Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố tân an, tỉnh long an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.72 KB, 77 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÊ THANH HẢI

NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ TRONG TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ TÂN AN, TỈNH LONG AN
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ

KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học: TS Đinh Trung Thành

Long An
An -

2015
2015


2

MỤC LỤC
Trang
Danh mục các chữ viết tắt



1

A. MỞ ĐẦU

2

B. NỘI DUNG

10

CHƯƠNG 1. Cơ sở lý luận về dân chủ trong trường học

10

1.1. Dân chủ, dân chủ cơ sở, dân chủ trường học

10

1.2. Nội dung, yêu cầu và hình thức thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở

23

trong trường THPT

1.3. Tầm quan trọng của việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở

35

trong trường học


CHƯƠNG 2. Thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong trường THPT

39

trên địa bàn thành phố Tân An, tỉnh Long An

2.1. Khái quát về các trường THPT trên địa bàn thành phố Tân An,

39

tỉnh Long An
2.2. Thực trạng thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong trường THPT41
trên địa bàn Thành phố Tân An,
2.3. Những khó khăn, hạn chế trong quá trình thực hiện Quy chế dân chủ

52

cơ sở trong trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Tân An,
tỉnh Long An
CHƯƠNG 3. Quan điểm và một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu 61
quả Quy chế dân chủ cơ sở trong trường THPT trên địa bàn
thành phố Tân An, tỉnh Long An hiện nay

3.1 Quan điểm thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong trường THPT trên

61

địa bàn thành phố Tân An, tỉnh Long An
3.2. Một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả Quy chế dân chủ cơ


66

sở trong trường THPT trên địa bàn thành phố Tân An, tỉnh Long An

C. KẾT LUẬN

81

D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

83


3

E. PHỤ LỤC

85

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ban giám hiệu

BGH

Cán bộ, giáo viên, nhân viên

CB-GV-NV

Chủ nghĩa xã hội


CNXH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH, HĐH

Giáo dục và Đào tạo

GD&ĐT

Trung học phổ thông

THPT

Xã hội chủ nghĩa

XHCN

A. MỞ ĐẦU


4

1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang thực hiện công cuộc đổi mới, đòi hỏi phải phát huy được quyền
làm chủ của nhân dân, người dân tham gia quản lý nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan
liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng.

Ngày 04-03-2010, Kết luận số 65-KL/TW của


Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa
VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở nêu rõ: “Thực hiện Quy
chế dân chủ ở cơ sở được gắn với phát triển kinh tế- xã hội, cải cách thủ thục
hành chính, cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh", các phong trào, các hoạt động văn hóa, xã hội, giữ vững an ninh, trật tự ở
cơ sở”.
Đại hội XI của Đảng xác định lại một lần nữa vị trí, tầm quan trọng lâu dài và bức thiết
của vấn đề dân chủ. Đại hội đã xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng nước ta trong thời kỳ
mới là thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, “thực hiện tốt hơn
Quy chế dân chủ cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Phát huy dân chủ,
đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội …”. [6,tr. 239].

Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở đã góp phần đổi mới phương
thức, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước;
đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của mặt trận, các đoàn thể nhân dân;
phát huy tính tiên phong, gương mẫu, chấn chỉnh phong cách, lề lối làm việc của
cán bộ, công chức theo hướng sát dân, trọng dân và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân; góp phần
quan trọng trong phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng
phí; tăng cường đoàn kết, đồng thuận xã hội, củng cố mối quan hệ máu thịt giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân; chống lại các âm mưu lợi dụng dân chủ, dân tộc,
tôn giáo, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trong nhiều trường THPT ở Long An, việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở theo Chỉ
thị 30-CT/TW và Nghị định 71/1998 của Chính phủ, Nghị định 04/2015/NĐ-CP (thay thế

Nghị định 71/1998 từ ngày 25/2/2015), Quyết định 04 của Bộ GD&ĐT đã tạo ra


5

bầu không khí dân chủ trong các trường học, góp phần vào việc dạy tốt, học tốt. Tuy nhiên cũng
giống như nhiều cơ quan, đơn vị thuộc nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác, vẫn còn có trường học
triển khai chậm hoặc triển khai hình thức. Có trường do thiếu dân chủ dẫn đến gây mất đoàn kết,
khiếu kiện. Điều đó ảnh hưởng không tốt tới chất lượng dạy và học, đến uy tín của ngành giáo dục
đối với xã hội, đối với nhân dân.

Thực hiện có hiệu quả Quy chế dân chủ cơ sở, phát huy được quyền làm
chủ của cán bộ, giáo viên, nhân viên trong các trường THPT vẫn là một đòi hỏi, một yêu cầu
cấp bách của sự nghiệp đổi mới trong ngành GD&ĐT ở Long An nói chung, ở các trường THPT
trên địa bàn thành phố Tân An nói riêng. Vì vậy đề tài “Nâng cao hiệu quả thực hiện Quy chế
dân chủ cơ sở trong trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Tân An, tỉnh Long An”
nhằm góp phần nghiên cứu vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết đó.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Dân chủ, dân chủ cơ sở, Quy chế dân chủ cơ sở là vấn đề được nhiều nhà
khoa học, những người làm công tác lý luận quan tâm ở những góc độ, khía
cạnh khác nhau. Đã có nhiều văn bản, chỉ thị về vấn đề dân chủ, Q uy chế dân chủ
cơ sở và ý thức, trách nhiệm thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở được triển khai.
Ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị ra “Chỉ thị 30CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”,
Chỉ thị đã khẳng định: “Mở rộng dân chủ xã hội chủ
nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là mục
tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm cho thắng lợi của
cách mạng, của công cuộc đổi mới”. Thực hiện Chỉ thị
30-CT/TW và các quy định, hướng dẫn của Trung ương,
trong những năm qua, các địa phương trong cả nước đã
tích cực đưa Quy chế dân chủ cơ sở vào cuộc sống, góp
phần tạo nên những bước chuyển biến mạnh mẽ trên tất
cả các lĩnh vực.



