Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Nghiên cứu một số chỉ số sinh học ở bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2 điều trị tại bệnh viện đa khoa tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (619.51 KB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
............... ∗∗∗ ..................

Trần Thị Trà My

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ CHỈ SỐ SINH HỌC
Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TUÝP 2 ĐIỀU
TRỊ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH THANH HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC SINH HỌC


2
Nghệ An, 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
............... ∗∗∗ ..................

Trần Thị Trà My

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ CHỈ SỐ SINH HỌC
Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TUÝP 2 ĐIỀU
TRỊ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH THANH HÓA
Chuyên ngành: Sinh học thực nghiệm
Mã số: 60.42.01.14


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC SINH HỌC

Người hướng dẫn khoa học : TS. Trần Đình Quang

Nghệ An, 2015


i

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ về mọi
mặt của các cơ quan, đơn vị, các thầy, cô giáo cũng như gia đình và
bạn bè.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau
đại học Trường Đại học Vinh đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi
cho tôi học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc, Phòng Kế hoạch
tổng hợp, Khoa Nội tiết Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa, tập thể
y bác sĩ trong khoa đã hướng dẫn và tạo điều kiện cho tôi trong quá
trình thực hiện luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy, cô giáo trong Khoa
Sinh học đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Tiến sĩ Trần Đình
Quang, người thầy đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình giúp đỡ tôi
trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn tại
Nhà trường.
Cuối cùng, tôi xin được gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè,
các bạn đồng nghiệp, cùng tập thể anh chị em học viên lớp cao học
K21- Sinh học thực nghiệm đã động viên, ủng hộ tôi rất nhiều trong
quá trình học tập và hoàn thành luận văn này.

Tác giả
Trần Thị Trà My


ii

MỤC LỤC


iii

CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
ADA

Hiệp hội đái tháo đường Hoa Kỳ
(American diabetes Association)

BMI

Chỉ số khối cơ thể
(Body Mass Index)

ĐTĐ

Đái tháo đường

IDF

Hiệp hội Đái tháo đường Quốc tế
(International Diabetes Federation)


JNC

Liên ủy ban Quốc gia Hoa Kỳ
(United States Joint National Committee)

HDL- C

Cholesterol tỷ trọng cao
(High Density Lipoprotein - Cholesterol)

LDL- C

Cholesterol tỷ trọng thấp
(Low Density Lipoprotein - Cholesterol)

TC

Cholesterol toàn phần
(Total Cholesterol )

TG

Triglycerid

THA

Tăng huyết áp

UKPDS


Nghiên cứu tiến cứu về đái tháo đường của Vương quốc Anh
(United Kingdom Prospective Diabetes Study)

WHO

Tổ chức Y tế Thế giới
(World Health Organization)

RBC

Số lượng hồng cầu
(Red blood cells)

WBC

Số lượng bạch cầu
(White blood cells)


iv

DANH MỤC BẢNG BIỂU


v

DANH MỤC HÌNH VẼ



1
ĐẠT VẮN ĐỀ
Theo dự báo của các chuyên gia y tế từ những năm 90 của thế kỷ XX
thì “Thế kỷ 21 là thế kỷ của các bệnh Nội tiết và Rối loạn chuyển hoá” đã và
đang trở thành hiện thực [5]. Trong đó, đái tháo đường là bệnh không lây
nhiễm được WHO quan tâm hàng đầu trong chiến lược chăm sóc sức khoẻ
cộng đồng.
Đái tháo đường là một bệnh mạn tính do thiếu insulin tương đối hay
tuyệt đối mà hậu quả của nó gây tăng glucose máu dẫn tới các rối loạn chuyển
hóa glucide, lipid, protein và các khoáng chất [2]. Đái tháo đường là căn bệnh
mạn tính nguy hiểm, diễn biến âm thầm, lặng lẽ không hề có sự cảnh báo
trước. Khoảng 64% người bệnh phát hiện bị tiểu đường khi đã xuất hiện các
biến chứng nguy hiểm như: biến chứng tim mạch, biến chứng về mắt, biến
chứng bàn chân,...
Theo tổ chức Y tế Thế giới, năm 2000 có khoảng 151 triệu người bị bệnh
đái tháo đường, đến năm 2006 là 246 triệu người và dự đoán đến năm 2025 sẽ
là 333 triệu người. Hiện nay có khoảng 5 - 6% người trưởng thành trên thế
giới mắc bệnh đái tháo đường, tốc độ trẻ hóa bệnh ngày càng tăng nhanh [4].
Đái tháo đường là bệnh mang tính xã hội cao ở nhiều quốc gia bởi tốc
độ phát triển nhanh chóng, mức độ nguy hại đến sức khoẻ. Hiện nay, đái
tháo đường là một trong những bệnh không lây nhiễm phổ biến nhất, là
nguyên nhân gây tử vong hàng thứ tư ở các nước đang phát triển. Đái tháo
đường còn trở thành lực cản của sự phát triển, gánh nặng cho toàn xã hội khi
mà mỗi năm thế giới phải chi số tiền khổng lồ từ 232 tỷ đến 430 tỷ USD
cho việc phòng chống và điều trị [5, 56].
Tốc độ phát triển của bệnh đái tháo đường tỉ lệ thuận với sự phát triển
công nghiệp, đô thị hóa, sự thay đổi nền kinh tế và lối sống. Bệnh phát triển
nhanh gấp 6 lần bệnh tim mạch. Tuy nhiên, tỉ lệ mắc bệnh đái tháo đường
thay đổi theo từng nước, từng vùng địa lý và khu vực có mức độ phát triển



