tích cực vẫn
có mặt tiêu cực, đang cản trở sự phát triển. Từ góc nhìn văn hóa, yếu tố tiêu
cực đang có xu hương biểu hiện ngày càng tăng. Mặc dù, nó không hiện hữu
nhưng đang có tính phổ biến, có thể phá hủy, bào mòn những nền tảng tinh
thần đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Đó là, chủ nghĩa cá nhân và sự suy thoái
trong quan niệm sống trong một phận không nhỏ, cán bộ, đảng viên đang có
chiều hướng gia tăng. Từ đó, nó làm nảy sinh tâm lý sống thực dụng, đề cao
một chiều các giá trị vật chất, thói vụ lợi, vị kỷ, ích kỷ, xem đồng tiền là
thước đo của giá trị. Bên cạnh đó, những mặt trái của nền kinh tế thị trường
cũng đang có những tác động đến đạo đức lối sống trong toàn xã hội. Đặc
biệt, trong giai đoạn hiện nay là tệ quan liêu, tham nhũng, nhũng nhiễu, hách
dịch dân... của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên vì lợi ích cá nhân đã
làm xói mòn niềm tin của dân đối với Đảng, Nhà nước.


13

Hiện nay, nước ta đang đẩy mạnh CNH, HĐH vì mục tiêu "dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" tiến bước vững chắc lên chủ
nghĩa xã hội, Theo quan điểm của Đảng ta những đức tính của con người Việt
Nam cần phải xây dựng, phát triển trong giai đoạn cách mạng mới là, có tinh
thần yêu nước, bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng,
phấn đấu vì độc lập dân tộc, vì Chủ nghĩa xã hội.
Những đức tính đó của con người mới không chỉ nhằm xây dựng nền
tảng tinh thần vững chắc của xã hội mà còn nhằm tạo ra một nguồn lực mạnh
mẽ, bền vững cho công cuộc xây dựng đất nước thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH, hội nhập quốc tế. Vì vậy, để xây dựng đạo đức lối sống của con người
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay chúng ta cần tập trung vào các nội dung
sau:
Một là, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, trên cơ sở đẩy mạnh phát triển sản xuất, kinh doanh, tiếp tục đổi mới hệ
thống chính trị, xây dựng và hoàn thiện chính sách xã hội; đẩy mạnh phát
triển văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ; xây dựng đội ngũ trí
thức; đảm bảo và phát huy quyền con người, quyền công dân.
Hai là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các giá trị mới của con
người Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH, hội nhập quốc tế nhằm thực hiện cuộc
vận động xây dựng con người mới- con người Việt Nam thời kỳ xây dựng
Chủ nghĩa xã hội.
Ba là, cần tập trung cho việc cụ thể hóa những đức tính của con người
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay phù hợp với từng giới, từng ngành, địa
phương, đơn vị, kết hợp sâu sắc giữa giá trị truyền thống tốt đẹp và giá trị mới.


14
Bốn là, kiên quyết đấu tranh chống sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức,
lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương 4 (khóa XI). Đây là đòi hỏi cấp thiết của toàn xã hội đối

với công tác văn hóa trong những năm tới. Đặc biệt, bồi dưỡng các giá trị văn
hóa trong thanh niên, nhất là lý tưởng sống, năng lực trí tuệ, đạo đức.... làm
cho thanh niên trở thành đội hậu bị, cánh tay đắc lực của Đảng.
Xây dựng con người Việt Nam hoàn thiện về nhân cách, lối sống là một
công việc vừa rất cơ bản, chiến lược, vừa rất cấp bách, trong đó, bốn giá trị
lớn là: Lý tưởng sống; Năng lực trí tuệ; Vẻ đẹp đạo đức; Bản lĩnh văn hóa, trở
thành nền tảng nhân cách vững chắc của con người Việt Nam thời kỳ CNH,
HĐH và hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh có nhiều tác động phức tạp hiện
nay, truyền thống và bản lĩnh văn hoá dân tộc Việt Nam là nền tảng vững
chắc để xây dựng và vun đắp những giá trị truyền thống tốt đẹp trong đời
sống xã hội. Thiết nghĩ, để làm được điều đó cần phải có sự đồng thuận trong
nhận thức và hành động của mỗi cá nhân và cộng đồng xã hội./.
1.1.3. Giáo dục đạo đức, lối sống
Ngày nay, giáo dục đạo đức cho học sinh THPT là giáo dục lòng trung
thành với Đảng, hiếu với dân, yêu quê hương đất nước, có lòng vị tha nhân ái,
cần cù liêm khiết và chính trực. Đó là đạo đức XHCN, là đạo đức của cá
nhân, tập thể và chủ nghĩa nhân đạo mang tính chân thực tích cực, khác với
đạo đức vị kỷ, cá nhân. Giáo dục đạo đức lối sống cho học sinh gắn chặt với
giáo dục tu tưởng, chính trị, giáo dục truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc,
giáo dục pháp luật nhà nước XHCN, cung cấp cho học sinh những phương
thức ứng xử đúng trước vấn đề của xã hội. Từ đó giúp các em có khả năng tự
kiểm soát được hành vi của bản thân một cách tự giác, có khả năng chống lại
những biểu hiện lệch lạc về lối sống.


