Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Vận dựng tư tưởng hồ chí minh về dân vận vào công tác vận động phụ nữ tỉnh nghệ an trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.51 KB, 102 trang )

Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o
trêng §¹i häc Vinh

LÊ THỊ THANH HẢI

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
DÂN VẬN VÀO CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ
TỈNH NGHỆ AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Nghệ An, 2015


2

Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o
trêng §¹i häc Vinh

LÊ THỊ THANH HẢI

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
DÂN VẬN VÀO CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ
TỈNH NGHỆ AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC
M· sè: 60310201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học:
TS. VŨ THỊ PHƯƠNG LÊ



Nghệ An, 2015


3

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ tình cảm chân thành và lòng
biết ơn sâu sắc đến các thầy cô khoa Giáo dục chính trị, Khoa sau đại học, Hội
đồng khoa học của trường Đại học Vinh; xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Hội
LHPN tỉnh Nghệ An, các ban chuyên môn, đồng chí đồng nghiệp đã giúp đỡ
nhiệt tình để tôi hoàn thành luận văn này.
Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ này là kết quả của quá trình học tập và
nghiên cứu khoa học tại khoa Giáo dục chính trị trường Đại học Vinh. Luận văn
không thể hoàn thành nếu không có sự quan tâm, động viên và cung cấp tài liệu
của các thầy cô, bạn bè cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình của TS. Vũ Thị
Phương Lê người hướng dẫn khoa học đã bỏ ra nhiều công sức để tôi viết và
hoàn thiện luận văn.
Dù đã rất cố gắng và nỗ lực cao, nhưng luận văn chắc chắn không thể
tránh khỏi những thiếu sót, kính mong các nhà giáo, nhà khoa học giúp đỡ, góp
ý để đề tài luận văn được hoàn thiện hơn.
Nghệ An, tháng 9 năm 2015


4

MỤC LỤC
Trang phụ bìa.....................................................................................................01
Lời cảm ơn.........................................................................................................02
Mục lục..............................................................................................................03



5

CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Kí hiệu viết tắt
HĐND
UBND
CBCC
LHPN
UBMTTQ
VSTBPN
KHHGĐ

Nghĩa của từ viết tắt
Hội đồng nhân dân
Ủy ban nhân dân
Cán bộ công chức
Liên hiệp phụ nữ
Ủy ban mặt trận tổ quốc
Vì sự tiến bộ phụ nữ
Kê hoạch hóa gia đình


6

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
cách mạng Việt Nam, trong đó tư tưởng về dân vận là một bộ phận hết sức quan

trọng trong toàn bộ di sản vô giá mà Người để lại cho Đảng và nhân dân ta.
Trên nền tảng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp thu có
chọn lọc tinh hoa văn hóa chính trị của dân tộc về vị trí của nhân dân trong tiến
trình lịch sử “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân” hơn ai hết, Hồ
Chí Minh sớm nhận thức rõ vai trò của công tác dân vận: “Dễ trăm lần không
dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Đặc biệt, Người đã thấy rõ vị
trí, vai trò và tầm quan trọng của phụ nữ ngay từ buổi đầu hoạt động cách mạng,
nên Người rất coi trọng công tác vận động phụ nữ, xem đó là khâu quan trọng
của phong trào cách mạng quần chúng. Trình độ chính trị, văn hoá, điều kiện
sống của phụ nữ phản ánh trình độ văn minh của xã hội.
Giữ vững và phát huy vai trò nòng cốt trong công tác phụ nữ, trong suốt
quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam đã không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động,
đoàn kết, động viên các tầng lớp phụ nữ nỗ lực phấn đấu, trưởng thành; thông
qua phát động các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động để phát huy
phẩm chất tốt đẹp, khả năng sáng tạo, nâng cao vai trò phụ nữ trong việc góp
phần thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên
trước xu thế toàn cầu hóa và yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước đã và đang đặt ra cơ hội cùng những thách thức mới đối với phụ
nữ.
Chính vì vậy tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận nói chung và
công tác vận động phụ nữ nói riêng là vấn đề nhiều cơ quan, tổ chức và nhiều
nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.


7

Bàn về tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận đã có nhiều công
trình nghiên cứu được công bố, trong đó có các công trình tiêu biểu sau:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận của TS. Đỗ Quang Tuấn, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- Khái niệm, nguồn gốc và quá trình hình thành tư tưởng của Hồ Chí
Minh về dân vận của PGS.TS Nguyễn Bá Linh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2005.
- Phong cách dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh của TS. Thanh Tuyền,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- Đề tài “Thực trạng công tác vận động quần chúng và những chủ
trương, giải pháp đổi mới công tác vận động quần chúng theo tinh thần Nghị
quyết Đại hội X của Đảng” của Trung tâm nghiên cứu khoa học dân vận, Ban
dân vận Trung ương.
Các tài liệu đã làm rõ cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận;
tập trung đánh giá những thành tựu, hạn chế và những nguyên nhân; từ đó đề
xuất một số chủ trương, giải pháp đổi mới công tác vận động quần chúng trong
giai đoạn hiện nay.
Bàn về công tác vận động phụ nữ có các công trình tiêu biểu sau:
- Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giải phóng phụ nữ, Nxb Thông tấn,
HN, 2005;
- Quan điểm của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh về phụ nữ và
công tác phụ nữ (Nxb Phụ nữ, 2012).
- Luận văn: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ và
hoạt động thực tiễn của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”,
người thực hiện: Đào Tố Uyên, năm bảo vệ: 2003.
- Luận văn: “Trung ương Hội LHPN Việt Nam xây dựng đội ngũ cán bộ
hội thời kỳ đổi mới”, người thực hiện: Hoàng Thị Hương Nhung, năm bảo vệ:
2009.