6

Ngày 04-3-2010, thay mặt Ban Bí thư Trung ương
Đảng, đồng chí Trương Tấn Sang đã ký ban hành “Kết
luận số 65-KL/TW của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện
Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về
xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở”.
Do tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn của thực hiện Quy chế dân chủ
cơ sở, đã có nhiều công trình nghiên cứu đăng tải trên các tạp chí của Trung
ương và địa phương, đề cập đến vấn đề này ở những góc độ khác nhau. Tiêu biểu
cho các công trình khoa học, đề tài nghiên cứu, sách, bài viết trên các tạp chí khoa học có thể kể
đến:

- "Về quá trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay". Sách do PGS, TS Lê Minh Quân,
Viện Chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh biên soạn. Ngoài lời mở đầu và
kết luận, cuốn sách gồm 9 chương. Trên cơ sở tìm hiểu
các quan niệm và khái niệm lý thuyết và mô hình dân
chủ hóa, những yếu tố tác động và quá trình dân chủ
hóa trên thế giới, cuốn sách phân tích nhiều vấn đề
lý luận và thực tiễn của quá trình dân chủ hóa XHCN ở
nước ta hiện nay. Tác giả đã phân tích làm rõ dân chủ
luôn là ước vọng của con người trong mọi thời đại. Nó
cần như cơm ăn, áo mặc, nước uống hằng ngày. Dân chủ
là thước đo chất lượng cuộc sống văn minh xã hội và
năng lực quản lý của một nhà nước. Dân chủ không phải
tự nhiên mà có. Nhận thức về vấn đề dân chủ đã khó
khăn và phức tạp, nhưng nhận thức về dân chủ hóa hay
quá trình hiện thực hóa những mơ ước, những giá trị

dân chủ trong đời sống còn khó khăn và phức tạp hơn.


7

Những vấn đề về mục tiêu, động lực, nội dung, hình
thức và phương pháp; nguyên nhân, kinh nghiệm, nguyên
tắc, phương châm và bước đi của dân chủ hóa luôn là
những vấn đề khó khăn và mới mẻ đòi hỏi phải giải
quyết.
- “Dân chủ - một giá trị văn hoá”, Tác giả Hồ Sĩ Vịnh, Tạp chí Tuyên giáo,
Thứ Sáu 25/11/2011 khẳng định, ở nước ta không có chuyện nhân quyền, dân
chủ cao hơn chủ quyền quốc gia như một số kẻ xấu thường rao giảng. Truyền
thống cộng đồng nhà, làng, nước là một cấu trúc bền vững có quan hệ hữu cơ
với nhau. Nước mất thì nhà tan, dân khổ; nước thịnh thì nhà yên, dân cường.
Truyền thống dựng nước và giữ nước của cha ông cho chúng ta bài học về
quyền dân chủ, quyền con người…
- “Dân chủ XHCN là mục tiêu và động lực của công
cuộc đổi mới đất nước”, GS, TS. Phạm Ngọc Quang, Tạp
chí Quốc phòng toàn dân, số 4 năm 2010. Bài viết nêu
rõ, dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta; vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước,
thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và
nhân dân. Quan điểm đó là sự kế thừa, bổ sung, phát
triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ XHCN và là kết quả
phù hợp với lôgíc phát triển tư duy lý luận của Đảng
ta về dân chủ trong quá trình đổi mới đất nước.
- “Dân chủ XHCN – Bản chất của chế độ, mục tiêu và động lực phát triển
đất nước”, GS. TS Hoàng Chí Bảo, báo Nhân Dân số ra ngày 29 tháng 2 năm

2010. Bài viết khẳng định, qua thực tiễn đổi mới, tư duy lý luận của Đảng cũng
đã vươn tới những quan điểm mới, mở ra một khả năng và triển vọng tốt đẹp để


8

xây dựng xã hội ta thành một xã hội dân chủ, trong đó nhân dân là người chủ
chân chính của Nhà nước và xã hội, là chủ thể quyền lực. Vấn đề đặt ra là cần
phải thực hành dân chủ rộng rãi và nghiêm túc, trước hết là dân chủ trong Đảng.
Sự phát triển lành mạnh dân chủ trong Đảng chẳng những làm tăng sức mạnh
của Đảng, mà còn nêu gương, thúc đẩy dân chủ trong xã hội.
- “Tìm hiểu việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở tại TP. Hồ
Chí Minh”, Tác giả Nguyễn Thanh Minh, Tạp chí Khoa
học Pháp luật số 6/2002, trường Đại học Luật TP Hồ
Chí Minh đánh giá, không ít người dân tại TP.HCM mới
chỉ biết khẩu hiệu mang nội dung dân chủ “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; còn nội hàm của từng
khái niệm thì họ chưa hiểu tường tận. Vì vậy, phải
tiếp tục tuyên truyền, phổ biến nội dung Quy chế dân chủ cơ
sở,

làm cho nhân dân ý thức được việc thực hiện quy

chế là vì mình, vì một xã hội tốt đẹp; hạn chế tới
mức tối đa việc hiểu và vận dụng sai tinh thần quy
chế, huy động quá khả năng đóng góp về vật chất và
tinh thần của nhân dân.
- “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính trị”, Tác giả Nguyễn Văn
Quang, Khoa Giáo dục Chính trị - Trường Đại học Sư phạm Huế, Tạp chí Xây
dựng Đảng số ra ngày 01 tháng 3 năm 2011. Tác giả bài viết nhấn mạnh, trong

suốt quá trình hoạt động lý luận và thực tiễn chỉ đạo cách mạng Việt Nam, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã xác lập và hiện thực hóa hệ thống quan điểm về dân chủ
trong tổ chức xây dựng xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực. Tư tưởng của Người
về dân chủ trong chính trị đã trở thành một bộ phận văn hóa của dân tộc Việt
Nam.
- “Nhìn lại 10 năm thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị


9

trấn”, Huỳnh Đảm, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 9/7/2008, đã làm rõ
thực trạng 10 năm thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn, quyền làm
chủ của nhân dân ở các địa phương trong cả nước được phát huy mạnh mẽ.
Các công trình nghiên cứu trên đã đi sâu nghiên cứu về việc thực hiện Quy chế dân chủ
gắn với tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở nói chung, ở cấp xã nói riêng. chỉ ra phương hướng
và giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường. Tuy nhiên, cho đến nay
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về thực hiện Quy chế dân chủ cơ
sở trong các trường THPT.

Đề tài nghiên cứu sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm cả về lý luận và thực tiễn
vấn đề thực hiện Quy chế dân chủ ở trường THPT trên địa bàn thành phố Tân An,
tỉnh Long An trong giai đoạn hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ
Mục đích
Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở
các trường THPT trên địa bàn thành phố Tân An, tỉnh Long An, luận văn xác định một số giải
pháp nhằm thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ trong trường học đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đổi
mới của ngành GD&ĐT tỉnh Long An hiện nay.


