Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Thực thi chính sách phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố cần thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.6 KB, 98 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌ VÀ TÊN TÁC GIẢ LUẬN VĂN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
________________

NGÔ HỒNG PHONG

THỰC THI CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CÔNG NGHIỆP HÓA,
TÊN ĐỀ TÀI

HIỆN ĐẠI HÓA Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
KHÓA

Đồng Tháp, năm 2015

1


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
________________

NGÔ HỒNG PHONG



THỰC THI CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ

CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC
Mã số: 60.31.02.01
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thái Sơn

Đồng Tháp, năm 2015

2


3

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và làm luận văn tốt nghiệp, tôi nhận được sự
động viên giúp đỡ của nhiều người thân, thầy cô, anh chị, bạn bè. Tôi xin chân
thành cảm ơn quí thầy cô của trường Đại học Vinh và Đại học Đồng Tháp đã tạo
điều kiện thuận lợi trong quá trình học tập tại trường. Đặc biệt, tôi xin tỏ lòng
biết ơn chân thành và sâu sắc đối với thầy PGS. TS Nguyễn Thái Sơn – phó
trưởng khoa Giáo dục Chính trị trường Đại học Vinh đã hướng dẫn nhiệt tình
giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình viết luận văn tốt nghiệp. Trong quá trình
làm vệc với thầy, tôi học được rất nhiều điều, từ sự gần gũi, thân thiện đến
phong cách làm việc khoa học, nghiêm túc, trách nhiệm, hết lòng vì công việc.
Tôi cũng chân thành cảm ơn quí thầy cô giáo khoa Giáo dục Chính trị
trường Đại học Vinh đã nhiệt tình giảng dạy và giúp đỡ tôi cũng như anh chị em

học viên lớp cao học khóa 21 hoàn thành chương trình học.
Tôi bài tỏ lòng biết ơn đối với tập thể anh chị em lớp Cao học Chính trị
khóa 21 đã thê hiện tinh thần đoàn kết và giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình
sinh hoạt và học tập với tập thể lớp. Tôi cảm ơn gia đình và cơ quan đã rất nhiệt
tình, ủng hộ, động viên, tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành chương trình khóa
học. Xin cảm ơn tất cả mọi người, sau khi tốt nghiệp tôi sẽ vận dụng kiến thức
đã học vào thực tiễn công tác, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Đồng Tháp, tháng 6 năm 2015
Tác giả luận văn

Ngô Hồng Phong

3


4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CNH, HĐH

:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội


ĐBSCL

:

Đồng bằng sông Cửu Long

GD - ĐT

:

Giáo dục đào tạo

GDĐH

:

Giáo dục đại học

GDTX

:

Giáo dục thường xuyên

GDNN

:

Giáo dục nghề nghiệp


KCN

:

Khu công nghiệp

KTTT

:

Kinh tế thị trường

LLSX

:

Lực lượng sản xuất

LĐ-TBXH

:

Lao động thương binh xã hội

NNL

:

Nguồn nhân lực


NNLCLC

:

Nguồn nhân lực chất lượng cao

PTTH

:

Phổ thông trung học

THCS

:

Trung học cơ sở

TH

:

Tiểu học

UBND

:

Ủy ban nhân dân


XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa

4


5

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

7

NỘI DUNG
Chương 1

13

VỊ TRÍ, TẦM QUAN TRỌNG CỦA THỰC THI CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. Chính sách phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu sự nghiệp

13

công nghiệp hóa, hiện đại hóa


13

1.2. Quan điểm của Đảng, chính sách nhà nước và những yêu cầu cơ bản
trong thực thi chính sách phát triển nguồn nhân lực
Chương 2

26

THỰC THI CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở
THÀNH PHỐ CẦN THƠ
2.1 Vài nét điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của thành phố Cần Thơ

38
38

2.2 Thực trạng thực thi chính sách phát triển nguồn nhân lực ở thành
43

phố Cần Thơ
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
THỰC THI CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
Ở TP CẦN THƠ TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1 Quan điểm chủ yếu trong thực thi chính phát triển nguồn nhân lực

76

đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
3.2 Những giải pháp chủ yếu trong thực thi chính sách phát triển nguồn


76

nhân lực ở thành phố Cần Thơ trong thời gian tới.

80

C. KẾT LUẬN

92

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

95

5


6

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

6


7

Trong xu thế toàn cầu hóa, kinh tế - xã hội phát triển chủ yếu dựa vào tri
thức, chính vì thế sự phát triển của một quốc gia cũng chủ yếu dựa vào nguồn

nhân lực (NNL). Do đó, Việt Nam sau khi chính thức trở thành thành viên thứ
150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO), NNL là vấn đề quan tâm hàng đầu
của Đảng và Nhà nước ta. NNL sẽ là nhân tố quyết định thúc đẩy sự phát triển
xã hội, sự tăng trưởng kinh tế đặc biệt là tiến trình CNH, HĐH đất nước.
Trong xu thế hiện nay, trong quá trình hoạch định chính sách, để đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu tối quan trọng và bức bách đối với mọi
nhà nước là đổi mới cách thức hoạch định, thực thi các quyết sách chính trị trên
mọi lĩnh vực. Ở Việt Nam, quá trình đổi mới kinh tế - chính trị - xã hội diễn ra từ
Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Công cuộc đổi mới đặt ra nhiều vấn đề,
trên nhiều lĩnh vực: Xây dựng Nhà nước pháp quyền gắn với đẩy mạnh cải cách
nền hành chính, phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần gắn với đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và thực hiện công
bằng, bình đẳng xã hội, đẩy mạnh tiến trình dân chủ hóa xã hội… Để thực hiện
được những mục tiêu của đổi mới, vấn đề đặt ra rất quan trọng lúc này là hoàn
thiện chính sách và quá trình thực thi các chính sách phát triển kinh tế - xã hội nói
chung và chính sách phát triển NNL nói riêng.
Sự nghiệp CNH, HĐH ở Việt Nam chỉ có thể thành công khi chúng ta đã có
một NNL có chất lượng. Vì vậy, phát triển NNL được coi là mục tiêu cuối cùng,
động lực của sự phát triển xã hội. Nhận thức rõ điều này, văn kiện Đại hội lần VIII
của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Nguồn lực con người Việt Nam là vốn
quý nhất trong điều kiện các nguồn lực khác của chúng ta còn hạn chế, do đó phải
lấy việc phát triển nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững [6, tr 85]. Vì thế trong suốt thời kỳ quá độ, Đảng và Nhà nước ta rất quan
tâm và đã thu được những kết quả nhất định trong hoạch định và thực thi các chính
sách nói chung và chính sách phát triển NNL nói riêng, đáp ứng ở mức độ nhất
định NNL cho CNH, HĐH. Tuy nhiên, so với các nước trên thế giới, NNL nước ta