8

Những công trình trên tập trung nghiên cứu về quan điểm của Đảng và Nhà

nước về công tác vận động phụ nữ và khai thác góc độ tư tưởng Hồ Chí Minh về
giải phóng phụ nữ, xây dựng đội ngũ cán bộ Hội. Các nghiên cứu chưa đi sâu vào
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và vận dụng vào công tác vận động
phụ nữ trong giai đoạn hiện nay trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
Ngoài ra, còn có một số bài viết liên quan đến vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân vận và công tác vận động phụ nữ trong giai đoạn hiện nay như:
- Lê Xuân Nam (2003), Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
dân vận để thực hiện thắng lợi nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ bảy
(khóa IX), Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6/2003;
- Vũ Ngọc Lân (2005), Quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo tiến hành công
tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Dân vận, số 10/2005;
- Nguyễn Thanh Tuyền (2005), Phương pháp dân vận của Chủ tịch Hồ
Chí Minh qua bài báo “Dân vận” - ý nghĩa thực tiễn, Tạp chí Dân vận,
10/2005 ;
- Hà Thị Khiết (2012), Củng cố, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng, nhà nước với nhân dân - nhiệm vụ trọng tâm của công tác dân vận của
Đảng trong thời kỳ mới, Tạp chí Cộng sản, số 831 tháng 1/2012 v.v...
Các công trình nghiên cứu trên đây là nguồn tài liệu quý giá cho việc
nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận trong bối
cảnh hiện nay. Nhưng phần lớn các công trình trên hoặc là những ý kiến
trong các bài viết ngắn, hay chỉ là kỷ yếu tập hợp những ý kiến đánh giá,
nhìn nhận tư tưởng dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau về công tác dân vận
trong giai đoạn hiện nay.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu của tập thể và cá nhân nêu trên đã
làm sáng tỏ lý luận và một số nội dung cụ thể của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
vận. Song chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống tư tưởng Hồ
Chi Minh về dân vận và công tác vận động phụ nữ.


9


Tuy nhiên, những công trình này là những tài liệu quý báu để tôi tham
khảo, kế thừa nhằm nghiên cứu, trình bày một cách tương đối hệ thống tư tưởng
Hồ Chí Minh về dân vận và vận dụng tư tưởng đó vào công tác vận động phụ nữ
tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
Nghệ An là tỉnh có diện tích lớn thứ 2 cả nước, với địa hình phức tạp và
có 6 dân tộc anh em sinh sống, tỷ lệ nữ chiếm hơn 51% số người trong độ tuổi
lao động. Trong thời kỳ đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, Hội Liên hiệp
phụ nữ, phong trào phụ nữ Nghệ An nói chung đã đạt nhiều thành tựu to lớn
thông qua những đóng góp của họ vào các lĩnh vực của địa phương.
Tuy vậy, trước yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và hội nhập kinh tế quốc tế, tình hình phụ nữ và công tác phụ nữ còn nhiều
mặt hạn chế, như: trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ thuật của một bộ phận phụ
nữ chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; số phụ nữ
nông thôn thiếu việc làm, di cư tự phát ra thành phố ngày càng tăng. Ở miền núi,
vùng sâu, vùng xa, tỷ lệ phụ nữ mù chữ, nghèo còn cao, còn bị ràng buộc bởi
phong tục, tập quán lạc hậu. Bên cạnh đó cơ chế thị trường và quá trình công
nghiệp hóa một mặt có tác động tích cực, nhưng mặt khác đã và đang làm nảy
sinh nhiều vấn đề xã hội liên quan trực tiếp tới phụ nữ. Phụ nữ gặp nhiều khó
khăn, thách thức khi thực hiện vai trò người mẹ, người thầy đầu tiên của con
người trong điều kiện xã hội và gia đình Việt Nam có nhiều thay đổi. Phẩm chất
đạo đức và một số giá trị truyền thống tốt đẹp có phần bị mai một, lối sống thực
dụng có xu hướng phát triển trong một bộ phận phụ nữ. Chất lượng phong trào
phụ nữ không đồng đều giữa các vùng miền; tỷ lệ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý
trong các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp còn thấp, chưa tương xứng với tiềm
năng, thế mạnh của phụ nữ; nội dung, phương thức hoạt động của Hội, nhất là
các cơ sở vùng sâu, vùng xa, miền núi, dân tộc chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu
của công tác phụ nữ trong tình hình mới và nhu cầu ngày càng đa dạng của các
tầng lớp phụ nữ...có nhiều nguyên nhân, song một trong những nguyên nhân chủ



10

quan là công tác định hướng lãnh đạo, chính sách, phương pháp công tác vận
động phụ nữ còn thiếu cụ thể, chưa sát hợp với từng đối tượng, khu vực, vùng,
miền, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu mới. Chưa vận dụng, tiếp thu đúng mức
thành tựu lý luận quan trọng của chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt chưa vận dụng
một cách triệt để, chưa tuyên truyền một cách rộng rãi tư tưởng Hồ Chí Minh về
công tác vận động phụ nữ, nên sự phát triển của phụ nữ chưa được toàn diện và
đầy đủ.
Là cán bộ đang trực tiếp làm việc tại Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh, tôi thấy
cần thiết phải đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu lý luận, công tác vận động
phụ nữ góp phần khẳng định và tìm ra những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy
vai trò phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là nhiệm vụ vừa
cơ bản, lâu dài, vừa có ý nghĩa thời sự cấp bách.
Với thực tế trên, tôi chọn đề tài: "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân vận vào công tác vận động phụ nữ tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện
nay" để làm luận văn cao học chuyên ngành Chính trị học.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích, làm sáng tỏ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về công
tác dân vận, đánh giá thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác
vận động phụ nữ, luận văn đề xuất các giải pháp để làm tốt công tác vận động
phụ nữ trong giai đoạn hiện nay trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích, làm sáng tỏ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và
tầm quan trọng của công tác vận động phụ nữ.
- Phân tích thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận vào
công tác vận động phụ nữ tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay, rút ra những
nguyên nhân, bài học kinh nghiệm.