15
Đạo đức là một bộ phận quan trọng trong nhân cách là sản phẩm không
tự nhiên có, đòi hỏi phải có một quá trình sư phạm, trong đó dưới sự tác động
của nhà giáo nhằm hình thành và phát triển ở học sinh ý thức đạo đức, tình
cảm đạo đạo đức, hành vi và thói quen đạo đức, nhờ đó mà tạo ra các phẩm

chất đạo đức ở học sinh.
Mục đích của quá trình giáo dục đạo đức ở nhà trường Phổ thông là
hình thành ở học sinh những phẩm chất đạo đức, lối sống cao đẹp, góp phần
hình thành con người mới, đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH đất nước.
Để hình thành ý thức đạo đức, nhà giáo dục phải làm cho học sinh nắm
được:
+ Những nguyên tắc đạo đức XHCN trong mối quan hệ với truyền
thống đạo đức dân tộc.
+ Hệ thống các chuẩn mực đạo đức liên quan đến học sinh làm cơ sở
cho những hành vi ứng xử trong cuộc sống.
Đây chính là những tri thức cân thiết mà học sinh cần được trang bị đủ
trình độ ứng xử trong cuộc sống hàng ngày, nhưng chỉ có ý thức đạo đức thôi
thì chưa đủ, ý thức đó phải trở thành nhân tố bên trong thôi thúc con người
thực hiện những hành vi đạo đức một cách tự nguyện, tự giác. Đó chính là
tình cảm đạo đức cao đẹp sẵn sàng thực hiện những hành vi đạo đức, nhưng
quan trọng hơn là biết phê phán, lên án và đấu tranh trước những hành vi phi
đạo đức, phản văn hóa. Giáo dục tình cảm đạo đức là một yếu tố quan trọng
trong quá trình giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh. Không có tình cảm
đạo đức thì con người trở nên vô cảm trước cái ác, thờ ơ trước cái thiện, trở
thành những kẻ bất lương vô đạo đức.
Từ ý thức đạo đức và tình cảm đạo đức con người thể hiện bằng những
hành vi cụ thể và đây chính là hành vi đạo đức, có tính ổn định được rèn
luyện nhiều sẽ trở thành thói quen hàng ngày. Mục đích cao nhất của giáo dục


16
đạo đức, lối sống chính là hình thành ở học sinh thói quen, hành vi đạo đức
tiến bộ trong cuộc sống.
Giáo dục đạo đức, lối sống không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ những
tri thức đạo đức, mà quan trọng hơn là kết quả giáo dục phải được thể hiện

thành tình cảm, niềm tin, hành động thực tế của học sinh. Quá trình dạy học
chủ yếu được tiến hành bằng các giờ học trên lớp, còn quá trình giáo dục đạo
đức, lối sống không chỉ bó hẹp trong giờ lên lớp mà nó còn được thể hiện
thông qua tất cả các hoạt động trong nhà trường.
Để giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh có hiệu quả, yếu tố tập thể
giữ vai trò hết sức quan trọng, công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho học
sinh chỉ đạt kết quả tốt khi nó có sự tác động đồng thời của các lực lượng giáo
dục như : Nhà trường, gia đình và xã hội.
Trước hết, các giá trị cần được lựa chọn để định hướng cho học sinh
THPT phải đáp ứng được mục tiêu giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ, phục vụ đất
nước, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ do cuộc sống đặt ra. Muốn thực hiện điều
đó, giáo dục lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội giữ vai trò quyết
định, nó là nền tảng điều chỉnh hành vi của học sinh, xác định thái độ lựa
chọn và ứng xử trước những biến động to lớn của cơ chế thị trường đặt ra.
Bêm cạnh đó, khi tiến hành giáo dục lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, chúng ta không thể tách rời khỏi việc giáo dục thế giới quan
cách mạng và nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa cho học sinh. Tuy nhiên, thế
giới quan và nhất là nhân sinh quan giai đoạn cách mạng hiện nay đã được bổ
sung nhiều nhân tố mới do chính cuộc sống mang lại.
Công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh THPT trong giai đoạn
hiện nay còn phải giúp học sinh có ý thức cộng đồng, tinh thần khoan dung,
mình vì mọi người, chống chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, bảo vệ môi trường sống.
Tinh thần khoan dung và ý thức cộng đồng là kết tinh của các giá trị truyền