Nhiệm vụ
- Phân tích lý luận về dân chủ ở cơ sở và dân chủ trong trường học.
- Phân tích thực trạng, nguyên nhân và những kinh nghiệm thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở
các trường THPT trên địa bàn thành phố Tân An, tỉnh Long An .

- Đề xuất một số giải pháp để thực hiện có hiệu quả Quy chế dân chủ cơ sở các trường
THPT trên địa bàn thành phố Tân An, tỉnh Long An, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong các
trường THPT công lập trên địa bàn thành phố Tân An, tỉnh Long An qua khảo sát thực tế tại
các trường trong thành phố Tân An từ khi có Quy chế dân chủ cơ sở đến nay.


10

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận văn thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh;
các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được tổng kết trong các văn kiện của
Đảng; Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở;
Nghị định số 71/1998/NĐ-CP của Chính phủ về quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường và trong
hoạt động của cơ quan; Nghị định số 04/2015/NĐ-CP của Chính phủ về thực hiện dân chủ trong
hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập; Quyết định
04/2000/QĐ-BGDĐT của Bộ GD&ĐT về việc thực hiện Quy chế dân chủ trong các nhà trường
và các công trình nghiên cứu có liên quan.

Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận
mácxít; kết hợp lý luận với thực tiễn, sử dụng các phương pháp thống kê, điều

tra xã hội học, so sánh v.v...
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
- Góp phần luận chứng căn cứ khoa học của việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong các
trường THPT.

- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể cung cấp thêm những cơ sở khoa học nhằm thực
hiện tốt hơn Quy chế dân chủ cơ sở trong các trường THPT trên địa bàn thành phố Tân An, tỉnh
Long An nói riêng, ở các trường THPT và ngành giáo dục tỉnh Long An nói chung trong giai đoạn
hiện nay.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về dân chủ trong trường học.
Chương 2: Thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong các trường THPT công
lập trên địa bàn thành phố Tân An, tỉnh Long An.


11

Chương 3: Quan điểm và một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả Quy
chế dân chủ cơ sở trong các trường THPT công lập trên địa bàn thành phố Tân
An, tỉnh Long An hiện nay.

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DÂN CHỦ TRONG TRƯỜNG HỌC


12


1.1. Dân chủ, dân chủ cơ sở, dân chủ trường học
1.1.1. Dân chủ
Thuật ngữ dân chủ xuất hiện từ thời cổ đại. Người đầu tiên đưa ra khái niệm dân chủ
là nhà sử học, nhà chính trị học người Hy Lạp tên Hêrôđốt (484 - 425 trước Công nguyên) khi ông
xem xét các thể chế chính trị trong lịch sử. Theo ông, lịch sử đã xuất hiện ba kiểu thể chế chính
trị: quân chủ, quý tộc và dân chủ; trong đó dân chủ là thể chế chính trị do nhân dân nắm quyền lực
thông qua con đường bầu cử. Để chỉ một hiện thực dân chủ đã được thiết lập trên thực tế, trong
ngôn ngữ đã xuất hiện thuật ngữ democratia, nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân (democratia là
từ ghép của hai từ demos là nhân dân, cratos là quyền lực). Như vậy, với nguyên nghĩa của từ, dân
chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể của quyền lực, sử dụng quyền lực để tổ
chức, quản lý xã hội, phát triển xã hội, phát triển con người. Với ý nghĩa đó, dân chủ vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội - nhất là xã hội có giai cấp. Ngay từ xã hội cộng sản
nguyên thủy, con người đã biết sống gắn bó với nhau thành cộng đồng để tồn tại và phát triển. Họ
biết sử dụng sức mạnh của cộng đồng để thực hiện quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc. Một hình thức đặc biệt của dân chủ đã xuất hiện mà Ăngghen gọi là dân chủ quân sự
hay dân chủ nguyên thủy. Thông qua Đại hội nhân dân, nhân dân đã bầu ra Hội đồng thị tộc và
Thủ lĩnh quân sự, đồng thời quyết định những vấn đề quan trọng của thị tộc. Trong “nền dân chủ
quân sự”, quyền lực của nhân dân “thiêng liêng và bất khả xâm phạm, đều là một quyền lực tối
cao do tự nhiên ban cho, quyền lực mà mỗi người phải phục tùng một cách vô điều kiện, trong
tình cảm, tư tưởng, và hành động của mình” [15, tr. 149-150].

Sự phát triển của sản xuất và phân công lao động xã hội, phân hóa giai
cấp và đấu tranh giai cấp đã làm cho xã hội cộng sản nguyên thủy tan rã, hình
thành nên Nhà nước chiếm hữu nô lệ. Giai cấp chủ nô đã biến Nhà nước thành
công cụ thực hiện quyền lực chính trị, phục vụ lợi ích của mình. Nhà nước chủ
nô dân chủ là hình thức đầu tiên của chế độ dân chủ trong xã hội có giai cấp dân chủ của giai cấp chủ nô. Theo C.Mác, trong tác phẩm “Phê phán Cương lĩnh Gôta”
(1875), dân chủ tức là chính quyền của nhân dân. Trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”,
Lênin cũng cho rằng chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong những hình thái của
Nhà nước. Nhà nước chủ nô là hình thái dân chủ đầu tiên trong lịch sử nhưng không phải giành

cho nhân dân với tư cách là số đông mà là cho giai cấp chủ nô. Tuyệt đại bộ phận con người đã bị
đẩy xuống hàng nô lệ, trở thành “con vật biết nói”. Đây chính là một trong những nguyên nhân


13
khiến cho cuộc đấu tranh giành quyền dân chủ trở thành một trong những nội dung của cuộc đấu
tranh giai cấp.