11

- Đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm nâng hiệu quả vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về dân vận vào công tác vận động phụ nữ tỉnh Nghệ An trong giai
đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và việc vận dụng tư tưởng
đó vào công tác vận động phụ nữ ở tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu, khảo sát thực trạng vận dung tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân vận vào công tác vận động phụ nữ trên địa bàn tỉnh Nghệ An trên một số lĩnh
vực cơ bản trong giai đoạn 2006 - 2015, định hướng giải pháp đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Một số phương pháp khác như: phương pháp logic - lịch sử; phương pháp
phân tích, tổng hợp, …
6. Đóng góp của luận văn
Đề tài là tài liệu sẽ giúp cán bộ làm công tác Hội LHPN tỉnh Nghệ An
nhận thức rõ hơn thực trạng, nguyên nhân và có thêm các bài học kinh nghiệm,
vận dụng các giải pháp phù hợp với từng đối tượng, địa bàn khác nhau, để làm
tốt hơn công tác vận động phụ nữ trên địa bàn tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện
nay.
Báo cáo khoa học của luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho sinh viên
chuyên ngành chính trị, những người làm công tác dân vận, công tác vận động
phụ nữ và những ai quan tâm, tìm hiểu vấn đề này.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội

dung của luận văn được kết cấu thành 03 chương, 7 tiết.


12

B. NỘI DUNG
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN VẬN VÀ
TẦM QUAN TRỌNG CỦA CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ
1.1.

Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận

1.1.1. Khái niệm dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận chủ yếu của sự hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh nói chung, trong đó có tư tưởng dân vận. Hồ Chí Minh là nhà yêu nước
Việt Nam đầu tiên đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Người coi chủ nghĩa Mác - Lênin
không những là cái “cẩm nang thần kỳ", mà còn là "kim chỉ nam" và "là mặt trời soi
sáng con đường chúng ta đi tới mục đích cuối cùng", đó là chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản.
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ các Đảng Cộng sản đều
phải làm công tác vận động nhân dân. Đó là một công tác lâu dài và phải kiên trì thực
hiện. Giai cấp công nhân phải làm công tác dân vận để giành lấy sự đồng tình, sự ủng
hộ của đa số nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh cách mạng của mình; và phải
nhận thức rằng, mỗi thời kỳ cách mạng khác nhau phải có những hình thức, nội dung
công tác dân vận khác nhau.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, muốn thắng lợi, các cuộc cách mạng xã hội không
phải do những cá nhân, những nhóm người nhỏ bé cầm đầu, những quần chúng không
tự giác tiến hành, mà phải do các chính đảng có lý luận tiên phong của các giai cấp
lãnh đạo; các đảng đó phải biết thuyết phục, giác ngộ và tập hợp đông đảo quần

chúng, huấn luyện quần chúng dám xả thân đấu tranh.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ rằng; sức mạnh của quần chúng nhân dân là vô
địch; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Tuy nhiên, quần chúng nhân dân chỉ có
thể phát huy được sức mạnh của mình khi họ được tổ chức lại.


13

Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Mục đích
trước mắt của những người cộng sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các đảng
vô sản khác: tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai
cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền” [28, tr.615].
Phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin khẳng định rằng:
“1) Không một phong trào cách mạng nào mà lại vững chắc được nếu không có
một tổ chức ổn định và duy trì được tính liên tục gồm những người lãnh đạo; 2) Càng
có đông đảo quần chúng được thu hút tự phát vào cuộc đấu tranh, tạo thành cơ sở cho
phong trào và tham gia phong trào, thì càng cấp thiết phải có một tổ chức như thế và tổ
chức ấy lại càng phải vững chắc (nếu không thì bọn mị dân sẽ dễ lôi cuốn được những
tầng lớp lạc hậu trong quần chúng); một tổ chức như thế thì chủ yếu phải gồm những
người lấy hoạt động cách mạng làm nghề nghiệp của mình” [27, tr.158-159].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận là sự phát triển sáng tạo luận điểm “Cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng” của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin
vào giải quyết những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam và đã đưa cách mạng
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, dân vận là hoạt động vận động, giác ngộ quần
chúng nhân dân làm cho dân hiểu, dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, dân quyết định
trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ cách mạng do Đảng ta lãnh đạo. Hồ Chí Minh
thường dùng thuật ngữ “Công tác quần chúng” và “dân vận” để chỉ một lĩnh vực công
tác của Đảng. Khái niệm dân vận có nhiều cách giải thích khác nhau và cho đến nay
vẫn chưa có cách giải thích nào súc tích, dễ hiểu, độc đáo như của Chủ tịch Hồ Chí

Minh trong bài “Dân vận”.
Người viết: dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không
để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công
việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể giao cho. Dân vận không thể
chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ. Trước


14

nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi
ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được.
Điểm thứ hai là bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh
nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương,
rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành. Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp
đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân. Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo lại
công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng [34 tr.698-699].
Như vậy, công tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phải có đường lối, chủ
trương, chính sách đúng đắn, kịp thời; phải làm cho người dân hiểu rõ chủ trương,
chính sách và việc thực hiện chủ trương, chính sách sẽ đưa lại lợi ích cho nhân dân và
do nhân dân thực hiện, không ai làm thay dân được. Đồng thời phải sâu sát nhân dân,
sâu sát cơ sở, bàn bạc với dân, với cơ sở về kế hoạch thực hiện chủ trương, chính sách
cho phù hợp với hoàn cảnh của từng địa phương, từng cơ sở, phù hợp với khả năng
của nhân dân và phải hướng dẫn nhân dân thực hiện chủ trương, chính sách. Trong và
sau khi thực hiện cần phải theo dõi, đôn đốc kiểm tra, rút kinh nghiệm để bổ sung, uốn
nắn những thiếu sót, lệch lạc, sai lầm và khen thưởng, phê bình kịp thời.
1.1.2.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của công tác dân vận

Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam,

ông cha ta luôn biết dựa vào dân, phát huy lực lượng to lớn của toàn dân để tiến hành
cuộc đấu tranh chống thiên tai và chống giặc ngoại xâm. Bài học “Nước lấy dân làm
gốc” đã được áp dụng trong nhiều thời kỳ, tạo nên sức mạnh để dân ta trường tồn,
chấn hưng nền văn hoá dân tộc và chiến thắng kẻ thù mạnh hơn ta gấp bội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rất rõ sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân
khi được tổ chức, lãnh đạo; vì vậy, luôn coi công tác vận động nhân dân là công tác
hết sức quan trọng, có tính chiến lược quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn đạt chân lý ấy bằng những lời giản dị. Bác nói: “Trong
bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng
đoàn kết của nhân dân” [37, tr.276];


15

Người coi dân là chủ xã hội, là gốc của nước, mọi quyền hành và lực
lượng đều phải ở nơi dân. Người luôn luôn tin ở nhân dân và đánh giá đúng vai
trò của nhân dân. Người nói: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng chứ
không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào. Thành công của Đảng ta là ở
nơi Đảng ta đã tổ chức và phát huy lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân”
[39, tr.197]; “Kinh nghiệm trong nước và các nước cho chúng ta biết: có lực
lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì
việc gì làm cũng không xong” [34, tr.295]. Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn xem công
tác dân vận là nhiệm vụ cốt yếu của Đảng và của cả hệ thống chính trị. Theo
Người, muốn làm cách mạng thành công thì phải làm tốt công tác dân vận.
Tác phẩm “dân vận” đăng trên báo Sự thật ngày 15 tháng 10 năm 1949 thể hiện
rất rõ nét sự quan tâm đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác vận động nhân
dân trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong bài viết này,
Hồ Chí Minh nêu lên những quan điểm, tư tưởng, phương châm, nội dung và mục tiêu
công tác vận động nhân dân rất sâu sắc, có tính chỉ đạo chiến lược và có thể xem đây
là một cương lĩnh trong công tác dân vận.

Trước hết, Người khẳng định vai trò cực kỳ to lớn, quan trọng của nhân dân đối
với sự nghiệp cách mạng nước ta. Người viết: “quyền hành và lực lượng đều nơi dân”
[34, tr.698].
Sau đó, Người chỉ rõ thế nào là công tác dân vận và chỉ rõ tầm quan trọng của
công tác này. Người viết: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người
dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân...” [34, tr.698] là
làm cho dân được làm chủ, được hưởng quyền dân chủ. Người còn khẳng định: “Lực
lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém.
Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công” [34, tr.700]. Như vậy, theo Hồ Chí Minh,
công tác dân vận có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong cách mạng; quyết định
thành công hay thất bại của cách mạng.


16

1.1.3.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương thức cơ bản công tác dân
vận

Trên cơ sở nhận thức sâu sắc dân là chủ, do đó phương thức cơ bản của công
tác dân vận phải là phương thức dân chủ, không phải là những thủ thuật chính trị. Dân
chủ là tư tưởng xuyên suốt của công tác dân vận. Người đánh giá rất cao về dân
chủ: Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân; thực hành dân chủ là chìa khóa vạn
năng có thể giải quyết mọi khó khăn. Muốn vận động nhân dân thì điểm cơ bản đầu
tiên phải thực hành dân chủ. Dân chủ và dân vận là không tách rời nhau, dân chủ tất
yếu đòi hỏi công tác dân vận phải đi vào chiều sâu, dân vận tốt thì dân chủ càng thuận
lợi, càng được nâng cao một cách có ý thức.
Từ quan niệm tất cả "lực lượng đều ở nơi dân", nhìn thấy và tin tưởng ở sức
mạnh của dân và để nhân dân có điều kiện tham gia trực tiếp vào việc thực hiện mọi

chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Hồ Chí Minh đã đưa ra một quy trình
rất khoa học của công tác dân vận. Quy trình đó như sau:
- Trước hết phải làm cho dân biết: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để phát huy
đầy đủ vai trò, trí tuệ, khả năng to lớn của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp kháng
chiến, kiến quốc, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước cũng như mọi
cán bộ, đảng viên phải biết làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền, hướng dẫn, giúp
đỡ và vận động quần chúng nhân dân thực hiện mọi chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước; phải giúp nhân dân hiểu đầy đủ, sâu sắc về
quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của người công dân đối với Đảng, với Tổ quốc và
với dân tộc, từ đó họ tích cực, chủ động, tự giác phấn đấu và cống hiến cho sự nghiệp
cách mạng. Người dặn: "cần phải chịu khó tìm đủ cách giải thích cho họ hiểu rằng:
những việc đó, là vì lợi ích của họ mà phải làm" [34, tr.246]. Vì rằng "dân chúng đồng
lòng, việc gì cũng làm được" [34, tr.293]. Nước ta là nước dân chủ, dân là chủ và dân
làm chủ. Cho nên "dân biết" tức là quyền được thông tin. Dân chủ "giả" hay dân chủ
"thật" cũng từ khâu này. Vì vậy, trong nội hàm khái niệm "dân biết", "dân hiểu", Hồ
Chí Minh như muốn làm cho mỗi người tự thấy rõ, hiểu thấu ý nghĩa lớn lao của vị thế