2
khác nhau [4]
Việt Nam không xếp vào 10 nước có tỷ lệ mắc đái tháo đường cao
nhưng lại là quốc gia có tốc độ phát triển bệnh nhanh. Một nghiên cứu của
Bệnh viện Nội tiết Trung ương cho thấy, tỷ lệ mắc đái tháo đường ở Việt
Nam tăng nhanh từ 2,7% (năm 2002) lên 5% (năm 2012), tăng 211% sau 10
năm, trong đó có tới 65% người bệnh không biết mình mắc bệnh [5].
Đái tháo đường đang là vấn đề thời sự cấp bách của sức khoẻ cộng
đồng Cho đến nay, nhiều công trình nghiên cứu về đái tháo đường đã được
tiến hành trên phạm vi cả nước nhưng để xác định được cụ thể yếu tố cốt lõi
của bệnh đái tháo đường, cần tăng cường thêm những nghiên cứu điều tra
phân tích chính xác về các chỉ tiêu hình hình thái, sinh lí, hóa sinh và các biến
chứng thường gặp của bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2, nhằm góp phần vào
công tác chữa trị sau này.
Tại Thanh Hóa, trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển về
kinh tế, đời sống nhân dân được cải thiện thì tỷ lệ bệnh nhân đái tháo đường
tại các cơ sở khám chữa bệnh đang ngày một gia tăng. Biện pháp hữu hiệu
để làm giảm tiến triển và biến chứng của bệnh, chi phí cho chữa bệnh ít tốn
kém nhất là phải phát hiện sớm và điều trị người bệnh kịp thời. Tuy
nhiên, công tác phát hiện sớm, chăm sóc và điều trị bệnh đái tháo đường tại
Thanh Hóa còn rất nhiều hạn chế.
Để góp phần cung cấp dẫn liệu cho việc tìm hiểu và ngăn ngừa bệnh đái
tháo đường tuýp 2 ở tỉnh Thanh Hóa, tôi chọn đề tài: "Nghiên cứu một số chỉ
số sinh học ở bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2 điều trị tại Bệnh viện Đa
khoa tỉnh Thanh Hóa ".
* Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
- Đánh giá thực trạng bệnh đái tháo đường tuýp 2 thông qua bệnh nhân
đến điều trị tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa.
- Phân tích một số chỉ số sinh lí, sinh hóa máu, huyết học của bệnh nhân

đái tháo đường tuýp 2.


3
- Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến bệnh đái tháo đường tuýp 2, qua
đó góp phần phát hiện và phòng chống bệnh đái tháo đường tuýp 2.
* Nội dung nghiên cứu
1. Điều tra thực trạng bệnh đái tháo đường ở bệnh nhân điều trị ngoại trú
tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa.
2. Nghiên cứu một số chỉ số liên quan đến bệnh đái tháo đường:
a. Các chỉ số nhân trắc học: Vòng bụng, vong mông, chỉ số vòng
bụng/vòng mông, chỉ số BMI (Body Mass Index).
b. Các chỉ số huyết áp.
c. Các chỉ số hóa sinh máu:
- Cholesterol toàn phần.
- Chỉ số glucose máu lúc đói.
- HDL- c (High density lipoprotein – Cholesterrol), LDL- c
(Low densty lipoprotein – Cholesterol).
- Tryglycerid.
- HbA1c.
- Creatinin.
d. Chỉ số xét nghiệm nước tiểu: Protein niệu.
e. Chỉ số huyết học: WBC – số lượng bạch cầu, RBC – số lượng hồng
cầu.
f. Một số yếu tố liên quan đến bệnh đái tháo đường.


4
Chương 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu bệnh đái tháo đường

Trong các bệnh chuyển hoá, đái tháo đường là bệnh lý thường gặp
nhất và có lịch sử nghiên cứu rất lâu năm nhưng những thành tựu nghiên
cứu về bệnh chỉ có được trong vài thập kỷ gần đây.
Thế kỷ thứ nhất sau công nguyên, Aretaeus đã bắt đầu mô tả về những
người mắc bệnh đái nhiều. Dobson (1775) lần đầu tiên hiểu được vị ngọt
của nước tiểu ở những bệnh nhân đái tháo đường là do sự có mặt glucose [5].
Năm 1869, Langerhans tìm ra tổ chức tiểu đảo, gồm 2 loại tế bào bài
tiết ra insulin và glucagon không nối với đường dẫn tụy. Năm 1889,
Minkowski và Von Mering gây đái tháo đường thực nghiệm ở chó bị cắt bỏ
tụy, đặt cơ sở cho học thuyết đái tháo đường do tụy [50].
Năm 1921, Banting và Best cùng các cộng sự đã thành công trong
việc phân lập insulin từ tụy [5]. Vào các năm 1936, 1976 và 1977 các tác giả
Himsworth, Gudworth và Jeytt phân loại đái tháo đường thành hai tuýp là
đái tháo đường tuýp 1 và tuýp 2 [50].
Nghiên cứu DDCT (Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng về kiểm soát
bệnh và biến chứng đái tháo đường, được công bố năm 1993) và nghiên cứu
UKPDS (được công bố năm 1998) đã mở ra một kỷ nguyên mới cho điều trị
bệnh đái tháo đường, đó là kỷ nguyên của sự kết hợp y tế chuyên sâu và y
học dự phòng, dự phòng cả về lĩnh vực hạn chế sự xuất hiện và phát triển
bệnh [5]. Đáng lưu ý là trong nghiên cứu UKPDS, có tới 50% bệnh nhân khi
phát hiện bệnh thì đã có các biến chứng [60]. Điều này nhấn mạnh thêm tầm
quan trọng của việc cần phải phát hiện và điều trị sớm bệnh đái tháo đường.
1.2. Khái niệm về bệnh đái tháo đường
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, “Đái tháo đường là một hội chứng có
đặc tính biểu hiện bằng sự tăng đường máu do hậu quả của việc mất hoàn
toàn insulin hoặc là do có liên quan đến sự suy yếu trong bài tiết hoặc hoạt


5
động của insulin" [5].