7



8

xét cả về số lượng và chất lượng còn nhiều vấn đề bất cập. Theo đánh giá của các
nhà kinh tế và hoạch định chính sách trong nước và quốc tế thì chính sách phát
triển NNL nước ta còn thiếu, chưa đồng bộ, một số chưa phù hợp với yêu cầu sự
nghiệp CNH, HĐH, việc tổ chức thực hiện còn nhiều hạn chế, yếu kém, dẫn đến
những hạn chế hiệu quả thực thi chính sách.
Cần Thơ là một thành phố trực thuộc trung ương của vùng đồng bằng
sông Cửu Long, theo Nghị quyết 45-NQ/TW ngày 17/2/2005 của Bộ Chính trị
(khóa IX) về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ trong thời kỳ CNH, HĐH
đất nước, nhằm xây dựng thành phố Cần Thơ thành trung tâm công nghiệp, trung
tâm giáo dục đào tạo và khoa học… của vùng ĐBSCL. Cần Thơ có nhiều tiềm
năng, thế mạnh thu hút đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội, nhưng nhìn chung chưa
được khai thác hết và chưa sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẵn có. Những tiềm
năng, thế mạnh đó chỉ có thể phát huy được khi Cần Thơ có NNL tương xứng để
khai thác nhanh chóng đưa thành phố Cần Thơ trở thành thành phố công nghiệp
phát triển, là vùng kinh tế trọng điểm của đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
Thời gian qua, các cấp chính quyền ở Thành phố Cần Thơ rất quan tâm
trong thực hiện các chính sách phát triển NNL và việc thực hiện những chính sách
này cũng mang lại kết quả hết sức khả quan. Tuy nhiên, NNL với tư cách là động
lực của sự phát triển đang trong tình trạng thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, bất
cập về cơ cấu, chưa đáp ứng được yêu cầu CNH, HĐH của thành phố. Do vậy các
cơ quan nhà nước, các cấp chính quyền địa phương cần quan tâm chỉ đạo sát sao
hơn công tác tổ chức triển khai thực hiện chính sách phát triển NNL một cách có
hiệu quả.
Với tất cả những lí do do trên, tôi chọn vấn đề “Thực thi chính sách phát
triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành
phố Cần Thơ hiện nay” làm luận văn thạc sĩ chính trị học.

8



9

Trong những năm gần đây, vấn đề con người và phát triển nguồn lực con
người trong tình hình mới hiện nay đã được một số tác giả quan tâm nghiên cứu
một cách có hệ thống, đáng chú ý là những công trình sau:
- “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước” của PTS. Mai Quốc Chánh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1999. Cuốn sách đã phân tích vai trò của nhân lực và sự cần thiết phải nâng cao
chất lượng NNL, từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng
NNL nước ta đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước.
- “Phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta” của
PGS. Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm (Viện Kinh tế thế giới), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1996. Tác phẩm này đã giới thiệu khái quát về vai trò của NNL ở một số
nước trên thế giới dưới tác động của GD - ĐT, đồng thời nêu bật vai trò của GD ĐT trong việc phát triển NNL ở Việt Nam.
- “Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa, hiện
đại hóa” do GS,TS. Phạm Minh Hạc chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001. Cuốn sách là công trình nghiên cứu tâm huyết và công phu về con người.
Nội dung sách tập trung trình bày khái quát lịch sử hình thành và phát triển của
ngành khoa học xã hội nghiên cứu con người trên thế giới và ở Việt Nam một số
kết quả bước đầu trong chương trình nghiên cứu con người và NNL; một số đề
xuất và kiến nghị về chiến lược và chính sách nhằm phát triển toàn diện con người
và NNL Việt Nam trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
- “Đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế” của GS,TSKH. Nguyễn Minh
Đường và PGS,TS. Phan Văn Kha (đồng chủ biên), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội,
2006. Cuốn sách đã phân tích, hệ thống hóa cơ sở lý luận, chỉ ra thực trạng của lực
lượng lao động và đào tạo nhân lực các trình độ; từ đó đề xuất các giải pháp nhằm
phát triển nhân lực, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước trong điều kiện kinh tế

thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

9


10

- “Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài năng - kinh nghiệm của
thế giới”, Trần Văn Tùng, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2005. Cuốn sách đã trình bày
những kinh nghiệm trong việc phát hiện, đào tạo và sử dụng tài năng khoa học
công nghệ, sản xuất kinh doanh, quản lý của Mỹ và một số nước châu Âu, châu Á.
Trên cơ sở đó đề cập đến Việt Nam cần đổi mới các chính sách đào tạo, bồi dưỡng
và sử dụng nguồn tài năng hiện có.
- “Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước” của TS. Nguyễn Thanh (chủ biên), Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả
đã khẳng định phát triển NNL là yếu tố quyết định sự thành công của sự nghiệp
CNH, HĐH ở nước ta hiện nay. Từ đó, nêu thực trạng, một số định hướng chủ yếu
phát triển NNL có chất lượng ở nước ta.
Vấn đề con người phát triển nguồn lực con người cũng là đề tài nghiên cứu
của một số luận văn, luận án, đáng chú ý như: “Nguồn lực con người trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, luận án tiến sĩ của tác giả Đoàn Văn Khái
(2000); “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Quảng Ninh hiện nay”, luận án thạc sĩ của tác giả Vũ Thị
Phương Mai (2004)… Nhìn chung, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu làm rõ các vấn
đề về nguồn lực con người, NNL chất lượng cao và vai trò của những nguồn lực
này trong sự nghiệp CNH, HĐH. Qua phân tích thực trạng các tác giả đã đề xuất
nhiều giải pháp để phát huy, phát triển những nguồn lực này trong thời gian tới.
Ngoài ra, nhiều nhà khoa học, nhà quản lý đã có những công trình, bài viết
về vấn đề nguồn lực con người và đã được đăng tải trên các tạp chí, các kỷ yếu
khoa học, trên mạng internet… Tuy nhiên, dưới góc độ thực thi chính sách phát

triển NNL nói chung và ở TP Cần Thơ nói riêng, cho đến nay, vẫn chưa có công
trình nào nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở lý luận về chính sách và hệ thống các chính sách phát triển NNL
và thực trạng thực thi chính sách phát triển NNL ở Cần Thơ. Trên cơ sở đó đề xuất

10


11

những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao việc thực thi chính sách phát triển NNL đối
với các lĩnh vực trên ở Cần Thơ trong thời gian tới.
3. Nhiệm vụ của đề tài
- Làm rõ cơ sở lý luận, vị trí, vai trò của chính sách và thực thi chính sách
phát triển NNL trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta.
- Phân tích quá trình thực thi chính sách phát triển NNL trên địa bàn thành
phố Cần Thơ.
- Đưa ra những giải pháp có tính định hướng nhằm nâng cao việc thực thi
chính sách phát triển NNL, đáp ứng nhu cầu cho quá trình CNH, HĐH ở Cần Thơ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Chính sách phát triển NNL là một hệ thống nhiều chính sách. Trong luận
văn này chỉ tập trung nghiên cứu thực thi các chính sách: Phát triển GD - ĐT; thực
thi chính sách dạy nghề; thực thi chính sách xây dựng cơ cấu, phân bố và sử dụng
lao động; thực thi chính sách đầu tư phát triển NNL .
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu việc thực hiện chính sách phát triển NNL
tại thành phố Cần Thơ từ năm 2004 đến nay. Đây là những nội dung quan trọng,
có tính chất quyết định đối với sự phát triển NNL của thành phố Cần Thơ cũng

như ảnh hưởng lớn đến sự phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển của
thành phố trong thời gian tới.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
* Phương pháp luận
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về NNL và chính sách phát triển NNL, đồng thời kế thừa kết quả những
công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước có liên quan đến
vấn đề thực thi chính sách phát triển NNL.

11


12

* Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: Phân tích và tổng
hợp, lịch sử và lôgíc, kết hợp phân tích lý luận với tổng kết thực tiễn, sử dụng các
phương pháp thống kê, so sánh, phương pháp chuyên gia…
6. Những đóng góp mới của đề tài
Luận văn góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm về lý luận chính sách
và thực hiện chính sách công về phát triển NNL trong sự nghiệp CNH, HĐH ở
nước ta.
Luận văn làm rõ thực trạng thực thi chính sách phát triển NNL ở Cần Thơ
trong những năm đổi mới.
Những đề xuất giải pháp tiếp tục đổi mới việc thực thi chính sách phát triển
NNL ở Cần Thơ trong thời gian tới.
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần hệ thống hóa và hoàn thiện về
mặt lý luận vấn đề chính sách và thực thi chính sách phát triển NNL.
Luận văn sau khi hoàn thành có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ

quan hoạch định chính sách phát triển NNL ở Cần Thơ và cũng có thể nghiên cứu,
dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ giảng dạy và học tập trong hệ thống các
trường chính trị.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.

B. NỘI DUNG
Chương 1

12


13

VỊ TRÍ, TẦM QUAN TRỌNG CỦA THỰC THI CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. Chính sách phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.1.1. Chính sách công
Có nhiều quan niệm khác nhau, cách nhìn khác nhau về chính sách công.
Ở các nước phát triển và các tổ chức kinh tế quốc tế, thuật ngữ “Chính
sách công” được sử dụng rất phổ biến. Có thể nêu ra một số quan niệm sau:
Thuật ngữ chính sách công luôn chỉ những hành động của chính
phủ/chính quyền và những ý định quyết định hành động này; hoặc chính sách
công là kết quả của cuộc đấu tranh trong chính quyền để ai giành được cái gì
(Clarke E. Cochran, et al, 1999).
Chính sách là một quá trình hành động có mục đích mà một cá nhân hoặc
một nhóm theo đuổi một cách kiên định trong việc giải quyết vấn đề (James

Anderson, 2003).
Chính sách công là một quá trình hành động hoặc không hành động của
chính quyền để đáp lại một vấn đề công cộng. Nó được kết hợp với các cách
thức và mục tiêu chính sách đã được chấp thuận một cách chính thức, cũng như
các quy định và thông lệ của các cơ quan chức năng thực hiện những chương
trình (Kraft and Furlong, 2004). Từ các quan niệm trên, chính sách công có thể
được nhìn nhận như sau:
Trước hết, là một chính sách của nhà nước, của chính phủ (do nhà nước,
do chính phủ đưa ra), là một bộ phận thuộc chính sách kinh tế và chính sách nói
chung của mỗi nước.
Thứ hai, về mặt kinh tế, chính sách công phản ánh và thể hiện hoạt động
cũng như quản lý đối với khu vực công, phản ánh việc đảm bảo hàng hóa, dịch
vụ công cộng cho nền kinh tế.