17

"là chủ" của người dân, nhất là bà con nông dân, những người vốn có trình độ học vấn
thấp lại chiếm số đông trong xã hội.
- Khi dân được biết, được hiểu thì phải tạo mọi điều kiện cho dân được bàn,
được bàn thật sự, bàn tất cả mọi công việc và mọi người đều được tham gia bàn bạc.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh
nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương"
[34, tr.698-699]; cần hiểu rõ nguyện vọng của dân; họ muốn được tôn trọng, được bày
tỏ ý kiến; họ rất tốt, rất khôn khéo; họ biết rất nhiều điều mà chúng ta không biết, phải
bàn với dân để giải quyết mọi việc.
Phải chăng để phát huy sức mạnh của nhân dân, nâng cao năng suất, chất

lượng, hiệu quả của mọi công việc đều có nguồn gốc từ đây; bởi ở đây, nhân dân đã
phát huy được quyền làm chủ bằng năng lực và sức sáng tạo của mình.
- Khi dân được biết, được hiểu, được bàn bạc công việc chung, họ sẽ tự giác
tham gia thực hiện. Lúc này nhiệm vụ của cán bộ lãnh đạo là động viên và tổ chức
toàn dân ra thi hành. Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích
dân, phải biết "đem hết sức dân, tài dân, của dân làm cho dân" [34, tr.61] có như vậy
mới động viên được đông đảo nhân dân tích cực tham gia thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
- "Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh
nghiệm, phê bình, khen thưởng" [34, tr.699]. Đây là công đoạn cuối cùng của quy
trình tiến hành công tác dân vận. Hồ Chí Minh cho rằng việc kiểm tra, rút kinh nghiệm
là vô cùng quan trọng và cần thiết, giúp chúng ta tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ
khác. Dân kiểm tra cán bộ, cán bộ kiểm tra dân, dân và cán bộ cùng kiểm tra mọi hoạt
động và lề lối làm việc phải dân chủ.
Những lời dạy trên đây của Bác là bài học kinh nghiệm quý báu cho cán bộ,
đảng viên của Đảng, Nhà nước trong công tác dân vận, một công tác quan trọng của
cách mạng.


18

* Cách tổ chức, các làm việc phải phù hợp với quần chúng: Theo Hồ Chí Minh
mọi phương pháp tiếp cận và vận động quần chúng đều phải phù hợp với tâm tư,
nguyện vọng của quần chúng; đồng thời phải xuất phát từ thực tế trình độ dân trí và
văn hoá, theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, bao gồm cả phong tục, tập quán và cụ thể
đối với từng địa phương, từng đối tượng của nhân dân. Thực chất của dân vận là như
vậy. Muốn vận động nhân dân, thì đừng quên rằng chính mình là người dân, chứ
không phải là người đứng trên nhân dân để dìu dắt hay để chỉ huy nhân dân. Dân vận
không phải là bảo ban cho dân làm theo ý mình, mà phải thực sự là dân để cùng hiểu,
rồi cùng làm với dân.

Trong kháng chiến, kiến quốc chúng ta có phong trào ba cùng: cùng ăn, cùng ở,
cùng làm với nhân dân. Thực ra đây là công việc của công tác dân vận. Phải về với
dân, phải biết dân ăn ở thế nào, gặp những khó khăn gì và có những sáng kiến gì để
vượt qua.
Cán bộ lãnh đạo nhân dân phải biết rõ như thế. Cán bộ cũng là người dân,
không khác gì quần chúng cả. Ngay trong cuộc sống dân dã, ta phát hiện được tài
năng, đúc rút được kinh nghiệm, để biến thành chủ trương, kế hoạch làm cho công tác
cách mạng được tiến bộ, có kết quả tốt đẹp. Vậy là phải thành dân, phải là dân mới
làm dân vận được. Từ những phong trào thực tế, chúng ta nắm được tình hình, thu
được nhiều kinh nghiệm và có những sáng kiến mới. Phải làm sao, để cho những
người dân hào hứng, phấn khởi, thực hiện những nhiệm vụ cách mạng một cách nhiệt
tình, tự giác. Người dân thấy mình có thành tích, không phải bị lãnh đạo, mà được
cùng với lãnh đạo làm nên những thành quả cách mạng lớn lao. Hồ Chí Minh nói:
"cách làm việc, cách tổ chức, nói chuyện, tuyên truyền, khẩu hiệu, viết báo v.v... của
chúng ta, đều phải lấy câu này làm khuôn phép: "Từ trong quần chúng ra. Về sâu
trong quần chúng" [34, tr.248].
Hồ Chí Minh đòi hỏi người lãnh đạo cần "hết sức tránh bệnh quan liêu, bệnh
mệnh lệnh" [35, tr.129]. Người còn khẳng định: “Bất cứ việc to việc nhỏ, chúng ta
phải xét rõ và làm cho hợp trình độ văn hoá, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ,


19

kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng. Do đó
mà định cách làm việc, cách tổ chức. Có như thế, mới có thể kéo được quần chúng.
Nếu không vậy, nếu cứ làm theo ý muốn, theo tư tưởng, theo chủ quan của mình, rồi
đem cột vào cho quần chúng, thì khác nào "khoét chân cho vừa giày” [34, tr.248].
Như vậy, trong phương thức chỉ đạo công tác dân vận, ngoài phương thức "dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh: cách tổ chức,
cách làm việc cũng phải phù hợp với quần chúng; có vậy mới tập hợp được sức mạnh,