Tháng 1/2003, các chuyên gia thuộc Uỷ ban chẩn đoán và phân loại
bệnh đái tháo đường Hoa Kỳ, lại đưa ra một một định nghĩa mới về đái tháo
đường: “Đái tháo đường là một nhóm các bệnh chuyển hoá có đặc điểm là
tăng glucose máu, hậu quả của sự thiếu hụt bài tiết insulin; khiếm khuyết
trong trong hoạt động của insulin hoặc cả hai. Tăng glucose máu mạn tính
thường kết hợp với sự hủy hoại, sự rối loạn chức năng của nhiều cơ quan
đặc biệt là mắt, thận, thần kinh, tim và mạch máu” [2].
1.3. Chuẩn đoán và phân loại bệnh đái tháo đường
1.3.1. Chẩn đoán
Tiêu chuẩn chẩn đoán xác định:
Theo ADA năm 1997 và được Tổ chức Y tế Thế giới công nhận
năm 1998, tuyên bố áp dụng vào năm 1999, đái tháo đường được chẩn
đoán xác định khi có bất kỳ một trong ba tiêu chuẩn sau:
- Tiêu chuẩn 1: Glucose máu bất kỳ ≥ 11,1 mmol/l. Kèm theo các
triệu chứng uống nhiều, đái nhiều, sút cân không có nguyên nhân.
- Tiêu chuẩn 2: Glucose máu lúc đói ≥ 7,0 mmol/l, xét nghiệm lúc
bệnh nhân đã nhịn đói sau 6 - 8 giờ không ăn.
- Tiêu chuẩn 3: Glucose máu ở thời điểm 2 giờ sau khi làm nghiệm
pháp tăng glucose máu ≥ 11,1 mmol/l.
Các xét nghiệm trên phải được lặp lại 1 - 2 lần trong những ngày
sau đó [5].
1.3.2. Phân loại bệnh đái tháo đường
1.3.2.1. Đái tháo đường tuýp 1
Đái tháo đường tuýp 1 chiếm tỷ lệ khoảng 5 - 10% tổng số bệnh nhân
đái tháo đường thế giới. Nguyên nhân do tế bào bê - ta bị phá hủy, gây
nên sự thiếu hụt insulin tuyệt đối cho cơ thể (nồng độ insulin giảm thấp
hoặc mất hoàn toàn). Các kháng nguyên bạch cầu người (HLA) chắc chắn


6

có mối liên quan chặt chẽ với sự phát triển của đái tháo đường tuýp 1 [50].
Đái tháo đường tuýp 1 phụ thuộc nhiều vào yếu tố gen và thường
được phát hiện trước 40 tuổi. Nhiều bệnh nhân, đặc biệt là trẻ em và trẻ vị
thành niên biểu hiện nhiễm toan ceton là triệu chứng đầu tiên của bệnh. Đa
số các trường hợp được chẩn đoán bệnh đái tháo đường tuýp 1 thường là
người có thể trạng gầy, tuy nhiên người béo cũng không loại trừ [4]. Người
bệnh đái tháo đường tuýp 1 sẽ có đời sống phụ thuộc insulin hoàn toàn.
Có thể có các nhóm dưới đây:
- Đái tháo đường qua trung gian miễn dịch.
- Đái tháo đường tuýp 1 không rõ nguyên nhân.
1.3.2.2. Đái tháo đường tuýp 2
Đái tháo đường tuýp 2 chiếm tỷ lệ khoảng 90% đái tháo đường trên
thế giới, thường gặp ở người trưởng thành trên 40 tuổi. Nguy cơ mắc bệnh
tăng dần theo tuổi. Tuy nhiên, do có sự thay đổi nhanh chóng về lối sống, về
thói quen ăn uống, đái tháo đường tuýp 2 ở lứa tuổi trẻ đang có xu
hướng phát triển nhanh [20].
Đặc trưng của đái tháo đường tuýp 2 là kháng insulin đi kèm với thiếu
hụt tiết insulin tương đối. Đái tháo đường tuýp 2 thường được chẩn đoán rất
muộn vì giai đoạn đầu tăng glucose máu tiến triển âm thầm không có triệu
chứng. Khi có biểu hiện lâm sàng thường kèm theo các rối loạn khác về
chuyển hoá lipid, các biểu hiện bệnh lý về tim mạch, thần kinh, thận…,
nhiều khi các biến chứng này đã ở mức độ rất nặng.
Theo Tạ Văn Bình, đặc điểm lớn nhất trong sinh lý bệnh của đái tháo
đường tuýp 2 là có sự tương tác giữa yếu tố gen và yếu tố môi trường trong
cơ chế bệnh sinh [5]. Người mắc bệnh đái tháo đường tuýp 2 có thể điều trị
bằng cách thay đổi thói quen, kết hợp dùng thuốc để kiểm soát glucose
máu, tuy nhiên nếu quá trình này thực hiện không tốt thì bệnh nhân
cũng sẽ phải điều trị bằng cách dùng insulin.