Nền dân chủ sơ khai của xã hội loài người không được tiếp tục phát triển
ở thời kỳ lịch sử tiếp theo mà lại bị thủ tiêu bởi chế độ chuyên chế phong kiến.
Nhà nước phong kiến, độc đoán chuyên quyền câu kết với các thế lực của thần
quyền đã gạt nhân dân lao động ra khỏi cơ chế quyền lực. Cuộc đấu tranh giành
quyền lực - giành quyền làm chủ lại tiếp tục diễn ra gay gắt. Kết quả là chế độ
chuyên chế phong kiến lại bị một trật tự dân chủ mới mạnh mẽ hơn phủ định đó là chế độ dân chủ tư sản. Nền dân chủ tư sản mạnh mẽ vì nó dựa trên một nền
kinh tế - xã hội phát triển hơn so với các chế độ trước đó.
So với chế độ dân chủ sơ khai thời kỳ cổ đại, nền dân chủ tư sản đạt tới
trình độ phát triển cao hơn. Theo đó, các quan niệm về dân chủ được bắt đầu từ
khái niệm nhân dân là người chủ của quyền lực, có quyền và nghĩa vụ công dân
được pháp luật quy định và bảo vệ. Dưới chế độ dân chủ tư sản , địa vị xã hội của
công dân được pháp luật thành văn và không thành văn quy định. Nhưng nền dân chủ tư sản trong
thực chất còn rất nhiều hạn chế và không thoát khỏi sự mị dân nhằm bảo vệ quyền lợi cho giai cấp
tư sản cầm quyền. “Trong Nhà nước tư sản dân chủ nhất, quần chúng bị áp bức đều luôn vấp phải
các mâu thuẫn hiển nhiên giữa quyền bình đẳng hình thức do “chế độ dân chủ” của bọn tư bản
ban bố với hàng nghìn hạn chế và mánh khóe dối trá thực sự, đang biến những người vô sản thành
nô lệ làm thuê” [ 9, tr. 36]. Sự hạn chế và tính chất mị dân của dân chủ tư sản thể hiện như thế
nào? Dưới chế độ dân chủ tư sản cùng với sự tha hóa của con người là sự tha hóa về quyền lực,
đặc biệt là quyền lực chính trị. Đúng như nhận xét của C.Mác về chế độ dân chủ tư sản rằng bầu
cử trong chủ nghĩa tư bản là sự “tự do” của nhân dân lựa chọn những người thống trị mình. Trong
tác phẩm Nhà nước và cách mạng, Lênin có nhận xét tinh tế về bản chất chế độ dân chủ tư sản:
“Chế độ đại nghị tư sản là chế độ kết hợp chế độ dân chủ (không phải cho nhân dân) với chế độ

quan liêu (chống nhân dân)”

[8, tr.135].

Cơ sở bảo vệ lợi ích của nền dân chủ tư sản là bảo vệ, bênh vực và tạo
mọi cơ hội cho giai cấp tư sản ngày càng giàu có. Điều đó được thể hiện tập
trung trong các quy định pháp luật của Nhà nước tư sản. Chẳng hạn, các quy


14

định về kiểm soát tài sản, nơi cư trú, quy định về vận động tài chính cho các
cuộc bầu cử v.v... Nhà nước tư sản luôn luôn đề cao chức năng chính trị (thống
trị giai cấp) khi hình thành bất kỳ một quy định pháp luật nào để thực thi trong
xã hội. Trong xã hội tư bản, mâu thuẫn giữa tính chất giai cấp của giai cấp tư sản cầm quyền
với tính nhân dân (tính vô sản) của dân chủ càng trở nên gay gắt. Đó là một trong những nguyên
nhân dẫn đến cách mạng vô sản để giải quyết mâu thuẫn trên bằng việc thiết lập chế độ dân chủ
XHCN. Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ:
“Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải tự giành lấy chính quyền, phải tự mình vươn lên thành
giai cấp dân tộc” [14, tr. 623-624], phải giành lấy dân chủ với ý nghĩa trực tiếp là giành lấy quyền
lực Nhà nước (quyền làm chủ về chính trị), thiết lập Nhà nước dân chủ vô sản, chế độ dân chủ vô
sản. Đó là “chế độ sẽ thi hành ngay lập tức những biện pháp để chặt tận gốc chế độ quan liêu và
sẽ có thể thi hành những biện pháp ấy tới cùng, tới chỗ hoàn toàn phá hủy chế độ quan liêu, tới
chỗ hoàn toàn xây dựng một chế độ dân chủ cho nhân dân” [8, tr. 135]. Với ý nghĩa đó, chế độ
dân chủ vô sản, chế độ dân chủ XHCN đóng vai trò to lớn trong các cuộc đấu tranh giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội và con người, trở thành mục tiêu và động lực của cuộc cách mạng vô
sản.

Chế độ dân chủ XHCN là chế độ chính trị mà ở đó những giá trị dân
chủ, quyền lực của nhân dân được thể chế hóa thành pháp luật, thành những

nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, thành nguyên tắc mục
tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội, các giá trị và chuẩn mực dân chủ chi phối
hoạt động của mọi lĩnh vực xã hội. Sự thống nhất giữa dân chủ về chính trị pháp lý và dân chủ với tư cách là khát vọng, là quyền tự nhiên của con người,
trong đó có quyền sử dụng tất cả sức mạnh để thực hiện vai trò của người chủ và
quyền làm chủ đã lần lượt được nhiều giai cấp thống trị trong lịch sử nhận thức
và thể chế hóa thành nguyên tắc tổ chức và vận hành của Nhà nước cùng các
thiết chế chính trị khác nhau. Tuy nhiên, trong các chế độ dân chủ đã từng tồn
tại cho đến nay thì chỉ có chế độ dân chủ XHCN mới thực sự là chế độ dân chủ
của đa số nhân dân trong xã hội, là chế độ dân chủ của dân, do dân và vì dân.
1.1.2. Dân chủ cơ sở


15

Chủ nghĩa xã hội xác định mục tiêu xây dựng một nền dân chủ XHCN
“cao gấp triệu lần dân chủ tư sản” (V.I. Lênin). Đó là một nền dân chủ toàn diện
và triệt để trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội; tạo điều
kiện cho mọi thành viên trong xã hội làm chủ bản thân, làm chủ xã hội và làm
chủ tự nhiên. Đó là nhiệm vụ mà CNXH phải phấn đấu lâu dài mới thực hiện
được. Trong chế độ dân chủ XHCN, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của
mình vừa bằng hình thức gián tiếp thông qua bầu cử các cơ quan, tổ chức đại
diện thực hiện quyền tổ chức và quản lý xã hội; vừa bằng hình thức trực tiếp,
bảo đảm cho nhân dân có quyền tham gia quản lý xã hội một cách thiết thực và
hiệu quả, trước hết là ở cơ sở theo phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra. Sức sống của nền dân chủ XHCN do Đảng cộng sản lãnh đạo dựa trên
cơ sở thực hiện tốt và kết hợp chặt chẽ hai hình thức dân chủ nói trên, từ đó
động viên sức mạnh của toàn dân tham gia vào công cuộc phát triển kinh tế - xã
hội và bảo vệ tổ quốc. Theo Lênin: “Không phải chỉ tuyên truyền về dân chủ,
tuyên bố sắc lệnh về dân chủ là đủ, không phải chỉ giao trách nhiệm thực hiện
chế độ dân chủ cho “những người đại diện” nhân dân trong những cơ quan đại

