BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
--------------
NGUYỄN THỊ LOAN
BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KỸ NĂNG
TỰ HỌC MÔN KHOA HỌC CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
TRONG MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC MỚI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC HỌC
Vinh, 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
--------------
NGUYỄN THỊ LOAN
BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KỸ NĂNG
TỰ HỌC MÔN KHOA HỌC CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
TRONG MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC MỚI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Giáo dục học (Bậc tiểu học)
Mã số : 60.14.01.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. PHAN QUỐC LÂM
Vinh, 2015
LỜI CẢM ƠN
Với lòng kính trọng sâu sắc và tình cảm chân thành, tôi xin trân trọng
cảm ơn:
- Ban giám hiệu nhà trường, khoa đào tạo Sau đại học, khoa Giáo dục,
quý thầy cô trường Đại học Vinh đã tạo điều kiện thuận lợi và nhiệt tình
giảng dạy, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành
luận văn này.
- Ban lãnh đạo, các cán bộ chuyên viên Phòng GD& ĐT TP VINH, cùng
với các cán bộ quản lý, giáo viên, tổng phụ trách, phụ huynh và học sinh ở
các trường tiểu học đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề
tài.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến thầy hướng dẫn
khoa học - người đã tận tình trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong học tập và nghiên
cứu, hoàn thành luận văn.
Có được thành quả này, tôi vô cùng biết ơn gia đình, họ tộc, người
thân, bạn bè, đồng nghiệp đã giúp đỡ và động viên tôi trong học tập, nghiên
cứu và thực hiện hoàn thành luận văn.
Mặc dù bản thân đã cố gắng rất nhiều nhưng chắc chắn luận văn không
tránh khỏi còn những khiếm khuyết. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý,
chỉ dẫn của các nhà khoa học, quý thầy cô, bạn bè và đồng nghiệp quan tâm
đến đề tài này.
Vinh, tháng 10 năm 2015
Tác giả
Nguyễn Thị Loan
MỤC LỤC
tRANG
DANH M ỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
DH
Dạy học
GD
Giáo dục
GV
Giáo viên
HD
Hướng dẫn
HS
Học sinh
RL
Rèn luyện
KN
Kỹ năng
KT
Kiến thức
PP
Phương pháp
PP DH
Phương pháp dạy học
TH
Tiểu học
VNEN
Viet Nam Escuela Nueva
DANH MỤC CÁC BẢNG THỐNG KÊ
Bảng 2.1. Thực trạng nhận thức của 75 GV về mức độ sử dụng phương
pháp dạy - tự học..............................................Error: Reference source not found
Bảng 2.2: Thực trạng nhận thức của 75 GV về cách thức tổ chức DH môn
Khoa học cho HS TH....................................... Error: Reference source not found
Bảng 2.3. Thực trạng sử dụng các biện pháp RL KN tự học Khoa học cho
HS TH.............................................................. Error: Reference source not found
Bảng 2.4. Thực trạng nhận thức của HS TH về tự học môn Khoa học
..........................................................................Error: Reference source not found
Bảng 2.5. Nhận thức về vai trò tự học môn Khoa học của HS TH............Error:
Reference source not found
Bảng 2.6. Thực trạng RL KN TH môn Khoa học ở 297 HS TH.................Error:
Reference source not found
Bảng 2.7. Vai trò của gia đình trong quá trình RL KN tự học môn Khoa
học cho HS TH................................................Error: Reference source not found
Bảng 2.8. Vai trò của hoạt động Đội trong quá trình RL KN tự học môn
Khoa học cho HS TH...................................... Error: Reference source not found
Bảng 3.1. Thăm dò mức độ khả thi và cần thiết của các biện pháp đề xuất
..........................................................................Error: Reference source not found
Bảng 3.2 Bảng đối chiếu kết quả học tập của HS lớp 4 qua điểm bài thi
..........................................................................Error: Reference source not found
Bảng 3.3. Bảng đối chiếu kết quả học tập của HS lớp 5 qua điểm bài thi
..........................................................................Error: Reference source not found
Bảng 3.4. Kết quả đánh giá hứng thú học Khoa học của HS........................Error:
Reference source not found
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
Sơ đồ 3.1. Sơ đồ các thành tố liên quan đến KN tự học của HS..............Error:
Reference source not found
Sơ đồ 3.2. Sơ đồ các bước tự học của HS...............Error: Reference source not
found
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Chúng ta đang sống trong thế kỷ XXI, được chứng kiến những thay đổi
nhanh chóng chưa từng thấy trên toàn thế giới của thế kỷ trí tuệ sáng tạo với sự
bùng nổ thông tin, sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, sự phát
triển đa dạng đa văn hoá… Đời sống, xã hội và các nền kinh tế đang ngày càng
trở nên phức tạp, đặc biệt là ở Việt Nam, khi đất nước ta đang bước vào thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá với mục tiêu đến năm 2020 đưa nước nhà từ một
nước nông nghiệp cơ bản trở thành một nước công nghiệp, hội nhập với cộng
đồng quốc tế. Toàn xã hội đang có những bước chuyển biến mạnh mẽ - chính
điều này đã mang đến những cơ hội kèm theo những thách thức và gây ra sức ép
cho hệ thống giáo dục (GD) nói chung, GD tiểu học (TH) nói riêng. Đổi mới GD
để phù hợp với sự phát triển của thời đại là một tất yếu.