13


14

Thứ ba, là một công cụ quản lý của nhà nước, được nhà nước sử dụng để:
Khuyến khích việc sản xuất, đảm bảo hàng hóa, dịch vụ công cho nền kinh tế,
khuyến khích cả với khu vực công và cả với khu vực tư; Quản lý nguồn lực
công một cách hiệu quả, hiệu lực, thiết thực đối với cả kinh tế, chính trị, xã hội,
môi trường, cả trong ngắn hạn lẫn trong dài hạn. Nói cách khác chính sách công
là một trong những căn cứ đo lường năng lực hoạch định chính sách, xác định
mục tiêu, căn cứ kiểm tra, đánh giá, xác định trách nhiệm trong việc sử dụng
nguồn lực công như ngân sách nhà nước, tài sản công, tài nguyên đất nước.
Có thể hiểu chính sách công theo một quan niệm chung nhất: Chính sách
công là tổng thể những chủ trương của nhà nước đối với xã hội trong việc quy định
các hoạt động của những đối tượng nào đó theo một phương thức nhất định, nhằm

thực thi quyền lực chính trị [4, tr .19].
Chính sách công thể hiện những vấn đề cơ bản sau đây:
Thứ nhất, trước hết, chính sách công là sản phẩm của các cơ quan nhà
nước, là sự thể hiện quyền lực của giai cấp thống trị trong sự thống trị xã hội,
giai cấp thống trị được tổ chức thành nhà nước, đồng thời là kết quả (đầu ra)
trong hoạt động của cả hệ thống chính trị, thể hiện tập trung nhất ở nhà nước
(hay nói chung là của các cơ quan công quyền). Chính vì vậy, theo Frank Ellis,
Chính sách (Politique) là các chủ trương, biện pháp, là sách lược, kế hoạch cụ
thể của chính phủ (cơ quan công quyền, của cơ quan nhà nước) đối với các lĩnh
vực đời sống xã hội. Như vậy, có thể nói tất cả các quyết định đưa ra từ cơ quan
công quyền đều được coi là chính sách công [4, tr.121]. Nói cách khác, chính
sách công là đường lối hành động mà chính phủ lựa chọn để thực hiện các mục
tiêu nhất định của nhà nước đối với những vấn đề xã hội nhất định.
Chính sách công là sản phẩm của nhà nước nên tất yếu là nó mang thể chế,
tính hợp pháp và tính cưỡng chế. Đó là một hệ thống các quyết định và những tác
động có ý thức (tự giác) của nhà nước đến đời sống xã hội, nhằm đạt được các mục
tiêu do nhà nước đã đặt ra trong quá trình thực thi quyền lực.

14


15

Thứ hai, chính sách công là thể hiện ý chí nhà nước trong giải quyết các
quan hệ xã hội được thể hiện thông qua tất cả những tác động, các chủ trương của
cơ quan công quyền. Trên ý nghĩa đó, E. Anlerson coi chính sách công là những
hoạt động mà chính quyền chọn làm hoặc không làm, cái gì cấm làm hoặc cho
phép làm đối với mỗi tổ chức kinh tế - xã hội và công dân [4, tr.122]. Thông qua
chính sách công, nhà nước thực hiện các lợi ích của giai cấp cầm quyền cũng như
những lợi ích nhất định của cộng đồng xã hội. Và như vậy, chính sách công là sự

thể hiện uy lực, quyền lực công.
Thứ ba, chính sách công là chiến lược sử dụng các nguồn lực của nhà nước
thông qua việc phân bổ các giá trị xã hội, nhằm thực hiện lợi ích nào đó cho giai
cấp cầm quyền, cộng đồng xã hội, hoặc mang lại hiệu quả trong quản lý xã hội của
một quốc gia.
Trong xã hội dân chủ, quyền lực nhà nước là của dân, do dân ủy quyền,
thông qua phân bổ các giá trị xã hội cho phép chính phủ đảm nhiệm vai trò công
bộc đối với nhân dân, nhà nước vì dân, nhà nước tạo thời cơ điều kiện để phát huy
tốt nhất các nguồn lực trong dân, gìn giữ hạnh phúc, an toàn cho mọi người dân.
Với ý nghĩa đó, chính sách công là cái thể hiện khả năng thực thi quyền lực nhà
nước, là công cụ để thực hiện ý chí nhà nước (hay ý chí của nhân dân).
Thứ tư, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan nên đời sống xã hội
luôn có những biến đổi. Trong mỗi thời kỳ khác nhau, điều kiện khác nhau, với
những quan hệ lợi ích khác nhau, đặt ra những yêu cầu khách quan trong sự phát
triển khác nhau. Do đó, trong các chủ trương chính sách nhà nước, bên cạnh những
yếu tố, những mặt ổn định, bất biến, cũng xuất hiện những mặt, những yếu tố khả
biến, đòi hỏi nhà nước phải ứng phó hiệu quả, phải có những chủ trương, biện
pháp, sách lược, kế hoạch thích hợp ở từng thời kỳ. Do đó, chính sách công còn là
nghệ thuật để can thiệp cần thiết vào đời sống xã hội của chính phủ.
Thứ năm, coi chính sách công là các quyết định, các chương trình hành động
của nhà nước và cũng có thể coi chính sách công là một chuỗi các hoạt động có