17
thống, nó được hình thành trong lịch sử chống giặc ngoại xâm và dựng nước
của dân tộc, tinh thần ấy tạo nên sức mạnh bên trong của con người Việt nam.
Nhà nước cần chú trọng đến những phẩm chất đạo đức để giáo dục cho các
em nhằm nâng cao đạo đức cách mạng, lối sống lành mạnh và có nhân cách

cao đẹp. Đó là những phẩm chất đạo đức về tình yêu thương con người vượt
khó, cần cù, biết giúp đỡ nhau, có ý chí tiến thủ, yêu thầy, mến bạn và trung
thành và trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, pháp luật của Nhà
nước. Cần tạo ra một phong trào thi đua sôi nội về sự phấn đấu, tu dưỡng, rèn
luyện tư cách đạo đức và tự giác trong học tập. Biểu hiện sinh động, cụ thể là
bằng nhiều hình thức giáo dục cho học sinh ý thức tập thể, phong trào “Uống
nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”, phụng dưỡng những người có công
với cách mạng, các bà mẹ Việt nam anh hùng, bảo vệ của công, giữ vũng kỷ
cương, nội quy, quy chế của trường, lớp cũng như nơi cư trú.
Trước sự tác động của khoa học, công nghệ đang làm cho đời sống
kinh tế-xã hội có những biến chuyển mau lẹ. Để có thể thích nghi với hoàn
cảnh đó, đòi hỏi học sinh luân có tinh thần tự chủ, nhảy bén, chấp nhận hi
sinh, dám đương đầu và khẳng định mình. Vì thế, một trí tuệ, ý chí mạnh mẽ
chủ động trong công việc là những phẩm chất của thanh niên, học sinh, phải
coi đó là những điều kiện để sau khi ra trường, các em có thể hoàn thành
nhiệm vụ do cuộc sống đặt ra. Đây có thể được xem là nét đạo đức khác biệt
hơn so với các giá trị đạo đức truyền thống.
Từ những yếu tố trên có thể khái quát nội dung giáo dục đạo đức cho
học sinh THPT theo Nghị quyết Đại hội Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh toàn quốc lần thứ X như sau:
- Tiếp tục đổi mới phương thức, nâng cao hiệu quả công tác tuyên
truyền, giáo dục về tư tưởng, học tập chủ Nghĩa Mác-lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quán triệt chủ trương, đường lối và các nghị quyết của Đảng, của


18
Đoàn; triển khai có hiệu quả Đề án “ Tăng cường công tác giáo dục lý tưởng
cách mạng, đạo đức, lối sống cho thanh thiếu nhi”.
- Chú trọng tuyên truyền, giáo dục về truyền thống yêu nước, đoàn kết,
cần cù, sáng tạo và khát vọng vươn lên trong mọi hoàn cảnh, bồi dưỡng, xây