Nhằm đạt được yêu cầu của xã hội đặt ra cho hệ thống GD, Luật Giáo
dục 2005, Khoản 2, Điều 28 đã nêu rõ: “ Phương pháp (PP) GD phổ thông
phải phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo của học sinh (HS); phù hợp với
đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng PP tự học, rèn luyện kỹ năng
(KN) vận dụng kiến thức (KT) vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại
niềm vui, hứng thú học tập cho HS”. Như vậy, rõ ràng PP dạy, PP học, dạy
cách học đang trở thành một khâu then chốt trong yêu cầu đổi mới của nền
GD Việt Nam, nhằm “lấy cái đa dạng khắc phục cái đa dạng”, từ đó góp phần
đạt mục tiêu GD. Trong dạy học (DH) ở cấp TH, không thể chỉ dừng lại giúp
HS trả lời câu hỏi "…là cái gì?"; không chỉ giản đơn là HS thu nhận từng
chút, từng chút KT phổ thông, cơ bản; kết quả học tập của HS không đơn
thuần dùng điểm số của những kì thi để mà đo đếm… Học như thế nào đang
trở thành quan trọng hơn học cái gì … Dạy cách học tập và dạy cách tư duy
đang trở thành thiết yếu trong dạy học (DH)- càng làm sáng tỏ thêm "Dạy học
9
không phải là chất đầy vào một cái thùng rỗng mà là làm bừng sáng lên
những ngọn lửa" ( Triết học cổ Hi Lạp).
Trong cái “đa dạng” của các PP dạy- học, chúng ta thấy PP tự học rất
quan trọng bởi từ lâu các nhà sư phạm đã nhận thức được “ Giáo viên (GV)
nào chỉ biết cách đem KT đến cho học trò là GV dở, GV nào biết đưa đến cho
HS khả năng tự tìm lấy những KT mình cần là GV giỏi”.
KN tự học giúp mỗi người có thể đi sâu vào những thao tác cụ thể của
tự học, có nghĩa là có thể "học mọi lúc, học mọi nơi, học mọi người, học
trong mọi hoàn cảnh, học bằng mọi cách và học qua mọi nội dung" [66; 21],
từ đó, có khả năng học tập liên tục suốt đời. Để đáp ứng sự cần thiết và đảm
bảo tính bền vững, KN tự học phải được hình thành và phát triển (RL) trong
một quá trình lâu dài, không phải chỉ khi đã trưởng thành mới bắt đầu mà
ngay từ bậc học TH cũng đã cần "khởi động" và củng cố, phát triển rồi… Thế
nhưng, thực tiễn cho thấy, GV dạy TH chưa mấy quan tâm đến vấn đề RL KN
tự học cho HS. Nếu có GV nào quan tâm đến vấn đề này thì chỉ mới dừng ở
mức độ băn khoăn: “ HS TH có khả năng tự học không?”, "Có thể hình thành
hay phát triển KN tự học cho HS TH không? ” chứ chưa thực sự có biện pháp
tác động vào KN tự học của HS TH để RL KN tự học của HS TH, từ đó góp
phần nâng cao chất lượng dạy học.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân,Tiểu học là bậc học nền tảng.Sự
thành công của nền giáo dục Tiểu học có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển
và chất lượng của các bậc học tiếp theo.Đây là bậc học cơ sở đặt nền móng
cho sự phát triển của một Quốc gia.Mục tiêu của giáo dục tiểu học hiện
nay:"Hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắnvà lâu dài về
đạo đức,trí tuệ,thể chất,thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục
học bậc trung học cơ sở.
Trong giai đoạn hiện nay,chúng ta đang tích cực đổi mới phương pháp
dạy và học theo mô hình VNEN.Các Sở-Phòng giáo dục đang thực hiện dạy
thử nghiệm mô hình trường học mới cho một số trường trên toàn quốc.Đây là
10
năm thứ năm thực hiện đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy
học,mọi việc còn bỡ ngỡ vì thế người giáo viên tiểu học có vai trò vô cùng
quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy và học ,hình thành phương
pháp tự học,hình thành nhân cách cho học sinh.Nhưng làm được điều đó
không phải là dễ và đây là điều tôi luôn trăn trở trong quá trình dạy học theo
mô hình VNEN.