diện là đủ. Cần xây dựng ngay chế độ dân chủ bắt đầu từ cơ sở, dựa vào sáng
kiến của bản thân quần chúng, với sự tham gia thật sự của quần chúng vào tất cả
đời sống của nhà nước, không có “sự giám sát” từ trên, không có quan lại” [ 10,
tr. 336-337].
Hiện nay, đề cao dân chủ trực tiếp là làm phong phú thêm hình thức thực hiện quyền lực
chính trị của nhân dân lao động, là xuất phát từ bản chất của chế độ XHCN, một chế độ từng bước
thực hiện trong thực tế mọi quyền lực thật sự thuộc về nhân dân. Trong nhiều trường hợp, dân chủ
trực tiếp có những ưu điểm mà dân chủ gián tiếp không có được. Đó là khả năng thể hiện một
cách khách quan ý chí, nguyện vọng của nhân dân không cần thông qua một hình thức trung gian
nào. Theo Lênin: “Phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem
thử nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn v.v..., đó là một trong những nhiệm vụ cấu thành
của cuộc đấu tranh cách mạng xã hội” [8, tr.97] và thể hiện một cách ưu việt nhất quyền lực của
nhân dân trong việc quản lý xã hội.


16

Nhận rõ bản chất của dân chủ XHCN, ngay từ khi chính quyền nhân dân
mới được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền lực Nhà nước là của nhân
dân. Theo đó, “Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, để
phát huy tính tích cực và sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự
tham gia công việc quản lý của Nhà nước” [21, tr. 590]. Hồ Chí Minh thấy rất rõ rằng: “Có lực
lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng
không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà
những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra” [17, tr. 295]. Người nhấn mạnh
việc thực thi dân chủ ở từng địa phương, từng cơ sở, từng cán bộ, từng người dân, từng công việc
cụ thể. Vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân phải làm cho dân hiểu được quyền lợi và
nghĩa vụ của mình trong vị thế của người làm chủ. Theo Hồ Chí Minh, “chế độ ta là chế độ dân
chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý
kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi

người” [20, tr. 216]. Vì vậy, Người yêu cầu: “Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến
và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương” [17,
tr. 698-699].

Khi dân được biết, được hiểu, được bàn bạc xây dựng kế hoạch của địa
phương, cơ sở mình, họ sẽ dùng chính sức lao động của họ và những việc làm
cụ thể một cách tự giác. Khi thi hành một công việc xong, theo Hồ Chí Minh,
việc kiểm tra rút kinh nghiệm là vô cùng quan trọng và cần thiết giúp chúng ta
thực hiện tốt những công việc khác. Dân kiểm tra cán bộ, cán bộ kiểm tra dân,
dân và cán bộ cùng kiểm tra mọi hoạt độ ng. “Lề lối làm việc phải dân chủ. Cấp trên phải
thường xuyên kiểm tra cấp dưới. Cấp dưới phải phê bình cấp trên” [19, tr. 9]; “nhất là phê bình từ
dưới lên” [20, tr. 157]. Dân kiểm tra là một nội dung quyền dân chủ của nhân dân về xây dựng
Đảng, xây dựng Nhà nước và các đoàn thể nhân dân thật sự vững mạnh, trong sạch; bảo vệ lợi ích
chính đáng, hợp pháp của nhân dân. Việc đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu, cậy thế trái
phép v.v... chỉ có thể thực hiện có hiệu quả nếu thật sự dựa vào sự kiểm tra, giám sát của quần
chúng nhân dân.

Nền dân chủ XHCN ở nước ta được khẳng định trong đường lối của
Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Hệ thống chính quyền ở nước ta gồm 4 cấp: trung
ương, tỉnh (thành phố trực thuộc), huyện (thị, quận) và xã (phường) đều vận hành theo nguyên tắc


17
tập trung dân chủ, nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ XHCN. Hiệu quả của dân chủ thể hiện trực
tiếp đến nhân dân là ở cấp cơ sở, là cấp chính quyền cuối cùng trong hệ thống chính quyền nhà
nước, các pháp nhân công quyền, các pháp nhân kinh tế, bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu
… Đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước có đi vào cuộc sống hay không tùy thuộc chủ
yếu vào sự quán triệt và thực hiện như thế nào ở cấp cơ sở. Cơ sở xã, phường, cơ quan, doanh
nghiệp v.v.. là nơi trực tiếp thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; là địa bàn
nhân dân sinh sống, lao động, sản xuất, học tập và công tác; là nơi diễn ra các mối quan hệ nhiều

mặt giữa các tầng lớp nhân dân với các cấp ủy Đảng và chính quyền, cán bộ, đảng viên, công
chức điều hành và xử lý công việc hàng ngày. Nhân dân đòi hỏi được biết, được bàn và được
tham gia giải quyết những vấn đề đặt ra ở cơ sở, đồng thời có yêu cầu kiểm tra, giám sát hoạt
động hàng ngày của cấp ủy, chính quyền và cán bộ lãnh đạo. Điều đó có nghĩa là nhân dân có
quyền làm chủ từ cơ sở và ở cơ sở.

Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là thể hiện tư tưởng về dân chủ
cơ sở của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ Đại hội VI, Đảng ta đã chủ trương thực hiện có nề nếp
phương châm này và chủ trương đó ngày càng được thực tế kiểm nghiệm tính cần thiết khách
quan của nó. Để quá trình dân chủ hóa thực sự đi vào cuộc sống cần cụ thể hóa phương châm này,
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 6/1997) khẳng
định khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là
nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện
quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Theo tinh thần Nghị quyết đó, Bộ
Chính trị đã ra Chỉ thị 30-CT/TW tháng 2/1998 và Chính phủ đã ban hành Quy chế dân chủ ở xã,
phường, thị trấn, cơ quan và doanh nghiệp nhà nước. Đó là những văn bản có tính chính trị và
pháp lý làm cơ sở để mọi người, mọi tổ chức ở cơ sở xây dựng và thực hành dân chủ - làm chủ.

Dân chủ ở cơ sở là quyền dân chủ trực tiếp của người dân, được tiến
hành từ cấp xã, phường trở xuống (đến cấp thôn xóm, đơn vị, cơ quan, nhà máy,
xí nghiệp) theo phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Dân chủ
ở cơ sở, trước hết là dân chủ trực tiếp, là hình thức nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình
bằng cách trực tiếp thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình đối với tổ chức và hoạt động của cơ
quan chính quyền ở cơ sở. Có nhiều cách thức để thực hiện dân chủ trực tiếp ở cơ sở như: trưng
cầu dân ý; bầu và bãi miễn đại biểu cơ quan dân cử; bàn bạc, thảo luận, tham gia quyết định,
Giám sát, kiểm tra việc thực hiện các vấn đề phát triển kinh tế - xã hội, trật tự an ninh ở cơ sở; tố
cáo, khiếu nại; xây dựng quy định, quy chế tự quản v.v... và cơ sở ở đây là xã, phường; là cơ


18

quan, đơn vị, trong đó có trường học, trường THPT.