tính sáng tạo, tự giác của quần chúng cho thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
1.1.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về lực lượng làm công tác dân vận
Công tác dân vận có tầm quan trọng chiến lược trong các thời kỳ cách mạng, là
một trong những nhân tố góp phần quyết định thắng lợi của dân tộc. Nhận thức rõ vị
trí, tầm quan trọng của công tác này, trong bài "Dân vận", Người chỉ rõ: "Tất cả cán bộ
chính quyền, tất cả cán bộ Đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên
Việt, Việt Minh, v.v...) đều phải phụ trách dân vận" [34, tr.699]. Có lẽ không cần giải
thích gì thêm chúng ta cũng hiểu rõ rằng: công tác dân vận là trách nhiệm của tất cả
cán bộ Đảng, cán bộ chính quyền, cán bộ Mặt trận, đoàn thể nhân dân và của tất cả hội
viên, đoàn viên của các tổ chức nhân dân. Theo chức năng, nhiệm vụ của mình, mỗi
thành viên trong hệ thống chính trị phải làm công tác dân vận theo những phương thức
khác nhau, và phải luôn luôn phối hợp chặt chẽ với nhau trong công tác này.
- Đảng phải có đường lối, chính sách và phương thức lãnh đạo các giai cấp,
tầng lớp nhân dân một cách phù hợp để đường lối, chính sách của Đảng đi vào được
từng người, khơi dậy và phát huy tính tích cực, sáng tạo của họ để mỗi người có thể
đem tài, đem sức, đem của thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Muốn vậy, mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trước khi thông qua,
ban hành, cần trưng cầu dân ý.
- Dân vận không chỉ là việc riêng của Đảng, mà còn là việc của chính quyền.
Nhà nước, nhân viên Nhà nước phải coi trọng và tham gia công tác dân vận. Theo Hồ


20

Chí Minh, mọi tổ chức, mọi quyền lực, mọi cán bộ nhân viên Nhà nước đều không
được quên rằng:
“Nhiệm vụ của Chính quyền ta và Đoàn thể ta là phụng sự nhân dân. Nghĩa là
làm đầy tớ cho dân. Đã phụng sự nhân dân, thì phải phụng sự cho ra trò. Nghĩa là việc
gì lợicho dân, thì phải làm cho kỳ được. Việc gì hại cho dân, thì phải hết sức tránh”
[35, tr.88].

Theo Hồ Chí Minh “Nhà nước làm việc là vì lợi ích của nhân dân. Nhà nước
phải là người đại diện trung thành cho nhân dân. Mọi cán bộ, nhân viên Nhà nước
không thể là "quan cách mạng", mà phải là "đầy tớ" của nhân dân, mà đầy tớ "làm
việc cho nhân dân phải làm cho tốt". Phục vụ nhân dân trở thành điều kiện tồn tại của
Nhà nước, của Chính phủ. Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh rằng: "Chính phủ nhân dân
bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy" [35, tr.22]
Sức mạnh của Đảng, của Nhà nước là ở sự gắn bó máu thịt với nhân dân. Trách
nhiệm dân vận của cơ quan chính quyền xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta - nhà
nước của dân, do dân, vì dân. Khi Đảng trở thành đảng cầm quyền, mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân chủ yếu thông qua mối quan hệ giữa chính quyền và nhân dân.
Chính quyền làm tốt thì Đảng có uy tín, ngược lại, chính quyền phục vụ nhân dân
không chu đáo, cán bộ cửa quyền, hách dịch thì uy tín của Đảng sẽ giảm.
Chính quyền làm dân vận bằng các chính sách đúng đắn trên tất cả các lĩnh vực
kinh tế, văn hoá, xã hội...; bằng việc tổ chức điều hành để giải quyết đúng các vấn đề
liên quan đến dân, và bằng phối hợp cùng Mặt trận, đoàn thể nhân dân động viên nhân
dân tham gia các phong trào hành động cách mạng và xây dựng chính quyền. Chính
sách đúng, cơ chế tốt, khi được phổ biến đến dân, dân hiểu rõ thì tự nó tạo ra sự phấn
khởi, hào hứng trong nhân dân, củng cố lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Mặt trận và các đoàn thể nhân dân là người đại diện cho lợi ích chung và lợi ích
riêng của từng giai cấp, từng tầng lớp nhân dân, đồng thời là cầu nối Đảng, Nhà nước
với nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Những đoàn thể ấy là tổ chức của dân, phấn


21

đấu cho dân, bênh vực quyền của dân, liên lạc mật thiết nhân dân với Chính phủ" [34,
tr.520].
Theo Hồ Chí Minh, lực lượng làm công tác dân vận không chỉ là lực lượng của
Mặt trận, đoàn thể, mà còn là lực lượng cả toàn bộ hệ thống chính trị, đi đầu là các tổ

chức Đảng, chính quyền rồi đến các đoàn thể nhân dân. Phải có nhận thức đầy đủ như
vậy, chúng ta mới thực sự đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân vận
theo quan điểm "quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân" [34, tr.698]; "Trong bầu trời
không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết
của nhân dân" [37, tr.276];
1.1.5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc của người làm công
tác dân vận
Phong cách của người cán bộ dân vận có rất nhiều điểm đáng đề cập, song theo
Hồ Chí Minh thì: "Những người phụ trách dân vận cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai
nghe, chân đi, miệng nói, tai làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh
lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào việc" [34, tr.699].
Như vậy, theo Hồ Chí Minh để làm công tác dân vận, công tác vận động quần
chúng, mỗi tổ chức Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên phải có phương pháp, tác phong
công tác khoa học, sâu sát, tỉ mỉ và thiết thực; tuyệt đối không được vận động quần
chúng một cách qua loa, đại khái, giản đơn; hết sức tránh những biểu hiện lời nói
không đi đôi với việc làm; nói một đàng làm một nẻo hoặc "đánh trống bỏ dùi". Cán
bộ dân vận phải sống trong lòng dân, sát cơ sở, sát thực tế; đến với nhân dân để lắng
nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân giúp nhân dân giải quyết các công việc cụ thể,
đề xuất chính sách hoặc điều chỉnh chính sách cho phù hợp; vận động nhân dân thực
hiện các chủ trương, chính sách. Cán bộ dân vận không chỉ biết nói theo nghị quyết,
hô hào động viên quần chúng, mà phải "thật thà nhúng tay vào việc", thậm chí cầm tay
chỉ việc cho dân làm. Muốn vậy cán bộ dân vận phải có năng lực thực sự, có kiến thức
ở nhiều lĩnh vực công tác để cùng quần chúng thực hiện các công việc chung.