Môn Khoa học là một môn học có đặc trưng riêng biệt . ''Giúp HS vui
học Khoa học, yêu học Khoa học, tiến đến giỏi Khoa học'' đang trở thành vấn
đề tâm huyết của rất nhiều GV trực tiếp đứng lớp ở TH. Nhưng làm như thế
nào để đạt được điều tâm huyết này thì đa số GV đang còn rất lúng túng. Vì
vậy, xây dựng các biện pháp có tính khả thi tác động vào vấn đề RL KN tự
học cho HS TH thông qua DH môn Khoa học trên cơ sở quan tâm đến hoạt
động dạy của GV cùng với hoạt động tự học và các hoạt động khác của HS là
điều rất thiết thực.
Ở TH, vào giai đoạn 2 (lớp 4, lớp 5) do khả năng nhận thức và yêu cầu
đặt ra về KT, KN- HS không chỉ cần biết tìm tòi, chiếm lĩnh hệ thống tri thức
thông qua các hoạt động học tập các môn học, đặc biệt là môn Khoa học, mà
còn cần được định hình vững chắc các KT, được vận dụng KT đã học vào các
tình huống khác nhau, từ đó hình thành PP học tập phù hợp, phát triển ngôn
ngữ, phát triển các thao tác tư duy và góp phần hình thành nhân cách đáp ứng
yêu cầu của xã hội. Để đạt được những điều nêu trên, vấn đề RL KN tự học
môn Khoa học cho học sinh TH thật sự cần thiết đặt ra cho các nhà sư phạm.
Xuất phát từ nhận thức trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Biện
pháp rèn luyện kỹ năng tự học môn Khoa học cho học sinh tiểu học trong
mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN)”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng tự học góp phần nâng cao chất lượng
dạy học Khoa học cho HS TH.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
11
3.1. Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học môn Khoa học theo mô
hình trường học mới Việt Nam.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp RL KN tự học môn Khoa học
cho HS TH.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu đề xuất áp dụng được các biện pháp có cơ sở khoa học và có tính
khả thi sẽ góp phần nâng cao chất lượng rèn luyện kĩ năng tự học trong mô
hình trường học mới Việt Nam qua đó nâng cao được kết quả học tập môn
Khoa học cho HS TH.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về vấn đề RL KN tự học môn Khoa học ở HS TH.
5.2. Nghiên cứu thực trạng sử dụng các biện pháp RL KN tự học môn
Khoa học cho HS TH.
5.3. Đề xuất một số biện pháp RL KN tự học môn Khoa học cho HS TH
và khảo nghiệm để khảo sát mức độ cần thiết và tính khả thi của các biện
pháp này.
6. GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng khảo sát: 297 HS lớp 4, 5 và 75 GV dạy cùng với 27 Tổng
phụ trách, 271 cha mẹ HS lớp 4, 5.
Thời gian khảo sát: 3 tháng (từ tháng 9 đến tháng 11 năm 2014).
Địa bàn khảo sát: 2 trường TH , mỗi trường 4 lớp (2 lớp 4, 2 lớp 5) ở TP
Vinh, tỉnh Nghệ An
Trên cơ sở thực trạng sử dụng biện pháp RL KN tự học môn Khoa
học cho HS TH để xây dựng biện pháp và thăm dò mức độ cần thiết, tính khả
thi của các biện pháp đã đề xuất.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng PP phân tích- tổng hợp các lý thuyết; hệ thống hóa lý thuyết;
minh hoạ để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
12
7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
Sử dụng các PP: điều tra, nghiên cứu sản phẩm hoạt động sư phạm.
7.2.1. Phương pháp điều tra
Sử dụng bảng hỏi và trò chuyện với GV, Tổng phụ trách, HS và cha mẹ
HS để tìm hiểu thực trạng về sự RL KN tự học môn Khoa học của HS TH.
7.2.2. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
Nghiên cứu nhận thức, thái độ, kế hoạch bài dạy của GV; nghiên cứu các
biểu hiện KN tự học môn Khoa học và kết quả học tập môn Khoa học của HS
TH để dự đoán thực trạng, chiều hướng phát triển của KN tự học môn Khoa
học ở HS TH.
7.3. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng một số công thức thống kê toán học để xử lý về định lượng các
số liệu đã thu nhận được của đề tài, xác nhận giá trị của các số liệu sau xử lý.
8. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
8.1.Góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận về KN tự học.
8.2.Làm rõ thực trạng sử dụng các biện pháp RL KN tự học môn Khoa
học cho HS ở các trường TH trong mô hình trường học mới Việt Nam
(VNEN) của thành phố Vinh - Nghệ an
8.3.Xây dựng được một số biện pháp có tính khả thi nhằm RL KN tự học
môn Khoa học cho HS TH.
9. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2: Thực trạng sử dụng các biện RL KN tự học môn Khoa học
cho HS cuối cấp ở các trường TH trong mô hình trường học mới Việt Nam
(VNEN)
Chương 3: Một số biện pháp RL KN tự học môn Khoa học cho HS TH.
13
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Trong lịch sử GD, vấn đề tự học cũng như RL KN tự học đã được các
nhà khoa học GD quan tâm rất sớm; được đề cập và nhìn nhận theo nhiều
cách tiếp cận khác nhau, như: phát huy tính tích cực, tính độc lập, tính tự giác,
tính sáng tạo của người học; dạy PP cho người học để đạt được hiệu quả học
tập cao nhất... Ý tưởng DH coi trọng người học, chú ý đến tự học đã có từ
thời cổ đại, tùy theo giai đoạn lịch sử và mức độ phát triển của xã hội mà ý
tưởng này đã phát triển và trở thành quan điểm DH tiến bộ ngày nay.
1.1.1. Trên thế giới
* Thời kỳ cổ đại:
- Ở phương Tây: Những năm TCN, ở Hi Lạp đã xuất hiện phương pháp
giảng dạy gọi là "phép đỡ đẻ" của Socrate (469- 390 TCN). Khẩu hiệu DH
của ông là: "Anh phải tự biết lấy anh". Cùng tư tưởng với Socrate lúc bấy giờ
còn có Arixtôt (384- 322 TCN). Hai ông đã rất coi trọng việc phát huy tính
tích cực của HS trong GD. Họ cùng mong muốn làm thế nào để học trò không
bị rơi vào tình trạng thụ động, trở thành những con người biết tự suy nghĩ, tự
tìm tòi ra "chân lý" bằng cách đặt câu hỏi để người học tự tìm ra kết luận [40]
- Ở phương Đông: Có nhiều nhà GD lớn, như: Khổng Tử (551- 479
TCN), Mạnh Tử (372- 289 TCN), Tuân Tử (khoảng 289- 238 TCN)… đều
đánh giá cao vai trò của tự GD, tự bồi dưỡng. Phương châm chính trong DH
của Khổng Tử là "khải phát" (gợi mở), nghĩa là ông DH theo đối tượng và
kích thích suy nghĩ của học trò: "Không tức giận vì muốn biết thì không gợi
mở cho, không bực vì không rõ được thì không bày vẽ cho. Vật có bốn góc,
bảo cho biết một góc mà không suy ra ba góc kia thì không dạy nữa" (Luận
ngữ).
14
Do hạn chế của thời đại, vấn đề tự GD chưa được các nhà tư tưởng cổ đại
đặt đúng vị trí và hiểu một cách đầy đủ. Mặc dù vậy, tư tưởng của các ông
vẫn là những tư tưởng tiến bộ trong thời đại các ông đang sống và đặt những
viên gạch đầu tiên cho tự học, tự GD sau này phát triển.
* Thời kỳ phong kiến: Vào thời kỳ này, ở phương Tây cũng như phương
Đông, nền GD nhìn chung mang tính chất hà khắc. Vai trò của tự GD lúc này
bị xem nhẹ đồng thời với sự hạ thấp nhân cách học trò. Những hạn chế của
nền GD phong kiến là một trong những nguyên nhân dẫn đến động cơ phục
hưng nền GD ở Châu Âu.
* Thời kỳ Phục Hưng ở Châu Âu và sau thời kỳ Phục Hưng: Giải phóng
cá nhân; phát huy tính tích cực, sáng tạo của HS; coi trọng tự học đã trở thành
ý tưởng chung của nhiều nhà tư tưởng và các nhà GD.
Môngtenhơ (1533- 1592)- được coi là một trong những ông tổ sư phạm ở
Châu Âu- cho rằng: muốn DH hiệu quả, không nên bắt buộc trẻ em phải làm
theo ý muốn chủ quan của thầy.
J. A Comenxki (1592- 1670) rất chú ý tới nguyên tắc về tính tự giác
(mặc dầu không dùng thuật ngữ này) và kêu gọi người thầy phải làm sao cho
HS hứng thú trong học tập, từ đó, HS có sự nỗ lực bản thân để tự nắm vững
tri thức. Ông cho rằng: "chỉ hiểu biết các sự kiện không thôi thì không đầy đủ
mà phải đi liền với sự phát triển tư duy… Họ phải biết diễn tả KT của mình
thành ngôn ngữ đúng đắn, vận dụng chúng thành thạo trong đời sống". [25]. J.