7
1.3.2.3. Đái tháo đường thai nghén
Đái đường thai nghén thường gặp ở phụ nữ có thai, có glucose máu
tăng, gặp khi có thai lần đầu. Sự tiến triển của đái tháo đường thai nghén
sau đẻ theo 3 khả năng: Bị đái tháo đường, giảm dung nạp glucose, bình
thường [3].
1.3.2.4. Các thể đái tháo đường khác (hiếm gặp)
Nguyên nhân liên quan đến một số bệnh, thuốc, hoá chất:
- Khiếm khuyết chức năng tế bào bê - ta.
- Khiếm khuyết gen hoạt động của insulin.
- Bệnh tụy ngoại tiết: Viêm tụy, chấn thương, carcinom tụy…
- Các bệnh nội tiết: Hội chứng Cushing, cường năng tuyến giáp…
- Thuốc hoặc hóa chất.
- Các thể ít gặp qua trung gian miễn dịch.
1.4. Biến chứng bệnh đái tháo đường
Đái tháo đường nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời
bệnh sẽ tiến triển nhanh chóng và xuất hiện các biến chứng cấp và mạn
tính. Bệnh nhân có thể tử vong do các biến chứng này.
1.4.1. Biến chứng cấp tính
Biến chứng cấp tính thường là hậu quả của chẩn đoán muộn,
nhiễm khuẩn cấp tính hoặc điều trị không thích hợp
Các biến chứng cấp tính thường gặp gồm có:
-

Nhiễm toan ceton và hôn mê nhiễm toan ceton.
Hạ đường huyết và hôn mê hạ đường huyết.
Hôn mê tăng áp suất thẩm thấu
Nhiễm khuẫn cấp,ví dụ viêm phổi, lao kê…

Ngay cả khi điều trị đúng, hôn mê nhiễm toan ceton và hôn mê tăng áp

suất thẩm thấu vẫn có thể là hai biến chứng nguy hiểm.
• Nhiễm toan ceton và hôn mê nhiễm toan ceton
Nhiễm toan ceton là biểu hiện nặng của rối loạn chuyển hóa glucid do
thiếu insulin gây tăng glucose máu, tăng phân hủy lipid, tăng sinh thể ceton


8
gây toan hóa tổ chức. Mặc dù y học hiện đại đã có nhiều tiến bộ về trang
thiết bị, điều trị và chăm sóc, tỷ lệ tử vong vẫn cao 5 - 10%.
• Hôn mê tăng áp suất thẩm thấu ( Hôn mê tăng glucose máu).
Theo Tạ Văn Bình đây là hội chứng thường gặp ở người mắc đái tháo
đường tuýp 2 trên 60 tuổi, nữ thường gặp hơn nam [5]
Hôn mê tăng áp suất thẩm thấu là tình trạng rối loạn chuyển hóa
glucose nặng, đường huyết tăng cao. Hôn mê tăng glucose máu chiếm 5 10%. Ở bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2 nhiều tuổi, tỷ lệ tử vong từ 30 50% [50].
Nhiều bệnh nhân hôn mê, dấu hiệu đầu tiên của bệnh chính là tăng
glucose máu. Điều đó chứng tỏ sự hiểu biết về bệnh đái tháo đường còn
chưa được phổ biến trong cộng đồng.
1.4.2. Biến chứng mạn tính
1.4.2.1. Biến chứng tim - mạch
Bệnh lý tim mạch ở bệnh nhân đái tháo đường là biến chứng thường
gặp và nguy hiểm. Mặc dù có nhiều yếu tố tham gia gây bệnh mạch vành,
nhưng các nghiên cứu cho thấy nồng độ glucose máu cao làm tăng nguy
cơ mắc bệnh mạch vành và các biến chứng tim mạch khác. Người đái tháo
đường có bệnh tim mạch là 45%, nguy cơ mắc bệnh tim mạch gấp 2 - 4 lần
so với người bình thường. Nguyên nhân tử vong do bệnh tim mạch chung
chiếm khoảng 75% tử vong ở người bệnh đái tháo đường, trong đó thiếu
máu cơ tim và nhồi máu cơ tim là nguyên nhân gây tử vong lớn nhất. Một
nghiên cứu được tiến hành trên 353 bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2 là
người Mỹ gốc Mêhicô trong 8 năm thấy có 67 bệnh nhân tử vong và 60% là
do bệnh mạch vành [5].

Tăng huyết áp thường gặp ở bệnh nhân đái tháo đường, tỷ lệ mắc
bệnh chung của tăng huyết áp ở bệnh nhân đái tháo đường gấp đôi so với
người bình thường. Trong đái tháo đường tuýp 2, 50% đái tháo đường mới
được chẩn đoán có tăng huyết áp. Tăng huyết áp ở người đái tháo đường


9
tuýp 2 thường kèm theo các rối loạn chuyển hoá và tăng lipid máu [4,62].
Ngoài ra, tỷ lệ biến chứng mạch não ở bệnh nhân đái tháo đường gấp
1,5 - 2 lần, viêm động mạch chi dưới gấp 5 - 10 lần so với người bình
thường.
Ở Việt Nam, theo nghiên cứu của Tạ Văn Bình, khoảng 80% bệnh
nhân đái tháo đường mắc thêm các bệnh liên quan đến tim mạch [5].
1.4.2.2. Biến chứng thận
Biến chứng thận do đái tháo đường là một trong những biến chứng
thường gặp, tỷ lệ biến chứng tăng theo thời gian. Bệnh thận do đái tháo
đường khởi phát bằng protein niệu; sau đó khi chức năng thận giảm xuống,
ure và creatinin sẽ tích tụ trong máu.
Bệnh thận do đái tháo đường là nguyên nhân thường gặp nhất gây suy
thận giai đoạn cuối. Với người đái tháo đường tuýp 1, mười năm sau khi biểu
hiện bệnh thận rõ ràng, khoảng 50% tiến triển đến suy thận giai đoạn cuối và
sau 20 năm sẽ có khoảng 75% số bệnh nhân trên cần chạy thận lọc máu chu
kỳ. Khả năng diễn biến đến suy thận giai đoạn cuối của bệnh nhân đái tháo
đường tuýp 2 ít hơn so với bệnh nhân đái tháo đường tuýp 1, song số lượng
bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2 chiếm tỷ lệ rất lớn nên thực sự số bệnh nhân
suy thận giai đoạn cuối chủ yếu là bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2.
Để theo dõi bệnh thận đái tháo đường có thể định lượng microalbumin niệu, đo mức lọc cầu thận, định lượng protein niệu/24 giờ. Ngày
nay, nhiều phòng xét nghiệm chọn phương pháp định lượng protein niệu
trong mẫu nước tiểu qua đêm.
Tại Việt Nam, theo một điều tra năm 1998, tỷ lệ có microalbumin niệu