15


16

tính hệ thống của cơ quan nhà nước, được sắp xếp theo một trật tự nhất định. Hệ
thống này có mục tiêu dài hạn hoặc ngắn hạn và được tính toán, cân nhắc cẩn thận.
Đó là một chuỗi những hoạt động như: Xác định chương trình chính sách; xây

dựng và lựa chọn chính sách; tổ chức thực hiện chính sách; tổng kết, bổ sung,
hoàn thiện chính sách.
Thứ sáu, trong các xã hội hiện đại, chính sách công có quan hệ mật thiết với
quyết sách của đảng cầm quyền.
Quyết sách của đảng cầm quyền là chủ trương của tổ chức chính trị nắm
quyền đại diện ý chí chung của xã hội, chi phối tổ chức và hoạt động của nhà nước.
Do đó chính sách công có quan hệ mật thiết với các chủ trương, đường lối của đảng
cầm quyền. Trong mối quan hệ đó, chủ trương, đường lối của đảng cầm quyền là
sản phẩm của tổ chức chính trị (đảng cầm quyền) chi phối nhà nước về mặt chính
trị, nó mang tính nguyên tắc chung, có tính định hướng của đảng cầm quyền đối
với nhà nước. Còn chính sách nhà nước là sản phẩm của cơ quan công quyền, của
nhà nước, đồng thời là kết quả của quá trình thể chế hóa các chủ trương của đảng
cầm quyền thành các quyết định mang tính nhà nước, buộc toàn xã hội thực hiện.
Tóm lại, chính sách công là chương trình hành động của nhà nước, là ý chí
nhà nước mang tính cưỡng chế, nhằm giải quyết các vấn đề cụ thể trong những giai
đoạn dài hạn, trung hạn hay ngắn hạn cụ thể. Chính sách công là chuỗi các quyết
định và hành vi nhất định của các chủ thể nắm quyền lực nhà nước ở mọi cấp độ,
nhằm quy định mục đích và cách thức, hành động của những đối tượng liên quan,
để giải quyết những vấn đề mà xã hội quan tâm, nhằm thực thi quyền lực công.
Vai trò của chính sách công:
Chính sách công liên quan mật thiết đến giành, giữ, thực thi quyền lực nhà
nước nên chính sách công có vai trò rất quan trọng:
Thông qua chính sách công để thực hiện ý chí nhà nước, ý chí chung của
xã hội thông qua việc thực hiện phân bổ các giá trị có lợi cho giai cấp cầm
quyền và đảm bảo nhất định công bằng xã hội. Qua đó củng cố địa vị kinh tế của

16


17


giai cấp nắm quyền thống trị, củng cố quyền lực của giai cấp cầm quyền.
Thông qua một hệ thống các chính sách đúng, đáp ứng các yêu cầu khách
quan của sự phát triển, chính sách công tạo sự ổn định chính trị - xã hội để phát
triển. Chính sách đúng hay không đúng liên quan mật thiết tới phương thức cai
trị (hòa bình, mềm dẻo hay bạo lực cứng rắn). Tính ổn định có quan hệ mật thiết
với phát triển. Do đó, muốn có ổn định chính trị - xã hội, nhà nước phải có
những chính sách đúng, đáp ứng các yêu cầu khách quan trong phát triển kinh tế
- xã hội ở từng thời kỳ, ở mỗi giai đoạn phát triển, chính sách phải hợp lòng dân,
phải hướng đến lợi ích của đại đa số nhân dân, tất nhiên là không tuyệt đối.
Do chính sách liên quan đến phân bổ hợp lý các nguồn lực, giá trị xã hội
nên việc ban hành và thực hiện chính sách có tác động đến khai thác hiệu quả
các nguồn lực xã hội (trong khi trên thực tế, không có một quốc gia nào có dồi
dào các nguồn lực vật chất và tinh thần).
Cuối cùng, việc xây dựng chính sách một cách dân chủ, thông qua việc
ban hành và thực hiện hệ thống chính sách đúng, không ngừng đổi mới, xây
dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách của nhà nước sẽ góp phần củng cố hệ thống
chính trị, trong đó phải nói đến củng cố các mối quan hệ trong hệ thống, như
quan hệ giữa đảng cầm quyền với nhà nước, giữa đảng với dân và quan hệ giữa
nhà nước với dân, củng cố các nguyên tắc dân chủ - pháp quyền, xây dựng nhà
nước pháp quyền, của dân, do dân và vì dân.
1.1.2. Chính sách phát triển nguồn nhân lực
1.1.2.1. Nguồn nhân lực và chính sách phát triển nguồn nhân lực
* Nguồn nhân lực
Khi nói đến con người với tư cách là động lực thúc đẩy sự phát triển thì
người ta xem con người như một nguồn lực. Như chúng ta đã biết, sự nghiệp CNH,
HĐH ở nước ta phải dựa trên tổng thể các nguồn lực. Dưới dạng tổng quát, hiện
nay chúng ta có các dạng nguồn lực khác nhau tham gia thúc đẩy quá trình CNH,
HĐH như: nguồn vốn, tài nguyên, vị trí địa lý, khoa học - công nghệ, nguồn lực
con người...


17


18

Cho dù có tên gọi khác nhau, nguồn lực con người hay nguồn nhân lực thì
giữa chúng vẫn có cùng một nghĩa. Hiện nay, khi nói về khái niệm nguồn nhân
lực (nguồn lực con người) thì có nhiều quan niệm khác nhau:
Theo định nghĩa của Liên hợp quốc, NNL là: Trình độ lành nghề, là kiến
thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc tiềm năng
để phát triển kinh tế xã hội trong một cộng đồng.
Tổ chức Ngân hàng thế giới (World Bank) cho rằng: “Nguồn nhân lực
được hiểu là toàn bộ tiềm năng về vốn người bao gồm: thể lực, trí lực, tâm lực
mà mỗi cá nhân sở hữu” [43, tr.07].Tổ chức Liên hiệp quốc (UNESCO) thì cho
rằng: “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng
lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân
và đất nước” [43, tr.08].
GS. Viện sĩ Phạm Minh Hạc cho rằng: “Nguồn lực con người được hiểu
là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và
trí tuệ, năng lực và phẩm chất” [18, tr. 10].
Trong Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa VIII cũng khẳng định: “Nguồn lực con người là người lao động có trí tuệ
cao, tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp được đào tạo, bồi dưỡng và phát
huy bởi một nền giáo dục tiên tiến, gắn liền với nền khoa học, công nghệ hiện
đại” [11, tr.09].
Như vậy ta thấy, do nhiều cách tiếp cận khác nhau nên đã có nhiều quan
niệm khác nhau về NNL. Tuy nhiên, cho dù có quan niệm khác nhau, song giữa
các quan niệm này cũng có điểm chung thống nhất đó là: hầu hết các tác giả đều
xem NNL là tổng thể những tiềm năng và năng lực của con người được huy