A Comenxki là người phản đối kịch liệt lối dạy nhồi sọ, chỉ dựa vào sách vở
mà không tính đến vận dụng vào các tình huống khác nhau trong thực tiễn,
không tính đến đặc điểm phát triển trí tuệ và nhân cách cho HS. Ông coi phát
huy tính tích cực của trẻ như một bộ phận quan trọng của PP DH theo tự
nhiên mà ông đề xướng.
J. J. Rousseau (1712- 1778) yêu cầu người dạy cần phải hiểu người học
và quan tâm đến lợi ích của người học. Ông nói: "Đừng cho trẻ em khoa học
mà phải để trẻ tự phát minh".
15
A. Disterwerg (1790- 1886) cũng đã rất quan tâm tới sự phát triển tính
độc lập và tính tích cực sáng tạo của HS. Ông cho rằng: "Người thầy giáo tồi
truyền đạt chân lý, người thầy giáo giỏi dạy cách tìm ra chân lý". Như vậy,
khi nói về sự chỉ đạo công việc tự GD, ông muốn nhà GD chân chính phải
phát triển sức mạnh nội tại của HS bằng cách thức tỉnh chứ không phải tích
lũy, nhồi nhét tài liệu, sách giáo khoa (SGK). Bên cạnh đó, ông còn suy nghĩ:
"Một PP tồi khi nó luyện cho HS năng lực tiếp thu đơn thuần hay tính thụ
động và tốt khi nó kích thích ở HS óc sáng kiến cá nhân", tức là phát huy
được tính tích cực của HS.
Theo K. Đ Usinxki (1824- 1873), muốn DH tốt cần hiểu biết tâm sinh lý
lứa tuổi HS. Khi nói về tính tích cực, tự lập của HS, ông muốn nói đến việc
GD cho cá nhân biết định hướng trong môi trường xung quanh, biết hành
động một cách sáng tạo, biết tự mình nâng cao học vấn của mình. Vai trò của
người GV trong suy nghĩ của ông là người làm RL ở trẻ em KN giành lấy KT
mới không cần GV.
J. Dewey (Mỹ, 1859- 1952) là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ DH hướng
vào người học và phân tích về GD một cách sâu sắc, trực tiếp nhất theo
hướng này. Ông cho rằng: chủ trương GD phải dựa vào kinh nghiệm thực tế
của trẻ; việc giảng dạy phải kích thích được hứng thú của trẻ; phải để trẻ độc
lập tìm tòi, tự chỉ đạo việc học và được tích lũy các KN bằng hoạt động của
mình. Với vị trí của học trò như vậy thì thầy giáo là người tổ chức, thiết kế,
cố vấn, giúp đỡ.
Phong trào "Nhà trường mới" đầu thế kỷ XX đề cao sự hoạt động tích
cực của HS, khuyến khích HS tự xếp thời gian học theo khả năng; tự ý thức
học cho mình, tự chịu trách nhiệm về việc học tập. Trong giai đoạn này, DH
đã tiến hành phân hóa, coi trọng cá thể hóa, chủ trương để cho từng trẻ hoàn
toàn tự do phát triển những năng khiếu riêng biệt. Tư tưởng này được nhiều
nhà Tâm lý học, Giáo dục học đề cập đến, tiêu biểu như: O. Decroly, C.
Freinel, J. Piaget, B. F Skinner…
16
Những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, GD toàn cầu càng thêm
nhấn mạnh đến GD lấy HS làm trung tâm, coi trọng tự học, tự đào tạo. Mô
hình của C. Rogers đưa ra năm 1969, ngoài chức năng đảm bảo tiếp cận cá
nhân còn chú ý thỏa đáng đến tác động cá nhân hóa thông qua nhóm. Quan
niệm mới về "học tập suốt đời: một động lực xã hội" sẽ giúp con người đáp
ứng những yêu cầu của thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Điều này thể hiện
rõ nét: Học phải chú trọng đến học cách học. Học cách học chính là học cách
tự học, tự đào tạo.
1.1.2. Ở Việt Nam
Ở nước ta, vấn đề tự học cũng đã có từ rất lâu. Thời phong kiến, các
thầy đồ đã rất chú ý đến trình độ, đặc điểm tính cách từng đối tượng và có
biện pháp DH thích hợp. Người học tự học thông qua hình thức có thầy đồ
hướng dẫn trực tiếp hoặc gián tiếp. Từ những năm sau 1945, Đảng và Nhà
nước ta rất coi trọng phát triển GD thường xuyên, các lớp Bổ túc văn hóa, đại
học tại chức, vừa học vừa làm… mở ra dựa vào hình thức tự học là chính. Từ
sau những năm 1970, với tinh thần "Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự
đào tạo", ở các trường cao đẳng, đại học đã có chuyển biến tích cực trong việc
tăng cường các hoạt động tự học cho người học.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ II Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam khóa VIII đã nêu rõ: "Đổi mới mạnh mẽ PP GD& ĐT, khắc
phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người
học. Từng bước áp dụng các PP tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá
trình DH, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho HS…".