dương tính khá cao chiếm 71% trong số người mắc bệnh đái tháo
đường týp 2 [5].
1.4.2.3. Bệnh lý mắt ở bệnh nhân đái tháo đường
Đục thuỷ tinh thể là tổn thương thường gặp ở bệnh nhân đái tháo
đường, có vẻ tương quan với thời gian mắc bệnh và mức độ tăng đường


10
huyết kéo dài. Đục thuỷ tinh thể ở người đái tháo đường cao tuổi sẽ tiến
triển nhanh hơn người không đái tháo đường.
Bệnh lý võng mạc đái tháo đường là nguyên nhân hàng đầu của mù
ở người 20 - 60 tuổi. Bệnh biểu hiện nhẹ bằng tăng tính thấm mao mạch, ở
giai đoạn muộn hơn bệnh tiến triển đến tắc mạch máu, tăng sinh mạch
máu với thành mạch yếu dễ xuất huyết gây mù loà. Sau 20 năm mắc
bệnh, hầu hết bệnh nhân đái tháo đường tuýp 1 và khoảng 60% bệnh nhân
đái tháo đường tuýp 2 có bệnh lý võng mạc do đái tháo đường.
Theo nghiên cứu của Tô Văn Hải, Phạm Hoài Anh tại Bệnh viện
Thanh Nhàn - Hà Nội, số bệnh nhân có bệnh về mắt chiếm 72,5%, trong
đó tỷ lệ bệnh võng mạc đái tháo đường 60,5%, đục thủy tinh thể 59% [22].
Nghiên cứu của Đặng Văn Hòa tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương
Thái Nguyên cho thấy 52,94% bệnh nhân bị đục thuỷ tinh thể, 22,94%
bệnh nhân bị bệnh võng mạc đái tháo đường [30].
1.4.2.4. Bệnh thần kinh do đái tháo đường
Bệnh thần kinh do đái tháo đường gặp khá phổ biến, ước tính
khoảng 30% bệnh nhân đái tháo đường có biểu hiện biến chứng này. Người
bệnh đái tháo đường tuýp 2 thường có biểu hiện thần kinh ngay tại thời điểm
chẩn đoán.
Bệnh thần kinh do đái tháo đường thường được phân chia thành các
hội chứng lớn sau: Viêm đa dây thần kinh, bệnh đơn dây thần kinh, bệnh
thần kinh thực vật, bệnh thần kinh vận động gốc chi [4].

1.4.3. Một số biến chứng khác
1.4.3.1. Bệnh lý bàn chân do đái tháo đường
Bệnh lý bàn chân đái tháo đường ngày càng được quan tâm do tính
phổ biến của bệnh. Bệnh lý bàn chân đái tháo đường do sự phối hợp của tổn
thương mạch máu, thần kinh ngoại vi và cơ địa dễ nhiễm khuẩn do glucose
máu tăng cao.
Một thông báo của WHO tháng 3 - 2005 cho thấy có tới 15% số


11
người mắc bệnh đái tháo đường có liên quan đến bệnh lý bàn chân, 20% số
người phải nhập viện do nguyên nhân bị loét chân. Bệnh nhân đái tháo
đường phải cắt cụt chi dưới nhiều gấp 15 lần so với người không bị đái tháo
đường, chiếm 45 - 70% tổng số các trường hợp cắt cụt chân [13].
Tỷ lệ cắt cụt của người bị biến chứng bàn chân đái tháo đường của
Việt Nam cũng khá cao, khoảng 40% tổng số người có bệnh lý bàn chân đái
tháo đường [47].
1.4.3.2. Nhiễm khuẩn ở bệnh nhân đái tháo đường
Bệnh nhân bị đái tháo đường thường nhạy cảm với tất cả các loại
nhiễm khuẩn do có nhiều yếu tố thuận lợi. Có thể gặp nhiễm khuẩn ở nhiều
cơ quan như: viêm đường tiết niệu, viêm răng lợi, viêm tủy xương, viêm túi
mật sinh hơi, nhiễm nấm … [2].
1.5. Rối loạn chuyển hóa lipid máu ở bệnh nhân đái tháo đường
Rối loạn lipid máu là tình trạng rối loạn và hoặc tăng nồng độ các
thành phần lipid trong máu, hậu quả là sự tạo thành các mảng xơ vữa gây
tắc mạch, làm gia tăng nguy cơ biến chứng tim mạch và đột quỵ, tăng các
biến chứng mạch máu khác. Ngày nay, người ta xem đã có rối loạn lipid
máu ngay từ khi tỷ lệ các thành phần của lipid trong máu có sự thay đổi
[5,62].
Rối loạn lipid máu chủ yếu ở người đái tháo đường tuýp 1 là lượng