Nội dung Quy chế dân chủ cơ sở của Đảng, Chính phủ:
Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ:

Nội dung Quy chế dân chủ ở cơ sở cần chú

trọng làm rõ những vấn đề sau:
+ Quy định quyền của mọi người dân ở cơ sở được thông tin về pháp
luật, các chủ trương, chính sách của Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan
trực tiếp đến đời sống và lợi ích hàng ngày của nhân dân tại cơ sở; có chế độ và
hình thức báo cáo công khai trước dân công việc của chính quyền, cơ quan, đơn
vị về sản xuất và phân phối, về việc sử dụng công quỹ, tài sản công, về thu, chi
tài chính, các khoản đóng góp của dân, quyết toán các công trình xây dựng cơ
bản, chế độ thu và sử dụng học phí, viện phí...
+ Có quy chế và các hình thức để nhân dân, cán bộ, công chức ở cơ sở
được bàn bạc và tham gia ý kiến vào các chủ trương, chính sách, nhiệm vụ công
tác chuyên môn, công tác cán bộ... của chính quyền, cơ quan, đơn vị; kết quả ý
kiến đóng góp phải được xem xét, cân nhắc khi chính quyền hoặc thủ trưởng ra
quyết định.
+ Có quy định về việc để nhân dân bàn và quyết định dân chủ đối với
những loại việc liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân trên địa bàn (như
chủ trương huy động sức dân để xây dựng kết cấu hạ tầng và các công trình
phúc lợi, các khoản đóng góp và lập các loại quỹ trong khuôn khổ pháp luật...);
chính quyền, thủ trưởng cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện theo ý kiến của đa số
nhân dân, có sự giám sát, kiểm tra của nhân dân.
+ Hoàn thiện cơ chế để nhân dân, công nhân, cán bộ, công chức ở cơ sở
trực tiếp và thông qua Mặt trận, các đoàn thể, Ban thanh tra nhân dân kiểm tra,
giám sát hoạt động của chính quyền, thủ trưởng cơ quan, đơn vị; kết quả thanh
tra, kiểm tra, giám sát của nhân dân phải được tiếp thu nghiêm túc.



19

+ Mở rộng các hình thức tổ chức tự quản để nhân dân, công nhân, cán
bộ, công chức tự bàn bạc và thực hiện trong khuôn khổ pháp luật những công
việc mang tính xã hội hoá, có sự hỗ trợ của chính quyền, cơ quan, đơn vị (như
việc xây dựng hương ước, quy ước làng văn hoá, xây dựng tổ hòa giải, tổ an ninh,
phong trào vệ sinh - môi trường, đền ơn đáp nghĩa, giúp đỡ người nghèo, v.v.).
+ Xác định rõ trách nhiệm và tổ chức tốt việc tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố cáo và trả
lời thắc mắc của nhân dân, công nhân, công chức ở cơ sở, chính quyền, cơ quan, đơn vị mình,
nghiêm cấm mọi hành vi trù dập người khiếu nại, tố cáo.
+ Xác định trách nhiệm của tổ chức chính quyền, thủ trưởng cơ quan, đơn vị cơ sở định
kỳ (ba tháng, sáu tháng, một năm) báo cáo công việc trước dân, phải tự phê bình và tổ chức để
nhân dân, công nhân, cán bộ, công chức ở cơ sở góp ý kiến, đánh giá, phê bình; nghiêm túc tiếp
thu những ý kiến đóng góp đó.

Ngày 09 tháng 01 năm 2015, Chính phủ ban hành Nghị định
04/2015/NĐ-CP về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính
nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập, thay thế Nghị định số 71/1998/NĐ-CP
ngày 08 tháng 9 năm 1998. Nghị định quy định thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ
quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập bao gồm: dân chủ trong nội bộ cơ quan,
đơn vị; dân chủ trong quan hệ và giải quyết công việc với công dân, cơ quan, tổ chức có liên quan.
Dân chủ trong nội bộ cơ quan, đơn vị bao gồm: trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị
và của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện dân chủ trong hoạt động nội bộ của cơ
quan, đơn vị; những việc phải công khai để cán bộ, công chức, viên chức biết; những việc cán bộ,
công chức, viên chức tham gia ý kiến, người đứng đầu cơ quan quyết định; những việc cán bộ,
công chức, viên chức giám sát, kiểm tra. Dân chủ trong quan hệ và giải quyết công việc với công
dân, cơ quan tổ chức có liên quan bao gồm: trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan đơn vị và
của cán bộ, công chức, viên chức trong quan hệ và giải quyết công việc với công dân, cơ quan, tổ

chức có liên quan; quan hệ giữa người đứng đầu cơ quan, đơn vị với cơ quan cấp trên và với cơ
quan cấp dưới.

1.1.3. Dân chủ trường học
Tiếp thu và vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh
ý thức rằng, “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” và “Dốt nát cũng là kẻ địch”. Ngay sau khi


20
nước nhà giành được độc lập, Người đã lo ngay đến việc “giáo dục lại nhân dân”, nhiệm vụ diệt
giặc đói và giặc dốt gắn liền với nhau. Vì vậy, “vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích
trăm năm thì phải trồng người” [21, tr. 222]. Người xác định trường học là nơi đào tạo những
người chủ tương lai của đất nước, những công dân có ích cho nước Việt Nam. Do đó, trường học
của chúng ta khác hẳn với trường học của thực dân và phong kiến. Người nói: “Trường học của
chúng ta là trường học của chế độ dân chủ nhân dân, nhằm mục đích đào tạo những công dân và
cán bộ tốt, những người chủ tương lai tốt của nước nhà. Về mọi mặt, trường học của chúng ta phải
hơn hẳn trường học của thực dân và phong kiến” [20, tr. 80].