Điều 40 của Luật GD nước CHXHCN Việt Nam (công bố ngày 27/ 6/
2005) ghi rõ: "…phải coi trọng việc bồi dưỡng ý thức tự giác trong học tập,
năng lực tự học, tự nghiên cứu, phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện KN thực
hành, tạo điều kiện cho người học tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng
dụng"[3].
17
Mục 5.2 của "Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2001- 2010" ghi
rõ: "…chuyển từ việc truyền đạt tri thức thụ động, thầy giảng trò ghi sang
hướng dẫn người học chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức; dạy
cho người học PP tự học, tự thu nhận thông tin một cách hệ thống và tư duy
phân tích, tổng hợp; phát triển được năng lực của mỗi cá nhân; tăng cường
tính chủ động, tính tự chủ của HS, sinh viên trong quá trình học tập…".
Mục III. 7 của "Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2008- 2010"
đã chỉ ra: "…khuyến khích và tạo điều kiện cho người học tích cực, chủ động
tự học…"
Chủ tịch Hồ Chí Minh, bằng chính cuộc đời của Người là tấm gương
ngời sáng về tự học. Những công trình nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về
GD& ĐT đều đã thống nhất: một trong những tư tưởng cơ bản xuyên suốt của
Người là tự học, tự đào tạo. Người cho rằng: "Về cách học, phải lấy tự học
làm cốt". Người dạy: muốn học suốt đời, làm việc suốt đời thì phải tự học;
muốn tự học có kết quả thì phải có mục đích rõ ràng, lao động nghiêm túc, có
các điều kiện cần thiết, tích cực luyện tập thực hành.
Tiếp theo, GS Nguyễn Cảnh Toàn cũng là một tấm gương sáng về tự
học ở nước ta. Với ông: Tự học là chuyện rất cũ mà cũng rất mới; học bao giờ
cũng gắn với tự học, tự rèn luyện để biến đổi nhân cách của mình; người dạy
giỏi là người dạy cho HS biết cách tự học, tự nghiên cứu, tự GD, là biến quá
trình DH thành quá trình tự học. Ông chỉ ra: "dạy Khoa học là dạy KT, KN,
tư duy và tính cách". "Có người lại cho là trẻ em không thể tự học được…".
[66]
Các tác giả: Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Kỳ, Vũ Văn Tảo, Bùi Tường
trong "Quá trình dạy tự học" đã thống nhất: quá trình tự học, tự nghiên cứu,
cá nhân hóa việc học phải kết hợp với quá trình dạy của nhà giáo và quá trình
hợp tác với bạn trong cộng đồng lớp học, tức là quá trình xã hội hóa việc học.
18
Nguyễn Minh Hiển, Nguyên Bộ trưởng Bộ GD& ĐT đã từng nói: "…
Việc nghiên cứu và phổ biến các PP tự học sẽ góp phần vào chuẩn bị hành
trang cho ngành GD bước vào thế kỷ mới đầy triển vọng".
NGND- GS Nguyễn Lân: "Điều quan trọng chính là HS phải ra sức tự
học để đi sâu vào chương trình của từng môn…HS có tinh thần tự học sẽ có
thể đi sâu vào môn học và sẽ đạt được thành tích mong muốn". [41]
Như vậy, qua tìm hiểu sơ lược lịch sử các nghiên cứu về tự học, RL
KN tự học của các tác giả trong và ngoài nước, chúng tôi có nhận xét:
- Tự học cùng với vấn đề RL KN tự học đã được sự quan tâm của nhiều
nhà khoa học GD và được nghiên cứu dưới nhiều hình thức khác nhau từ thời
cổ đại cho đến nay. Nhờ đó, hệ thống lí luận về tự học đã được hình thành,
khá phong phú, làm nền tảng cho những công trình nghiên cứu tiếp theo về tự
học và có cơ sở cho các nghiên cứu về việc RL KN tự học cho trẻ em.
- Những công trình khoa học nói trên rất công phu, mang tính lí luận và
thực tiễn cao, góp phần nâng cao chất lượng GD. Tuy nhiên, cho đến thời
điểm hiện nay, những công trình nghiên cứu về KN tự học một môn học cụ
thể của HS TH chưa có nhiều . Đặc biệt, những nghiên cứu về các biện pháp
RL KN tự học môn Khoa học phù hợp với HS TH trong mô hình trường học
mới Việt Nam (VNEN) vẫn còn thiếu vắng. Chính vì vậy, việc nghiên cứu
một số biện pháp RL KN tự học môn Khoa học trên cơ sở quan tâm đến hoạt
động dạy của GV cùng với hoạt động học và các hoạt động khác của HS TH
là rất thiết thực, nhằm góp phần nâng cao chất lượng DH môn Khoa học cho
HS TH.