lipoprotein huyết tương thấp, tăng mức LDC - C hạt nhỏ, đậm đặc. Các bất
thường này sẽ được cải thiện song hành với mức kiểm soát glucose máu.
Người đái tháo đường tuýp 2 thường có tăng triglycerid máu và
giảm HDL - C (loại lipoprotein được xem là có chức năng bảo vệ thành
mạch), đôi khi không phụ thuộc vào mức độ kiểm soát đường máu. Người
bệnh mới mắc đái tháo đường tuýp 2 thường có mức HDL - C thấp ở nam từ
20 - 50%, nữ 10 - 25%. Chuyển hoá LDL - C cũng bị rối loạn ở người đái
tháo đường tuýp 2, chỉ cần LDL - C tăng nhẹ cũng đã là yếu tố nguy cơ làm
bệnh mạch vành tăng rõ rệt [20].


12

1.6. Một số yếu tố liên quan đến bệnh đái tháo đường
1.6.1. Tuổi
Qua nhiều nghiên cứu thấy tuổi có sự liên quan đến sự xuất hiện bệnh đái
tháo đường tuýp 2. Tuổi càng tăng, tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường càng cao.
Ở châu Á, đái tháo đường tuýp 2 có tỷ lệ cao ở những người trên 30
tuổi. Ở châu Âu, thường xảy ra sau tuổi 50 chiếm 85 - 90% các trường hợp đái
tháo đường [5]. Từ 65 tuổi trở lên, tỷ lệ bệnh đái tháo đường lên tới 16% [37].
Sự gia tăng đái tháo đường tuýp 2 theo tuổi có nhiều yếu tố tham gia,
các thay đổi chuyển hóa hydrate liên quan đến tuổi, điều này giải thích
tại sao nhiều người mang gen di truyền đái tháo đường mà lại không bị
đái tháo đường từ lúc còn trẻ đến khi về già mới bị bệnh.
Tuy nhiên với tốc độ phát triển cuộc sống hiện nay, ngày càng có
nhiều người trẻ tuổi mắc đái tháo đường tuýp 2. Quan sát sự xuất hiện bệnh
đái tháo đường tuýp 2 trong gia đình có yếu tố di truyền rõ ràng, người ta
thấy rằng ở thế hệ thứ nhất mắc bệnh ở độ tuổi 60 - 70, ở thế hệ thứ 2 tuổi
xuất hiện bệnh giảm xuống còn 40 - 50 tuổi và ngày nay người được
chẩn đoán đái tháo đường tuýp 2 dưới 20 tuổi không còn là hiếm [50].

1.6.2. Giới tính
Tỷ lệ mắc đái tháo đường ở hai giới nam và nữ thay đổi tuỳ thuộc
vào các vùng dân cư khác nhau. Ảnh hưởng của giới tính đối với bệnh đái
tháo đường không theo quy luật, nó tuỳ thuộc vào chủng tộc, độ tuổi,
điều kiện sống, mức độ béo phì.
Ở các vùng đô thị Thái Bình Dương tỷ lệ nữ/nam là 3/1, trong khi
ở Trung Quốc, Malaysia, Ấn Độ, tỷ lệ mắc đái tháo đường ở cả hai giới
tương đương nhau.
Tại Việt Nam, theo nghiên cứu của Hoàng Kim Ước và cộng sự, tỷ lệ
mắc đái tháo đường ở nam là 3,5%; ở nữ là 5,3% [52]. Nghiên cứu về tình
hình đái tháo đường và yếu tố nguy cơ được tiến hành trên cả nước năm 2002 -


13
2003 cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ mắc bệnh theo giới [5].
1.6.3. Địa dư
Các nghiên cứu tỷ lệ mắc đái tháo đường đều cho thấy lối sống
công nghiệp hiện đại ảnh hưởng rất lớn đến khả năng mắc bệnh đái tháo
đường. Tỷ lệ mắc đái tháo đường tăng gấp 2 - 3 lần ở những người nội
thành so với những người sống ở ngoại thành theo các công bố nghiên
cứu dịch tễ ở unisia, Úc... Một số nghiên cứu của Việt Nam cũng cho kết
quả tương tự. Nghiên cứu của Nguyễn Huy Cường tại Hà Nội cho thấy tỷ lệ
mắc đái tháo đường ở nội thành là 1,4%, ngoại thành là 0,6%. Nghiên cứu
của Trần Hữu Dàng tại Quy Nhơn thấy tỷ lệ mắc bệnh ở nội thành là 9,5%
cao hơn so với ngoại thành là 2,1% có ý nghĩa thống kê với p <0,01 [12].
Yếu tố địa dư ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc đái tháo đường thực chất là sự
thay đổi lối sống: ít vận động, ăn uống nhiều dẫn đến béo phì gây ra.
1.6.4. Béo phì
“Béo phì là trạng thái thừa mỡ của cơ thể ” [51]. Theo các chuyên
gia của WHO, béo phì là yếu tố nguy cơ mạnh mẽ nhất tác động lên khả

năng mắc đái tháo đường tuýp 2. Có nhiều phương pháp chẩn đoán và phân
loại béo phì, trong đó chẩn đoán béo phì bằng chỉ số khối cơ thể và chỉ số
bụng mông được áp dụng khá rộng rãi. Cho tới nay, tiêu chuẩn chẩn đoán
béo phì đã được WHO thống nhất. Tuy nhiên tiêu chuẩn này là khác nhau
cho các vùng địa lý, châu lục khác nhau.
Trong bệnh béo phì, tích lũy mỡ xảy ra trong một thời gian dài, do đó
sự suy giảm khả năng tự bảo vệ chống lại quá trình nhiễm mỡ có thể xảy
ra ở một số thời điểm và triglycerid dần được tích lũy lại. Ở người béo
phì, đái tháo đường lâm sàng thường xuất hiện sau khi 50 - 70% tiểu đảo
Langerhans bị tổn thương.
Béo bụng còn được gọi là béo dạng nam, là một thuật ngữ chỉ
những người mà phân bố mỡ ở bụng, nội tạng và phần trên cơ thể chiếm
tỷ trọng đáng kể. Béo bụng, ngay cả với những người cân nặng không thực