Chính vì trường học của chúng ta là trường học của chế độ dân chủ nhân
dân nên cần phải thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục. Chủ tịch Hồ Chí
Minh dạy: “Trong trường học cần phải có dân chủ. Đối với mọi vấn đề, thầy và trò cùng nhau
thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu. Điều gì chưa thông suốt, thì hỏi, thì bàn cho thông
suốt. Dân chủ nhưng trò phải kính thầy, thầy phải quý trò, chứ không phải là “cá đối bằng đầu”.
Đồng thời, thầy và trò cần giúp đỡ những anh em phục vụ cho nhà trường. Các anh chị em nhân
viên thì nên thi đua để cho cơm lành canh ngọt, để học sinh ăn no, học tốt” ” [19, tr. 456]. Quan
điểm về dân chủ trong trường học của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện đầy đủ qua các mối
quan hệ trong nhà trường, mối quan hệ giữa nhà trường với nhân dân ,“Giáo dục là sự nghiệp của
quần chúng. Cần phải phát huy đầy đủ dân chủ XHCN, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật
chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà
trường và nhân dân để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó” [22, tr. 403]. Bác khẳng định, để thực

hiện dân chủ cần quan niệm giáo dục không bó hẹp trong nhà trường mà giáo dục trong nhà
trường chỉ là một phần, ngoài ra cần có sự giáo dục trong gia đình, ngoài xã hội để giúp cho việc
giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Ngày 31/10/1955, khi miền Bắc mới được giải phóng, Hồ
Chí Minh viết: “Tôi cũng mong các gia đình liên lạc chặt chẽ với nhà trường, giúp nhà trường
giáo dục và khuyến khích con em chăm chỉ học tập, sinh hoạt lành mạnh và hăng hái giúp ích
nhân dân” [20, tr. 81].

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp giáo dục mà chúng ta xây dựng là
một bộ phận cấu thành quan trọng của công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta. Sự
nghiệp giáo dục này có nhiệm vụ đào tạo ra các thế hệ công dân trung thành với
sự nghiệp cách mạng, có đầy đủ năng lực và bản lĩnh vượt qua mọi thách thức
của thời đại, đưa đất nước tiến lên đuổi kịp trào lưu phát triển tiến bộ chung của


21

khu vực và quốc tế. Bản chất của nền giáo dục nước ta từ sau Cách mạng tháng Tám
năm 1945 đến nay là nền giáo dục XHCN. Nền giáo dục này luôn gắn bó với những nhiệm vụ
chính trị của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Mục đích chung của nền
giáo dục ở nước ta là phấn đấu xây dựng nền giáo dục thực sự của dân, do dân và vì dân. Nền giáo
dục này hướng tới xóa bỏ mọi sự bất bình đẳng về giai cấp, dân tộc và xã hội, phát huy mọi tiềm
năng văn hóa của nhân dân. Đảng và Nhà nước ta xây dựng và phát triển hệ thống giáo dục quốc
dân theo hướng mục tiêu của từng cấp học gắn với quá trình dân chủ hóa giáo dục, tạo cơ hội để
các cá nhân và cộng đồng có điều kiện học tập và phát triển năng lực của mình.

Quá trình dân chủ hóa giáo dục được thể hiện trong toàn bộ hệ thống
giáo dục, cho đến từng cơ sở trường học. Trong trường học, dân chủ được thể
hiện ở quyền và nghĩa vụ của CB-GV-NV đối với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của
nhà trường. CB-GV-NV trong nhà trường phát huy quyền làm chủ của mình theo phương châm:
được biết, được bàn, được tham gia ý kiến, được giám sát kiểm tra mọi mặt hoạt động của nhà

trường. Dân chủ gắn với kỷ cương, việc thực hiện dân chủ nhưng vẫn đảm bảo các nguyên tắc, sự
lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước đối với sự nghiệp phát triển giáo dục. Trong trường
học, việc thực hiện dân chủ của CB-GV-NV, của người học trên cơ sở sự lãnh đạo của chi bộ, sự
quản lý của BGH. Các đoàn thể, tổ chức trong nhà trường có vai trò to lớn trong việc tham gia,
việc thực hiện dân chủ ở trường học.

Cũng như các Quy chế dân chủ ở các cơ sở khác, Quy chế thực hiện dân chủ trong
hoạt động của nhà trường là loại văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước ban hành, có
hiệu lực bắt buộc ở cơ sở các nhà trường, là công cụ chỉ dẫn, đồng thời là cơ sở pháp lý để giám
sát, kiểm tra đối với những người thuộc quyền. Thực hiện dân chủ chính là sự tập hợp trí tuệ của
đội ngũ cán bộ, giáo viên, người học để thống nhất trong hoạt động, nâng cao chất lượng giáo
dục.

Thực hiện dân chủ trong nhà trường nhằm thực hiện tốt nhất, có hiệu quả
nhất những điều Luật Giáo dục quy định theo phương châm “dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra" trong các hoạt động của nhà trường thông qua các hình
thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện; đảm bảo cho công dân, cơ quan, tổ chức
được quyền giám sát, kiểm tra, đóng góp ý kiến tham gia xây dựng sự nghiệp giáo dục, làm cho
sự nghiệp giáo dục thực sự là của dân, do dân và vì dân.


22

Thực hiện dân chủ trong nhà trường còn nhằm phát huy quyền làm chủ
và huy động tiềm năng trí tuệ của hiệu trưởng, nhà giáo, người học, đội ngũ cán
bộ, công chức trong nhà trường nhà trường theo luật định, góp phần xây dựng nề
nếp, trật tự, kỷ cương trong mọi hoạt động của nhà trường, ngăn chặn các hiện
tượng tiêu cực và tệ nạn xã hội, thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục phù hợp
với đường lối, chủ trương của Đảng và luật pháp của Nhà nước.
Thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trường học luôn có nhiều thuận lợi. Đội

ngũ cán bộ, giáo viên hầu hết đều là những người luôn tận tâm với công việc, có ý thức chính trị,
phẩm chất đạo đức và đạo đức nghề nghiệp tốt, có tinh thần trách nhiệm, sáng tạo trong công tác
quản lý và giảng dạy, luôn chấp hành nghiêm túc đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật
của Nhà nước.

Như vậy, dân chủ ở cơ sở trong trường học là việc thực hiện một cách
trực tiếp quyền làm chủ của CB-GV-NV, thực hiện quyền làm chủ trực tiếp của học sinh và
phụ huynh học sinh trong việc thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ của giáo dục. Dân chủ, thực hành
dân chủ cụ thể ở cơ sở trong trường học là yêu cầu khách quan và ngày càng bức thiết đối với các
tổ chức đảng, chính quyền và đoàn thể trong nhà trường nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ dạy và học,
xây dựng nền giáo dục thực sự của dân, do dân và vì dân.