động vào trong quá trình lao động sản xuất và phát triển của một quốc gia hay
một địa phương.
Dựa trên những quan niệm nêu trên và gắn với góc độ nghiên cứu của đề
tài, có thể hiểu: Nguồn nhân lực là toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một
quốc gia, một địa phương với những năng lực thể chất, tinh thần, trình độ tri

18


19

thức, năng lực thực tế, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, tác phong lao
động... đã, đang và sẽ tham gia vào quá trình sản xuất ra của cải vật chất và tinh
thần thúc đẩy sự phát triển của một quốc gia.
Với quan niệm như vậy, nguồn nhân lực được đặc trưng bởi hai yếu tố cơ
bản: số lượng và chất lượng NNL.
Về số lượng: NNL là toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia,
địa phương. Số lượng nguồn nhân lực ở nước ta là bao gồm những người trong
độ tuổi lao động, có khả năng lao động, không kể đến tình trạng có việc làm
hoặc không có việc làm. Theo khoản 1, điều 3 của Bộ luật Lao động Việt Nam
năm 2012 thì Người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao
động, làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều
hành của người sử dụng lao động. Như vậy, NNL bao gồm số người đang làm
việc trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế - xã hội; số người thất nghiệp;
số người làm công việc nội trợ và số người là học sinh, sinh viên trong độ tuổi
lao động.
Về chất lượng: NNL được biểu hiện ở năng lực thể chất, tinh thần, trình
độ tri thức, năng lực thực tế, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, tác
phong lao động... đã, đang và sẽ tham gia vào quá trình sản xuất ra của cải vật
chất và tinh thần thúc đẩy sự phát triển của quá trình CNH, HĐH. Chất lượng

nguồn nhân lực được biểu hiện ở trạng thái thể lực và trí lực, cụ thể: trạng thái
sức khỏe, trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật, cơ cấu ngành nghề, phẩm chất
đạo đức, nhân cách, lối sống... Trong đó, thể lực là yếu tố quan trọng, là nền
tảng để trên cơ sở đó phát triển trí tuệ, vận dụng trí tuệ vào công việc thực tiễn;
trình độ học vấn là yếu tố quan trọng nhất, nó không chỉ là cơ sở để đào tạo kỹ
năng nghề nghiệp mà còn là yếu tố hình thành nhân cách và lối sống của mỗi cá
nhân người.
Như vậy, khi đề cập đến chất lượng NNL nó liên quan đến nhiều lĩnh
vực: chăm sóc sức khỏe, y tế, giáo dục - đào tạo, lao động và việc làm gắn

19


20

với tiến bộ khoa học - kỹ thuật, trả công lao động và các phúc lợi xã hội
khác... Do đó, khi đề cập đến chất lượng nguồn nhân lực, không thể không
xem xét những điều kiện phát triển con người của quốc gia, hoặc có thể của
một địa phương. Trên thế giới ngày nay người ta lấy chỉ số phát triển con
người HDI (Human Deverlopman Ider) để đánh giá trình độ phát triển của
một đất nước.
Chất lượng NNL cao có tác dụng làm tăng năng suất lao động. Trong thời
đại tiến bộ kỹ thuật, một nước cần và có thể đưa chất lượng NNL vượt trước
trình độ phát triển của cơ sở vật chất trong nước để sẵn sàng đón nhận tiến bộ kỹ
thuật - công nghệ, hòa nhập với trình độ phát triển của nhân loại.
* Chính sách phát triển NNL:
Từ quan điểm coi con người là trung tâm của phát triển kinh tế - xã hội,
phát triển NNL là quá trình gia tăng về kiến thức, kỹ năng và năng lực của
con người trong xã hội. Dưới góc độ kinh tế, quá trình này được mô tả như sự
tích lũy vốn con người và sự đầu tư vốn đó một cách hiệu quả vào sự phát

triển của nền kinh tế. Dưới góc độ của chính trị, chính sách phát triển NNL là
việc nhà nước chuẩn bị cho con người tham gia tích cực, hiệu quả vào các
hoạt động của đời sống xã hội, từ hoạt động kinh tế, văn hóa đến hoạt động
chính trị. Bởi phát triển NNL được hiểu là cả một quá trình, qua đó sự lớn
mạnh của cá nhân hay tổ chức có thể đạt được những tiềm năng đầy đủ nhất
của họ theo thời gian. Bởi vậy, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, các
quốc gia trên thế giới đều rất quan tâm đến chính sách phát triển NNL, nhằm
tạo ra đội ngũ nhân lực có chất lượng, có trình độ, có khả năng nắm bắt KH CN mới và ứng dụng vào sản xuất, đời sống.
Có quan niệm cho rằng: Chính sách phát triển NNL là hệ thống các quyết
định của nhà nước nhằm làm gia tăng giá trị cho con người trên các mặt như đạo
đức, trí tuệ, kỹ năng, tâm hồn, thể lực... làm cho con người trở thành những người
lao động có những năng lực phẩm chất mới và cao, đáp ứng được những yêu cầu to