14
sự xếp vào loại béo phì hoặc chỉ béo vừa phải là một yếu tố nguy cơ độc lập
gây ra rối loạn mỡ máu, tăng huyết áp và rối loạn chuyển hóa đường.
Nhiều nghiên cứu đã kết luận rằng béo phì là nguyên nhân quan trọng
nhất dẫn đến sự kháng insulin [41, 56]. Nghiên cứu của Colditz G.A và cộng
sự kết luận béo phì và tăng cân đột ngột làm tăng nguy cơ của đái tháo đường
[53]. Kết quả nghiên cứu của Hoàng Kim Ước cho thấy những người có
BMI > 23 có nguy cơ đái tháo đường tuýp 2 gấp 2,89 lần so với người bình
thường [52].
Ngày nay, béo phì đang ngày càng gia tăng, kéo theo sự gia tăng
của bệnh đái tháo đường tuýp 2 và bệnh tim mạch.
1.6.5. Thuốc lá và bia rượu
Thuốc lá và bia rượu là những chất gây hại cho cơ thể, làm nặng
thêm các rối loạn chuyển hoá.
Một số nghiên cứu ở châu Âu cho thấy tỷ lệ hút thuốc lá ở bệnh nhân

đái tháo đường khá cao, có nhiều vùng trên 50% [60]. Trường đại học
Lausanne (Anh) đã tiến hành 25 cuộc nghiên cứu trên 1,2 triệu bệnh nhân và
nhận thấy những người hút thuốc có 44% nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường
tuýp 2 [5]. Những người hút thuốc có xu hướng hình thành những thói quen
không có lợi khác, chẳng hạn như không tập thể dục thể thao hoặc ăn những
thực phẩm không có lợi cho sức khỏe.
Rượu có tác động rất xấu đến sức khỏe con người, gây ảnh hưởng đến
toàn bộ các cơ quan trong cơ thể. Những người bệnh đái tháo đường nếu
uống nhiều rượu thì hậu quả thường nặng hơn so với người bình thường.
Theo nghiên cứu của Tô Văn Hải, bệnh nhân nam đái tháo đường có tỷ lệ
uống bia rượu 22,3% và hút thuốc lá 16,8% [25].
1.7. Tình hình bệnh đái tháo đường trên thế giới và ở Việt Nam
1.7.1. Trên thế giới
Theo thông báo của Tổ chức Y tế thế giới, tốc độ phát triển của bệnh
đái tháo đường tăng nhanh trong những năm qua. Đái tháo đường tuýp 2


15
đang là một cuộc khủng hoảng trên toàn cầu đe dọa sức khỏe và kinh tế
cho tất cả các quốc gia, đặc biệt là những nước phát triển. Nguyên nhân
đầu tiên của sự gia tăng bệnh đái tháo đường trong cộng đồng là do tình
trạng đô thị hóa nhanh chóng, thay đổi tình trạng dinh dưỡng và gia tăng
lối sống tĩnh tại. Sự gia tăng bệnh ĐTĐ ở Châu Á được đặc trưng là mức
BMI thấp và trẻ tuổi so với dân số da trắng [66, 55].
Năm 1992, ở Pháp tác giả Marie Laure Auciaux và cộng sự ước tính
có khoảng 2 triệu người đái tháo đường tuýp 2.
Ở Mỹ, theo Trung tâm kiểm soát bệnh tật CDC, bệnh đái tháo đường tăng
14% trong hai năm từ 18,2 triệu người (2003) lên 20,8 triệu người (2005) [5].
Theo một thông báo của Hiệp hội đái tháo đường quốc tế, năm 2006
ước tính khoảng 246 triệu người mắc bệnh, trong đó bệnh đái tháo đường

tuýp 2 chiếm khoảng 85 - 95 % tổng số bệnh nhân đái tháo đường ở các
nước phát triển và thậm chí còn cao hơn ở các nước đang phát triển [29].
Tỷ lệ bệnh đái tháo đường thay đổi theo từng nước có nền công nghiệp
phát triển hay đang phát triển và thay đổi theo từng vùng địa lý khác nhau.
Trong đó, nơi có tỷ lệ đái tháo đường cao nhất là khu vực Bắc Mỹ
(7,8%), khu vực Địa Trung Hải và khu vực Trung Đông (7,7%), châu Âu
(4,9%) và châu Phi (1,2%) [4].
Hiện khu vực Tây Thái Bình Dương và khu vực Đông Nam Á là hai khu
vực có số người mắc đái tháo đường cao nhất tương ứng là 44 triệu người và
35 triệu người [22]. Những báo cáo mới đây của Hiệp hội đái tháo đường
quốc tế cũng khẳng định tỷ lệ bệnh đái tháo đường tuýp 2 chiếm khoảng 85 95% tổng số bệnh nhân đái tháo đường ở các nước phát triển và tỷ lệ này
thậm chí còn cao hơn ở các nước đang phát triển.
Năm 1994 cả thế giới có 110 triệu người đái tháo đường. Năm 1995 tăng
lên 135 triệu người (chiếm 4% dân số thế giới). Năm 2000 có khoảng 157,3
triệu người đái tháo đường, dự báo năm 2025 sẽ là 300 triệu người (chiếm
5,4% dân số thế giới). Hậu quả của lối sống ít hoạt động thể lực, môi trường