1.2. Nội dung, yêu cầu và hình thức th ực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong
trường trung học phổ thông

1.2.1. Nội dung
Quy chế dân chủ trong trường THPT thường bao gồm những nội dung sau:
- Những quy định chung
- Mục đích việc thực hiện dân chủ trong nhà trường:
+ Thực hiện dân chủ trong nhà trường nhằm phát huy tốt nhất, có hiệu quả
nhất quyền làm chủ của cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh, các tổ chức, đoàn
thể trong nhà trường, Ban đại diện cha mẹ học sinh thông qua các hình thức dân
chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm,


23

dân kiểm tra”, đảm bảo quyền giám sát, đóng góp ý kiến xây dựng và thực hiện
trách nhiệm đối với sự nghiệp giáo dục của nhà trường.
+ Thực hiện dân chủ trong nhà trường nhằm phát huy quyền làm chủ và

huy động trí tuệ của hiệu trưởng, nhà giáo, học sinh trong việc thực hiện Điều lệ
nhà trường, xây dựng kỷ cương, nền nếp trong mọi hoạt động của nhà trường;
phòng, chống, ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực và tệ nạn xã hội; thực hiện
nhiệm vụ phát triển giáo dục phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng và
pháp luật của Nhà nước.
+ Phát huy tinh thần phê bình, tự phê bình thẳng thắn, chân tình, xây dựng
hướng tới một tập thể sư phạm trong sạch vững mạnh.
- Nguyên tắc thực hiện dân chủ trong nhà trường:
+ Phát huy dân chủ phải đảm bảo có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện đúng trách nhiệm của hiệu
trưởng và phát huy vai trò của các tổ chức, đoàn thể: Công đoàn, Đoàn thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên Hiệp thanh niên Việt Nam, Ban đại diện
cha mẹ học sinh trong nhà trường.
+ Thực hiện dân chủ trong nhà trường phải phù hợp với Hiến pháp và pháp
luật; quyền phải đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm; dân chủ phải tôn trọng kỷ
luật, kỷ cương, nền nếp trong nhà trường, không đựơc có những hành vi lợi
dụng dân chủ, xâm phạm quyền tự do dân chủ làm ảnh hưởng đến uy tín và hoạt
động của nhà trường.
- Quy chế dân chủ được thực hiện trong các hoạt động của một nhà trường
cụ thể.
Thực hiện dân chủ trong nội bộ nhà trường gồm:
- Trách nhiệm của hiệu trưởng:


24

+ Quản lý, điều hành mọi hoạt động của nhà trường, chịu trách nhiệm trước
pháp luật và cấp trên về toàn bộ hoạt động của nhà trường.
+ Tổ chức thực hiện những quy định về trách nhiệm của cán bộ, nhà giáo,
nhân viên, học sinh trong quy chế.

+ Triển khai đầy đủ, kịp thời những chủ trương, chính sách, luật pháp của
Đảng và Nhà nước, quy chế, quy định của ngành, kế hoạch thực hiện nhiệm vụ
chính trị của đơn vị, tiêu chuẩn thi đua, phong trào thi đua để đội ngũ trong đơn
vị quán triệt, chấp hành, thực hiện tốt.
+ Lắng nghe và tiếp thu ý kiến của cá nhân, tổ chức đoàn thể trong nhà
trường để có quyết định quản lý phù hợp. Giải quyết đúng các chế độ, chính
sách hiện hành của Nhà nước, quy chế, nội quy, điều lệ nhà trường và phù hợp
với thẩm quyền, trách nhiệm đựơc giao của hiệu trưởng.
+ Thực hiện chế độ hội họp theo đúng định kì. Các cuộc họp, hội nghị phải
có kết luận hoặc nghị quyết để làm cơ sở chỉ đạo thực hiện.
+ Thực hiện chế độ công khai, minh bạch về: kế hoạch năm học, kế hoạch
hoạt động chuyên môn, nội quy nhà trường; sử dụng tài chính, tài sản; xây dựng
cơ bản; chế độ, chính sách; về đào tạo, bồi dưỡng; đánh giá cán bộ, giáo viên,
nhân viên hàng năm.
+ Gương mẫu, tạo sự đồng thuận đoàn kết nội bộ, đấu tranh chống những
biểu hiện cửa quyền, sách nhiễu, thành kiến, trù dập, báo cáo sai sự thật, tham
nhũng, lãng phí.
+ Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí nhà trường;
phối hợp chặt chẽ với các tổ chức, đoàn thể, các cá nhân, phát huy dân chủ trong
tổ chức và hoạt động của nhà trường; bảo vệ và giữ gìn uy tín của nhà trường.
+ Hướng dẫn, đôn đốc, tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động của cấp
dưới trong việc thực hiện dân chủ


25

+ Thực hiện kiểm tra, giám sát định kì, sơ kết, tổng kết kịp thời; chấn chỉnh
những tồn tại, thiếu sót; đồng thời biểu dương những cá nhân, tập thể thực hiện
tốt.
+ Phát huy vai trò giám sát của các tổ chức đoàn thể, ban thanh tra nhân

dân
+ Kết hợp với chi ủy thực hiện nghị quyết của chi bộ và kết hợp chặt chẽ
với các tổ chức, đoàn thể của nhà trường trong việc thực hiện nhiệm vụ chuyên
môn; đồng thời tạo điều kiện cho giáo viên, học sinh tham gia đối thoại với nhà
trường định kì 6 tháng/lần.
- Những việc hiệu trưởng phải lấy ý kiến tham gia đóng góp xây dựng của
các cá nhân, các tổ chức, đoàn thể trong nhà trường trước khi quyết định:
+ Kế hoạch phát triển của nhà trường, kế hoạch năm học, tuyển sinh, dạy
học, nghiên cứu khoa học.
+ Kế hoạch đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, tăng cường, tuyển dụng; đào
tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ, giáo viên, nhân viên.
+ Biện pháp tổ chức phong trào thi đua, khen thưởng hằng năm, lề lối làm
việc, nội quy nhà trường.
+ Kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất của nhà trường, các hoạt động dịch vụ
của nhà trường (nếu có).
+ Báo cáo sơ kết, tổng kết năm học hàng năm.
- Trách nhiệm của giáo viên, nhân viên:
+ Thực hiện đầy đủ trách nhiệm và quyền hạn của nhà giáo theo quy định
của Luật Giáo dục và Điều lệ nhà trường.
+ Tham dự hội họp đầy đủ, tích cực đóng góp ý kiến xây dựng nhà trường
+ Kiên quyết đấu tranh chống những hiện tượng tiêu cực trong thi cử, bè


×