22

Đối với những người làm công tác dân vận đòi hỏi không chỉ có khả năng tổ
chức, vận động, thuyết phục quần chúng, mà còn phải có phương pháp, tác phong
quần chúng và phải có tư cách phẩm chất cách mạng. Để làm tốt công tác dân vận,

người cán bộ dân vận còn phải hiểu thấu đường lối,chủ trương của Đảng và pháp luật
của Nhà nước; hiểu thấu cách làm, rồi đi vào quần chúng, khéo giải thích cho nhân
dân hiểu rõ thì sẽ tập hợp được sức mạnh, quần chúng sẽ hăng hái hưởng ứng, tham
gia mọi công việc.
Muốn đạt hiệu quả trong công tác dân vận, cán bộ dân vận còn phải chiếm
được lòng tin của quần chúng, và phải tin tưởng vào lực lượng, sức mạnh của nhân
dân. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, bài học luôn luôn tin tưởng vào
nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân là một bài học quan trọng trong công tác dân
vận của Đảng. Có dân là có tất cả, biết dựa vào dân, phát huy tài dân, lòng dân, sức
dân để vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đem lại thắng lợi cho cách mạng. Do đó, về
lựa chọn cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải lựa chọn "Những người liên lạc
mật thiết với dân chúng, hiểu biết dân chúng. Luôn luôn chú ý đến lợi ích của dân
chúng. Như thế, thì dân chúng mới tin cậy cán bộ và nhận cán bộ đó là người lãnh đạo
của họ" [34, tr.275].
Tạo lòng tin là vấn đề quan trọng trong công tác vận động quần chúng. Một khi
quần chúng đã mất niềm tin thì vận động quần chúng sẽ trở nên vô nghĩa, hiệu quả rất
thấp, thậm chí tác động ngược lại. Muốn có niềm tin và giữ được niềm tin phải trở lại
nguyên tắc "lấy dân làm gốc" và nguyên tắc "bao nhiêu lợi ích đều vì dân". Cơ chế tổ
chức để thực hiện vận động quần chúng có hiệu quả đều phải từ nguyên tắc đó. Đồng
thời đòi hỏi người cán bộ dân vận từ cao đến thấp, từ gián tiếp đến trực tiếp, phải có
đầy đủ uy tín, tư cách, đạo đức, tài năng để lôi cuốn, hấp dẫn quần chúng. Chủ tịch Hồ
Chí Minh yêu cầu các cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên phải làm đầu tầu gương
mẫu.
Như vậy, cán bộ dân vận phải sống trong lòng dân, được dân tin và phải biết tin
dân. Thái độ và phong cách của đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức là một yếu tố


23

không thể thiếu để cho chính quyền làm tốt nhiệm vụ dân vận. Xây dựng đội ngũ cán

bộ, đảng viên có phẩm chất, đạo đức trong sáng, có năng lực thực sự, "xứng đáng là
người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân" là phương thức làm dân
vận có hiệu quả; "dân vận khéo thì việc gì cũng thành công" [34, tr.700].
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động phụ nữ
Hồ Chí Minh luôn luôn đánh giá cao phụ nữ. Người nhìn nhận thấy phụ nữ là
lực lượng quần chúng khốn cùng, bị áp bức, bóc lột nhất nên khả năng cách mạng
cũng rất to lớn. Mỗi giai đoạn, mỗi thời điểm cách mạng khác nhau mà Hồ Chí Minh
đưa ra phương châm công tác, phương pháp lãnh đạo cách mạng, sử dụng những hình
thức tổ chức, phù hợp với từng đối tượng quần chúng và luôn luôn có những khẩu
hiệu đòi quyền lợi chính đáng cho phụ nữ.
Người khẳng định rằng, để vận động phụ nữ có hiệu quả nhất thì ngoài vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Nhà nước còn có vai trò của Hội Phụ nữ trong việc tập
hợp giáo dục phụ nữ làm cách mạng, đồng thời chăm lo quyền lợi cho phụ nữ.
Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận
khéo thì việc gì cũng thành công” [34, tr.700]. Đối với công tác phụ vận: “Cán bộ phụ
nữ đi vận động, có cô vận động khéo đến đâu dân làm gì mình làm nấy, thân thiết như
người nhà, thì có thành tích. Cô nào không hoà lẫn được với nhân dân, vẫn giữ thói
quen thành phố, thì vận động không thành công” [36, tr.57].
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu vận động phụ nữ
Để đề ra được mục tiêu của việc vận động phụ nữ thì trước hết phải thấu hiểu
hoàn cảnh hiện tại của phụ nữ, những nỗi thống khổ mà phụ nữ đang phải gánh chịu
và những vấn đề đang đặt ra đòi hỏi phải giải quyết triệt để mới mang lại cuộc sống tốt
đẹp cho phụ nữ.
Là một người Việt Nam chân chính, Hồ Chí Minh chứng kiến biết bao những
khó khăn, cực khổ của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là của phụ nữ. Hồ Chí Minh quan
niệm, giải phóng phụ nữ phải gắn liền với mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người. Chỉ có giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng


24


con người mới mang lại quyền tự do cho con người nói chung và cho phụ nữ nói
riêng, tạo tiền đề cho tiến trình thực hiện quyền bình đẳng cho phụ nữ. Và chỉ khi nào
thực hiện được quyền bình đẳng cho phụ nữ thì dân tộc, giai cấp, con người mới được
giải phóng hoàn toàn và sự nghiệp cách mạng mới thực sự đi đến thắng lợi.
Một trong những tàn dư của chế độ phong kiến để lại cho dân tộc là tư tưởng
trọng nam khinh nữ. Trong gia đình hay ngoài xã hội, vị thế và vai trò của người phụ
nữ bị hạ thấp, thậm chí bị chà đạp. Chính sách bóc lột của thực dân Pháp, những thủ
đoạn cai trị tàn bạo của chúng một lần nữa lại đẩy người phụ nữ Việt Nam vào đường
cùng không lối thoát. Họ hầu như không được hưởng chút quyền lợi nào, họ bị mất
nhân quyền. Phụ nữ chiếm hơn 50% dân số, là lực lượng lao động đông đảo, chủ chốt
của xã hội. Quyền lợi của phụ nữ không thể tách rời quyền lợi chung của nhân dân,
dân tộc. Như vậy, trước tiên phải giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Chỉ có con
đường giải phóng đó mới mang lại hòa bình, ấm no cho dân tộc, cho toàn dân, trong
đó có phụ nữ. Hồ Chí Minh từng ra lời kêu gọi thống thiết: “Hỡi chị em! Vì sao chị
em lại phải chịu sự áp bức bất công này?” [31, tr.448]. Và Người chỉ ra rằng: “Muốn
cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản” [38, tr.314]. Giải phóng dân tộc, giai cấp chính là giải phóng con người. Giải
phóng con người trong đó đã bao hàm giải phóng phụ nữ.
Trong lịch sử, phụ nữ Việt Nam đã từng rất nhiều lần đứng lên phất cờ khởi
nghĩa, giết giặc cứu nước. Kế tục truyền thống ấy, phụ nữ Việt Nam hãy dũng cảm
đứng lên làm cách mạng, đó là cuộc cách mạng dân tộc, cách mạng xã hội và cuộc
cách mạng trong chính bản thân phụ nữ. Chị em phải tự phấn đấu vươn lên, không nên
ngồi chờ và ỷ lại vào người khác.
Trong điều 9 Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm
1946 do Hồ Chí Minh chỉ đạo soạn thảo, đã ghi nhận quyền bình đẳng giữa nam và
nữ: “Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới: phụ nữ Việt Nam đã được đứng ngang hàng
với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền tự do của một công dân” [33, tr.440].
Để phụ nữ có quyền bình đẳng với đàn ông là cả một quá trình phấn đấu không ngừng
của toàn xã hội chứ không phải một sớm một chiều. Nhưng quyền ấy đã được ghi



25

trong hiến pháp là một bước ngoặt quan trọng, tạo niềm tin, tạo căn cứ pháp lí cho tất
cả mọi người nhận thức và thực thi
Hồ Chí Minh so sánh hoàn cảnh phụ nữ Việt Nam trong lịch sử và trong hiện
tại để chị em nhận thấy rằng, từ khi giải phóng, phụ nữ có cơ hội để tiến bộ và tự tiến
bộ rõ rệt mọi mặt (chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội). Bác khẳng định: “ ... một trong
những tiến bộ rõ rệt nhất là phụ nữ ta hiện nay tham gia chính quyền ngày càng nhiều.
Thời kỳ thuộc Pháp, phụ nữ ta làm gì được tham gia chính quyền” [39, tr.184].
Người từng khẳng định: “Đảng và Chính phủ ta luôn chú ý nâng cao địa vị của
phụ nữ” [39, tr.85]. Người cũng khuyên: “Bản thân phụ nữ phải có ý chí tự cường tự
lập, phải đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của mình” [39, tr.226]. Rất nhiều lần Người
nêu cao quan điểm rằng: “Giải phóng người đàn bà đồng thời phải tiêu diệt tư tưởng
phong kiến, tư tưởng tư sản trong người đàn ông” [38, tr.524].
Hồ Chí Minh quan niệm, muốn có bình đẳng thực sự, ngoài việc Đảng, Chính
phủ có các kế hoạch, biện pháp, chính sách ưu ái với phụ nữ thì bản thân phụ nữ phải
cố gắng vươn lên. Phải kết hợp cả yếu tố chủ quan và khách quan (bản thân sự nỗ lực
của phụ nữ) mới đem lại thành công, mọi ước mơ, mục tiêu mới trở thành hiện thực.
Mục tiêu giải phóng phụ nữ xét đến cùng, theo Hồ Chí Minh, là những hành
động thiết thực nhằm cải thiện đời sống phụ nữ, nâng cao vị thế cho phụ nữ trong gia
đình và ngoài xã hội.
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung vận động phụ nữ
Vận động trên lĩnh vực văn hoá, xã hội
Để dễ bề cai trị dân ta, thực dân Pháp đã dùng chính sách ”ngu dân”. Chúng
hạn chế mở trường học nhằm mục đích “Không muốn cho dân ta biết chữ để dễ lừa
dối và bóc lột dân ta” [33, tr.36]. Bởi vậy, theo Bác, có tới 95% dân số thất học, trong
đó, phụ nữ thất học nhiều hơn nam giới. Bởi vậy, ngay sau nước nhà độc lập, mặc dù
còn muôn ngàn khó khăn, rất nhiều công việc phải làm để khôi phục đất nước, nhưng

Bác vẫn đặc biệt quan tâm đến việc học. Trong rất nhiều loại “giặc” như “giặc dốt”,
“giặc đói”, “giặc chủ nghĩa cá nhân” ... thì diệt “giặc dốt” trong cả nước là việc làm


×