20


21

lớn của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Một quan niệm khác, chính sách phát triển NNL là tổng thể những biện pháp,
kế hoạch của nhà nước nhằm làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu NNL
ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Mặc dù với nhiều cách tiếp cận và quan niệm khác nhau về chính sách phát
triển NNL, nhưng có thể hiểu chính sách phát triển NNL như sau: Chính sách phát
triển NNL là hệ thống những chủ trương, chính sách, biện pháp mà nhà nước tiến
hành nhằm phát triển NNL xã hội về số lượng và chất lượng đáp ứng các yêu cầu
phát triển của mỗi cá nhân và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước [38, tr. 9].
1.1.2.2. Thực thi chính sách phát triển nguồn nhân lực
* Thực thi chính sách phát triển NNL là toàn bộ những hoạt động nhằm triển
khai tổ chức, phối hợp các lực lượng và huy động các nguồn lực vào việc thực hiện

các mục tiêu của chính sách phát triển NNL đã được ban hành
Đây là toàn bộ quá trình chuyển hóa chính sách từ mục tiêu, các điều quy
định được làm và không được làm cho mỗi cá nhân và mỗi tổ chức trong phát triển
NNL đã được xác định trên văn bản thành hiện thực trên thực tế.
* Các bước thực thi chính sách phát triển NNL:
Do tầm quan trọng của giai đoạn hiện thực hóa chính sách nên các cơ quan
nhà nước, các cấp chính quyền địa phương cần đặc biệt quan tâm chỉ đạo sát sao
công tác tổ chức triển khai thực hiện này. Để tổ chức điều hành có hiệu quả công
tác thực thi chính sách, các cơ quan thực thi chính sách phải tổ chức thực hiện các
công việc chủ yếu sau đây:
Xây dựng kế hoạch triển khai thực thi chính sách:
Kế hoạch triển khai thực thi chính sách được xây dựng trước khi đưa chính
sách vào cuộc sống. Các cơ quan triển khai thực thi chính sách từ trung ương đến
địa phương đều phải xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện. Kế hoạch triển
khai thực thi chính sách bao gồm những nội dung cơ bản sau:
Xây dựng kế hoạch về tổ chức, điều hành: Gồm những việc tuyên truyền

21


22

chính sách trong xã hội, tuyên truyền đến các đối tượng liên quan (các đối tượng
đóng vai trò tổ chức, quản lý, các tổ chức và cá nhân liên quan, các tổ chức đảng,
các đoàn thể nhân dân liên quan), tổ chức nhân sự, hệ thống các cơ quan chủ trì và
phối hợp triển khai thực hiện chính sách; xây dựng cơ chế phối hợp, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tham gia thực hiện chính sách.
Lên kế hoạch huy động các nguồn vật lực: Cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ
thuật, các nguồn lực tài chính... phục vụ cho tổ chức thực thi chính sách.
Kế hoạch thời gian triển khai thực hiện chính sách.

Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách - những dự kiến về tiến độ,
hình thức, phương pháp kiểm tra giám sát tổ chức thực thi chính sách.
Phổ biến, tuyên truyền chính sách:
Cùng với quá trình lập kế hoạch và tổ chức triển khai thực hiện chính sách,
một việc rất quan trọng trong quá trình này là tuyên truyền vận động thực thi chính
sách. Phổ biến, tuyên truyền chính sách tốt giúp cho các đối tượng chính sách và
người tham gia thực thi hiểu rõ về mục đích, yêu cầu của chính sách; về tính đúng
đắn của chính sách trong điều kiện hoàn cảnh nhất định và về tính khả thi của chính
sách... để họ tự giác thực hiện theo yêu cầu quản lý của nhà nước. Đồng thời còn
giúp cho mỗi cán bộ, công chức có trách nhiệm tổ chức thực thi nhận thức được
đầy đủ tính chất, trình độ, quy mô của chính sách với đời sống xã hội để chủ động
tích cực tìm kiếm các giải pháp thích hợp cho việc thực hiện mục tiêu chính sách
và triển khai thực thi có hiệu quả kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách được giao.
Tuyên truyền, vận động thực thi chính sách được thực hiện thường xuyên,
liên tục, kể cả khi chính sách đang được thi hành, để mọi đối tượng cần tuyên
truyền luôn được củng cố lòng tin vào chính sách và tích cực thực thi chính sách.
Tổ chức phân công, phối hợp thực hiện chính sách:
Muốn tổ chức thực thi chính sách có hiệu quả phải tiến hành phân công, phối
hợp giữa các cơ quan quản lý ngành, các cấp chính quyền địa phương, các yếu tố
tham gia chính sách và các quá trình ảnh hưởng đến thực hiện mục tiêu chính sách.

22


23

Trong thực tế thường hay phân công cơ quan chủ trì và các cơ quan phối hợp thực
hiện một chính sách cụ thể nào đó.
Duy trì chính sách:
Duy trì chính sách là làm cho chính sách tồn tại được và phát huy tác dụng

trong môi trường thực tế. Muốn cho chính sách được duy trì, đòi hỏi phải có sự đồng
tâm, hợp lực của cả người tổ chức, người thực thi và môi trường tồn tại.
Đối với cơ quan nhà nước phải thường xuyên quan tâm, tuyên truyền, vận
động các đối tượng chính sách và toàn xã hội tích cực tham gia thực thi chính sách;
sử dụng hệ thống công cụ quản lý tác động nhằm tạo lập môi trường thuận lợi cho
việc thực thi chính sách. Đồng thời chủ động kiểm tra, điều chỉnh chính sách cho
phù hợp với hoàn cảnh mới. Trong một chừng mực nào đó, để đảm bảo lợi ích
chung của xã hội, các cơ quan nhà nước có thể kết hợp sử dụng biện pháp hành
chính để duy trì chính sách.
Đối với người chấp hành chính sách (các đối tượng chính sách và toàn xã
hội) có trách nhiệm tham gia thực hiện theo yêu cầu của nhà nước và vận động lẫn
nhau tích cực chấp hành chính sách nhà nước. Tăng cường thực hiện dân chủ để
người dân mạnh dạn tham gia quản lý xã hội, tự giác chấp hành chính sách, tìm
kiếm, đề xuất các biện pháp thực hiện mục tiêu với các cơ quan nhà nước để điều
chỉnh bổ sung cho chính sách ngày càng hoàn chỉnh.
Điều chỉnh chính sách:
Điều chỉnh chính sách là một hoạt động cần thiết diễn ra thường xuyên trong
tiến trình tổ chức thực thi chính sách. Nó được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có
thẩm quyền để cho chính sách ngày càng phù hợp với yêu cầu quản lý và tình hình
thực tế.
Một nguyên tắc cần phải chấp hành khi điều chỉnh chính sách là: Để chính
sách tiếp tục tồn tại chỉ được điều chỉnh các biện pháp, cơ chế thực hiện mục tiêu,
hoặc bổ sung, hoàn chỉnh mục tiêu theo yêu cầu thực tế. Nếu điều chỉnh làm thay
đổi mục tiêu nghĩa là làm thay đổi chính sách, thì coi như chính sách không tồn tại.