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.2.1. Tự học
1.2.1.1. Học là quá trình nghiền ngẫm, đọc đi đọc lại, nhắc đi nhắc lại
để ghi nhớ, để bắt chước, để làm [1; 196, 197]. Bản chất của hoạt động học là
quá trình nhận thức để nắm vững kiến thức (KT), KN, kỹ xảo. Trong quá
trình đó, người học phải tích cực vận dụng các thao tác tư duy để lĩnh hội, ghi
19
nhớ, luyện tập, vận dụng các khái niệm khoa học. Vai trò chủ thể của người
học trong quá trình nhận thức là vô cùng quan trọng. GV giữ vai trò là người
hướng dẫn (HD), kích thích sự năng động của HS và khơi gợi, bồi dưỡng tính
tích cực, tự giác, tư duy độc lập sẽ tạo cơ sở vững chắc cho mọi sự học tập.
1.2.1.2. Tự học: Có nhiều quan niệm về tự học, như:
Theo Từ điển Giáo dục học, "Tự học là quá trình tự mình hoạt động
lĩnh hội tri thức khoa học và rèn luyện KN thực hành không có sự hướng dẫn
(HD) trực tiếp của GV và sự quản lý trực tiếp của cơ sở GD" [1; 458]. Tự
học có thể bằng cách tự đọc tài liệu, sách giáo khoa (SGK), nghe đài, xem
truyền hình, tham quan bảo tàng, triển lãm…
Giáo sư Viện sĩ Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng: Tự học là học với sự tự
giác, tích cực và độc lập cao. Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng
các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp v.v…) và có khi cả
cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ), cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động
cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như trung thực, khách quan,
có chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa
học, ý muốn thi đỗ, biết biến khó khăn thành thuận lợi v.v…) để chiếm lĩnh
một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu
của mình" [.63; 59-60]. Như vậy, Nguyễn Cảnh Toàn đã trùng tư tưởng với
Hồ Chí Minh: cốt lõi của học là tự học. Ông còn cho biết thêm: Trong học
bao giờ cũng có tự học; hễ có học là có tự học vì không ai có thể học hộ
người khác được; tự học là nhu cầu của mỗi người và là nhu cầu của thời đại.
Tự học là không ai bắt buộc mà tự mình tìm tòi, học hỏi để hiểu biết
thêm. Có thầy hay không ta không cần biết. Người tự học hoàn toàn làm chủ
mình, muốn học môn nào tùy ý, muốn học lúc nào cũng được: đó mới là điều
kiện quan trọng [42].
Tổng hợp những quan niệm trên, chúng ta có thể thấy tự học có những
tính chất đặc điểm cơ bản như: chú trọng đến cách học và tính tự giác, tích
cực trong học tập; tự mình quyết định việc lựa chọn mục tiêu, nội dung, PP,
20
hình thức, phương tiện cho hoạt động học tập; tự mình lập kế hoạch và thực
hiện kế hoạch học tập; tự mình kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh việc học tập của
mình.
Từ trên, có thể quan niệm về tự học như sau: Tự học là người học tự
mình quyết định việc lựa chọn mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức,
phương tiện cho hoạt động học tập, từ đó xây dựng và tổ chức thực hiện, kiểm
tra, đánh giá, điều chỉnh việc học tập của bản thân với tinh thần tự giác, tích
cực cao độ nhất.
Hoạt động tự học của HS là quá trình chủ động, tự giác của người học
nhằm nắm bắt các tri thức và các KN, kỹ xảơ. Hoạt động tự học của HS TH
được hiểu: HS TH tự mình lựa chọn mục tiêu, nội dung, cách thức, phương
tiện cho hoạt động học tập, từ đó xây dựng và tổ chức thực hiện rồi tiến hành
tự kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh việc học tập của bản thân với tinh thần tự
giác, tích cực cao độ nhất, có sự HD trực tiếp hoặc gián tiếp của GV và các
lực lượng GD khác.
1.2.1.3. Các đặc trưng cơ bản của hoạt động tự học [63; 183- 192]
- HS là chủ thể của hoạt động học, tự mình tìm ra KT bằng hành động
của chính mình.
- HS hợp tác với các bạn trong quá trình chiếm lĩnh tri thức.
- HS tự kiểm tra, tự đánh giá, tự điều chỉnh
- GV, là thầy học- chuyên gia về việc học và tự học, là người tổ chức và
HD quá trình dạy- tự học, quá trình kết hợp cá nhân hóa với xã hội hóa việc
học của HS.