dựng lớp thanh niên có bản lĩnh, tự tin đảm nhận vai trò chủ nhân tương lai
của đất nước. Giáo dục truyền thống vẻ vang của Đảng, của dân tộc, của
Đoàn, ý thức giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa, truyền thống của quê hương,
gia đình, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa vắn hóa nhân loại; đấu tranh với các
biểu hiện, hành vi đi ngược với truyền thống dân tộc.
- Chủ động phối hợp với nhà trường, gia đình và xã hội trong giáo dục
đạo đức, lối sống cho thanh thiếu nhi; làm cho thế hệ trẻ hôm nay biết yêu
cuộc sống, giàu lòng nhân ái, kế thừa và phát huy những giá trị nhân văn của
dân tộc, ứng xử văn minh, thanh lịch, nghĩa tình; triển khai có hiệu quả
chương trình giáo dục ý thức công dân .
- Tăng cường bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho thanh thiếu niên, xây
dựng thói quen “Sống và làm việc theo pháp luật”. Tăng cường đấu tranh
phòng, chống vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội; quan tâm, gần gũi, động
viên, cảm hóa, giáo dục thanh thiếu niên chậm tiến. Tăng cường tuyên truyền,
phổ biến kiến thức quốc phòng, an ninh, nâng cao trách nhiệm ý thức bảo vệ
chủ quyền đất nước, lợi ích quốc gia, dân tộc.
- Kiên trì phương châm giáo dục thông qua các phong trào hành động
cách mạng, quam điển hình tiên tiến, khuyến khích ý thức tựu rèn luyện của
thanh niên gắn với tham gia sinh hoạt trong tổ chức Đoàn.
- Phát huy ưu thế của các phương tiện truyền thông hiện đại, đa phương
tiện, hệ thống báo chí, xuất bản của Đoàn và báo chí chính thống của Đảng,
Nhà nước trong công tác giáo dục; sử dụng có hiệu quả các hình thức, công
cụ giáo dục mới như Internet, mạng xã.


19
- Khai thác có hiệu quả các nguồn lực xã hội trong công tác giáo dục
thanh thiếu nhi; thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội
ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên, duy trì và phát triển đội ngũ cộng tác
viên trong công tác giáo dục của Đoàn. [21; tr.35,36].

Giáo dục đạo đức là nhiệm vụ bao trùm và xuyên suốt toàn bộ quá trình
hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh, là vấn đề của mọi vấn đề
trong chiến lược giáo dục – đào tạo vì sự nghiệp phát triển của con người và
sự phát triển của xã hội.
1.2. Nội dung giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh THPT hiện nay
Để làm tốt vai trò giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh thực sự là
người làm chủ và quyết định vận mệnh quốc gia trong tương lai, trước thế hệ
trẻ phải có tình yêu đất nước nồng nàn. Hơn ai hết, các em phải ý thức được
một cách sâu sắc vai trò, trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đối Tổ quốc, với
nhân dân. Là những người đang ở độ tuổi ước mơ, hoài bão nhiệt huyết nhất,
nhiệm vụ của học sinh không chỉ là học tập, rèn luyện mà còn phải biết cống
hiến và hy sinh. Bác đã ân cần chỉ bảo: "Nhiệm vụ của thanh niên không phải
là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho
nước nhà! Mình phải làm thế nào cho ích nước lợi nhà nhiều hơn? Mình đã vì
lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào…"[24; tr 40,41]. Lời nói của
Bác tuy giản dị mà thật sâu sắc biết bao. Ngày nay còn nhiều bạn trẻ đang mải
mê theo đuổi những giá trị vật chất thấp kém, tầm thường mà quên đi trách
nhiệm, nghĩa vụ lớn lao của mình đối với Tổ quốc. Thói quen đua đòi, hưởng
lạc, chạy theo những thói hư tật xấu, những tệ nạn xã hội đang làm hư hỏng
không ít một bộ phận thanh thiếu niên trong cuộc sống hôm nay. Một bộ phận
đang sa vào một cuộc sống thiếu lý tưởng, không có niềm tin, không có sự
định hướng một cách đúng đắn. Không có lý tưởng cao cả để phấn đấu, cuộc
sống con người sẽ trở nên tẻ nhạt, tầm thường, thậm chí vô nghĩa. Bên cạnh
đó, còn có không ít những bạn trẻ không giữ được lập trường tư tưởng vững


20
vàng, bị ảnh hưởng bởi những vật chất tầm thường mà có tư tưởng phản động,
quay lưng lại với lịch sử, quay lưng lại với dân tộc.
Giáo dục đạo đức lối sống cho học sinh cần tập trung vào những nội