16
sống và làm việc căng thẳng, chế độ ăn không cân đối, nhiều mỡ là những yếu
tố môi trường quan trọng làm tăng tỷ lệ bệnh đái tháo đường. Những yếu tố
khác như sự già hóa của quần thể, bệnh béo phì cũng là những yếu tố nguy cơ
quan trọng làm tăng nhanh tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường [3].
Tỷ lệ đái tháo đường ở châu Á cũng gia tăng mạnh mẽ, đặc biệt ở khu
vực Đông Nam Á (5,3%) [4, 56]. Nguyên nhân của sự gia tăng bệnh nhanh
chóng là do mức độ đô thị hóa nhanh, sự di dân từ khu vực nông thôn ra
thành thị nhiều, sự thay đổi nhanh chóng về lối sống công nghiệp, giảm hoạt
động chân tay, sự tăng trưởng kinh tế nhanh và chế độ ăn không cân đối,
nhiều mỡ.
Tại Mỹ, năm 2010, khoảng 1,9 triệu người Mỹ được lần đầu tiên

chẩn đoán ĐTĐ. Năm 2011, số người mắc bệnh đái tháo đường rất cao
khoảng 26 triệu người tương đương 8,3% trong tổng số người Mỹ mắc ĐTĐ
và khoảng 79 triệu người trưởng thành mắc TĐTĐ tương đương 11,3%
tuổi từ 20 trở lên. Khoảng 27% người bệnh ĐTĐ tương đương 7 triệu
người Mỹ không biết là họ bị bệnh… [59].
Bảng 1.1. Mười quốc gia có số người mắc bệnh ĐTĐ cao nhất năm 2000
và ước tính năm 2030 [64]
Năm 2000
Năm 2030
Số người mắc
Số người mắc
Quốc gia
bệnh ĐTĐ
Quốc gia
bệnh ĐTĐ
(Triệu người)
(Triệu người)
1
Ấn Độ
31,7
Ấn Độ
79,4
2
Trung Quốc
20,8
Trung Quốc
42,3
3
Mỹ
17,7

Mỹ
30,3
4
Indonesia
8,4
Indonesia
21,3
5
Nhật Bản
6,8
Pakistan
13,9
6
Pakistan
5,2
Brazil
11,3
7
Nga
4,6
Bangladesh
11,1
8
Brazil
4,6
Nhật Bản
8,9
9
Ý
4,3

Philippines
7,8
10
Bangladesh
3,2
Ai Cập
6,7
1.7.2. Thực trạng bệnh đái tháo đường ở Việt Nam
TT


17
Ở Việt Nam, năm 1990 lần đầu tiên nghiên cứu dịch tể bệnh đái tháo
đường được tổ chức một cách khoa học, đưa ra được các tỉ lệ tương đối chính
xác ở các khu vực Hà Nội (1.2%), Huế (0.95%), thành phố Hồ Chí Minh
(2.52%), nghiên cứu được tiến hành từ lứa tuổi 20 – 74 [4].
Năm 2001, một nghiên cứu được tiến hành theo quy chuẩn quốc tế với
sự giúp đỡ của các chuyên gia hàng đầu WHO trên 2394 đối tượng từ 30 64 tuổi đang sinh sống tại 4 thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng
và Thành phố Hồ Chí Minh thấy rằng tỷ lệ mắc đái tháo đường là 4,6% 4,9% [4]. Đa số bệnh nhân đái tháo đường không được chẩn đoán và điều
trị.
Năm 2002, theo điều tra trên phạm vi toàn quốc ở lứa tuổi từ 30 - 64 của
Bệnh viện Nội tiết Trung ương, tỷ lệ mắc đái tháo đường chung cho cả nước
là 2,7%, ở các thành phố 4,4%, vùng đồng bằng ven biển 2,2% và miền núi
2,1% [5].
Theo nghiên cứu của Đặng Thị Ngọc - Đỗ Trung Quân tại bệnh viện
Bạch Mai, tỷ lệ đái tháo đường tuýp 2 chiếm 81,5%; tỷ lệ đái tháo đường tuýp
1 chiếm 18,5%; tỷ lệ nữ chiếm 61,2%; tỷ lệ nam chiếm 38,8% [ 21].
Năm 2004, Tạ Văn Bình và cộng sự tiến hành nghiên cứu bệnh đái
tháo đường tại Cao Bằng thấy tỷ lệ mắc bệnh qua sàng lọc là 6,8% [7]. Cũng
trong năm đó Trần Thị Mai Hà nghiên cứu tại Yên Bái, Hoàng Kim Ước

nghiên cứu tại Phú Thọ, Sơn La kết luận đái tháo đường là bệnh gặp chủ yếu
ở người có thu nhập cao, có đời sống vật chất và địa vị trong xã hội [21],
[6]. Đó là một thách thức lớn ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế xã hội
và sức khoẻ cộng đồng.
Nghiên cứu của Lê Cảnh Chiến và cộng sự (2006) tại Tuyên Quang;
Hoàng Thị Đợi, Nguyễn Kim Lương tại Thái Nguyên cũng cho thấy tỷ lệ
mắc bệnh ở nữ cao hơn nam, ở nhóm ít hoạt động thể lực cao hơn nhóm
hoạt động thể lực nhiều [9, 16].
Tại Bắc Kạn, số bệnh nhân đái tháo đường ngày một tăng nhưng nhiều


×