23


24


Hoạt động điều chỉnh chính sách đòi hỏi phải chính xác, hợp lý nếu không sẽ
làm sai lệch, biến dạng chính sách, làm cho chính sách trở nên kém hiệu quả, thậm
chí không tồn tại được. Muốn thế, các cơ quan nhà nước các ngành, các cấp phải
thường xuyên theo dõi, kiểm tra đôn đốc thực thi mới kịp thời phát hiện những sai
lệch, thiếu sót để điều chỉnh, bổ sung.
Theo dõi kiểm tra, đôn đốc việc thực thi chính sách:
Theo dõi kiểm tra, đôn đốc là một bước rất quan trọng trong quá trình thực
thi chính sách phát triển NNL. Qua kiểm tra, đôn đốc, các mục tiêu và biện pháp
chủ yếu của chính sách lại được khẳng định để nhắc nhở mỗi cán bộ, công chức,
mỗi đối tượng thực thi chính sách tập trung chú ý những nội dung ưu tiên trong quá
trình thực thi chính sách. Căn cứ kế hoạch kiểm tra, đôn đốc đã được phê duyệt các
tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện hoạt động kiểm tra có hiệu quả. Ngoài
ra, thường xuyên theo dõi kiểm tra, đôn đốc việc thực thi chính sách kịp thời bổ
sung, hoàn thiện chính sách, giúp cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện
mục tiêu chính sách.
1.1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực thi chính sách phát triển nguồn
nhân lực
Quá trình tổ chức thực thi chính sách phát triển NNL có rất nhiều yếu tố
ảnh hưởng:
* Các yếu tố khách quan trong thực thi chính sách phát triển NNL:
Tính chất phức tạp của chính sách, là yếu tố gắn liền với mỗi vấn đề chính
sách. Có tác động trực tiếp đến cách giải quyết vấn đề bằng chính sách và tổ chức
thực thi chính sách
Môi trường thực thi chính sách, là yếu tố liên quan đến các hoạt động kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, môi trường tự nhiên và quốc tế...
Mối quan hệ giữa các đối tượng thực thi chính sách, thể hiện sự đồng thuận
hay không đồng thuận của xã hội đối với chủ trương phân bổ các giá trị trong chính
sách. Sự đồng tình của xã hội với các quy định được làm và không được làm của

24



25

nhà nước đối với các tổ chức và công dân... . Ảnh hưởng rất nhiều đến công tác tổ
chức thực hiện chính sách.
Tiềm lực của các nhóm đối tượng chính sách, được hiểu là thực lực và tiềm
năng mà mỗi nhóm có được trong mối quan hệ so sánh với các nhóm đối tượng
khác. Tiềm lực của nhóm lợi ích được thể hiện trên các phương diện chính trị, kinh
tế, xã hội… về cả quy mô và trình độ. Như vậy có thể thấy tiềm lực của các nhóm
lợi ích có ảnh hưởng trực tiếp đến thực thi chính sách.
Đặc tính của đối tượng chính sách, là những tính chất đặc trưng mà các đối
tượng có được từ bản tính cố hữu hoặc do môi trường sống tạo nên qua quá trình
vận động mang tính lịch sử. Những đặc tính này thường có liên quan đến tính tự
giác, tính kỷ luật, tính sáng tạo, lòng quyết tâm… . Đặc tính gắn liền với mỗi đối
tượng thực thi chính sách, nên các chủ thể tổ chức điều hành cần biết cách khơi gợi
hay kiềm chế nó để có được kết quả tốt nhất cho quá trình tổ chức thực thi chính sách.
Điều kiện vật chất cần cho quá trình thực thi chính sách, là yếu tố ngày
càng có vị trí quan trọng để cùng nhân sự và các yếu tố khác thực hiện thắng lợi
chính sách của nhà nước.
Sự đồng tình ủng hộ của dân chúng là nhân tố có vai trò đặc biệt quan trọng,
quyết định sự thành bại của một chính sách. Việc thực hiện các mục tiêu chính sách
không thể chỉ do các cơ quan quản lý nhà nước, mà phải có sự tham gia của mọi
tầng lớp nhân dân trong xã hội. Trên thực tế, các cơ quan nhà nước chịu trách
nhiệm chỉ đạo, điều hành công tác tổ chức thực thi chính sách, còn các tầng lớp
nhân dân là những đối tượng thực hiện chính sách. Các chính sách đều hướng đến
phục vụ con người, cho nên con người (dân) vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong
thực thi chính sách.
* Các yếu tố chủ quan trong thực thi chính sách phát triển NNL:
Các yếu tố chủ quan thuộc về cơ quan công quyền, cán bộ - công chức có

liên quan đến quá trình thực thi chính sách:
Thực hiện đúng, đầy đủ các bước trong quy trình tổ chức thực thi chính sách,

25


×