dung sau:
- Giáo dục tình yêu nước, yêu quê hương nồng nàn, giáo dục lý tưởng
độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội.
- Giáo dục ý thức cộng đồng, tinh thần khoan dung, mình vì mọi người,
chống chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, bảo vệ môi trường sống.
- Giáo dục ý thức tập thể, truyền thống uống nước nhớ nguồn, đền ơn
đáp nghĩa, phụng dưỡng những người có công với cách mạng.
- Giáo dục tinh thần đoàn kết dân tộc, tính trung thực, lối sống giản dị
trong sáng, tinh thần tương thân tương ái, đoàn kết chân tình không vụ lợi,
biết hi sinh cho cộng đồng, cho tập thể.
- Giáo dục tính tự tin biết vươn lên trong học tập và công tác. Ngoài ra
cũng cần giáo dục tinh thần quốc tế vô sản, không hẹp hòi ích kỷ, không bè
phái, không chia rẽ dân tộc gây mất đoàn kết. Bên cạnh đó các nhà trường
cũng cần tập trung giáo dục đạo đức lối sống cho học sinh đó là sống chan
hòa với mọi người, luôn có tinh thần thái độ giúp đỡ cho người khác. Sống
thật thà, sống lành mạnh và sống trung thực để phù hợp với các chuẩn mực
đạo đức xã hội, thuần phong mỹ tục của đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng
và chuẩn mực đạo đức xã hội nước ta nói chung.
1.2.1. Công tác giáo dục đạo đức và lối sống cần phù hợp với đặc
điểm tâm sinh lý của học sinh trung học phổ thông
Học sinh THPT còn gọi là tuổi thanh niên, là giai đoạn phát triển bắt
đầu từ lúc dậy thì và kết thúc khi bước vào tuổi người lớn. Tuổi thanh niên
được tính từ 15 đến 25 tuổi, được chia làm 2 thời kì và có một số đặc điểm
tâm sinh lý cần chú ý sâu :
+ Thời kì từ 15-18 tuổi: gọi là tuổi đầu thanh niên.


21
+ Thời kì từ 18-25 tuổi: giai đoạn hai của tuổi thanh niên (thanh niên
sinh viên).

Tuổi thanh niên cũng thể hiện tính chất phức tạp và nhiều mặt của hiện
tượng, nó được giới hạn ở hai mặt: sinh lí và tâm lý. Đây là vấn đề khó khăn
và phức tạp vì không phải lúc nào nhịp điệu và các giai đoạn của sự phát triển
tâm sinh lý cũng trùng hợp với các thời kỳ trưởng thành về mặt xã hội. Có
nghĩa là sự trưởng thành về mặt thể chất, nhân cách trí tuệ, năng lực lao động
sẽ không trùng hợp với thời gian phát triển của lứa tuổi. Chính vì vậy mà các
nhà tâm lý học Macxit cho rằng: Khi nghiên cứu tuổi thanh nên thì cần phải
kết hợp với quan điểm của tâm lý học xã hội và phải tính đến quy luật bên
trong của sự phát triển lứa tuổi. Do sự phát triển của xã hội nên sự phát triển
của trẻ em ngày càng có sự gia tốc, trẻ em lớn nhanh hơn và sự tăng trưởng
đầy đủ diễn ra sớm hơn so với các thế hệ trước, nên tuổi dậy thì bắt đầu và kết
thúc sớm hơn khoảng 2 năm. Vì vậy, tuổi thanh niên cũng bắt đầu sớm hơn.
Nhưng việc phát triển tâm lý của tuổi thanh niên không chỉ phụ thuộc vào giới
hạn lứa tuổi, mà trước hết là do điều kiện xã hội (vị trí của thanh niên trong xã
hội; khối lượng tri thức, kỹ năng kỹ xảo mà họ nắm được và một loạt nhân tố
khác…) có ảnh hưởng đến sự phát triển lứa tuổi. Trong thời đại ngày nay,
hoạt động lao động và xã hội ngày càng phức tạp, thời gian học tập của các
em kéo dài làm cho sự trưởng thành thực sự về mặt xã hội càng đến chậm. Do
đó có sự kéo dài của thời kì tuổi thanh niên và giới hạn lứa tuổi mang tính
không xác định (ở mặt này các em được coi là người lớn, nhưng mặt khác thì
lại không). Điều đó cho ta thấy rằng thanh niên là một hiện tượng tâm lý xã
hội.
Tuổi học sinh THPT là thời kì đạt được sự trưởng thành về mặt cơ thể.
Sự phát triển thể chất đã bước vào thời kì phát triển bình thường, hài hòa, cân
đối. Cơ thể của các em đã đạt tới mức phát triển của người trưởng thành,
nhưng sự phát triển của các em còn kém so với người lớn. Các em có thể làm


×