1.2.1.4. Vai trò của tự học
- Tự học với vai trò là nội lực, là nhân tố quyết định. Chất lượng GD đạt
được đỉnh cao khi kết hợp cá nhân hóa với xã hội hóa; tự học của trò (nội lực)
cộng hưởng và kết hợp với tác động của thầy (ngoại lực).
- Ngoài vai trò giúp cho việc học tập suốt đời, tức là biết học cách học
(learning to learn) [66; 114,115], tự học còn giúp cho người tự học biết cái
21
chưa biết, sẽ làm được cái chưa làm, thông qua hợp tác trong tự học để cùng
chung sống với nhau - điều này hoàn toàn phù hợp với quan điểm của
UNESCO về 4 trụ cột GD khi vận dụng vào Việt Nam: học để biết (learning
to know), học để làm (learning to do), học để làm người (learning to be) và
học để cùng chung sống với nhau (learning to live together).
- Từ mục đích gốc là khơi dậy nội lực ở HS sẽ dẫn tới việc khơi dậy nội
lực ở GV. Khi người GV đã có những KN tự học, tự nghiên cứu thì tất nhiên
họ sẽ tìm ra cách để khơi dậy được nội lực tự học, tự nghiên cứu ở HS.
12.1.5. Các điều kiện tự học
a) Các điều kiện tự học
- Tự học phải là công việc tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo của mỗi
người.
- Người học phải có nền móng KT cơ bản vững chắc.
- Có PP học tập khoa học, phù hợp với bản thân người học.
- Đảm bảo các điều kiện (thời gian, không gian) và phương tiện (SGK, tài
liệu tham khảo, Internet…) tối thiểu cho tự học.
b) Các điều kiện tự học của HS TH: Từ các điều kiện nói trên, chúng
tôi xin đề xuất các điều kiện cơ bản tự học để HS TH có thể đảm bảo việc tự
học là:
- HS cần có động cơ, mục đích học tập đúng đắn và kiên trì, khắc phục
khó khăn và quyết tâm cao trong học tập. Bên cạnh đó, HS tránh tâm lý tự ti
hay tự thỏa mãn, phải có lòng tin vào khả năng của mình.
- HS được trang bị hệ thống KT cơ bản, làm cơ sở cho việc hiểu biết,
luyện tập, thực hành theo đúng mục đích, yêu cầu.
- HS phải được HD cách học, KN tự học (thông qua GV, cha mẹ, bạn bè,
…) phù hợp; xóa bỏ thói quen học vẹt; tạo được thói quen học mọi lúc, mọi
nơi, mọi người, mọi cách và mọi nội dung.
- GV phải quan tâm đến PP dạy để HS có thể tự học.
22
- Đảm bảo đủ thời gian, có không gian và đáp ứng các phương tiện tự học
tối thiểu cho việc tự học của HS.
Ngoài ra, để việc tự học có hiệu quả, cần có sự theo dõi, giám sát, động
viên, khích lệ thường xuyên của GV, tổng phụ trách, các cấp quản lý GD, gia
đình và xã hội.
1.2.2. Kỹ năng tự học
1.2.2.1. Kỹ năng
a) Khái niệm: KN là một vấn đề được nhiều nhà tâm lý học, GD học
quan tâm nên có nhiều cách nhìn nhận nhưng nhìn chung, KN hành động
được xem xét dựa trên hai khuynh hướng: khuynh hướng thứ nhất xem xét
KN nghiêng về mặt kỹ thuật thao tác của hành động; khuynh hướng thứ hai
xem xét kỹ KN nghiêng về mặt khả năng thực hiện của con người.
Những nhà nghiên cứu theo khuynh hướng thứ nhất, như:
V.A.Cruchetxki, A.V.PetropxkiC, C.Tsebuseva, …cho rằng: muốn thực hiện
hành động con người phải có tri thức về hành động, cụ thể là phải hiểu được
mục đích, PP, phương tiện và điều kiện hành động. Khuynh hướng này làm
sáng tỏ: khi con người nắm được các tri thức về hành động, thực hiện hành
động theo các yêu cầu khác nhau của thực tiễn là chúng ta đã và đang có KN
hành động. Mức độ thành thạo của KN phụ thuộc vào mức độ nắm vững tri
thức về hành động và vận dụng vào hoạt động thực tiễn nhiều hay ít, đúng
hay không đúng…Chính vì thế, quá trình học tập và rèn luyện đóng vai trò
quan trọng việc RL KN.
Những nhà nghiên cứu theo khuynh hướng thứ hai, như: X.I.Kixen Gof,
N.D.Lêvitov, K.K.Platolov… cho rằng: KN là khả năng thực hiện một hoạt
động nào đó. Theo họ, KN được biểu hiện ở khả năng vận dụng những tri
thức đã thu nhận được vào một lĩnh vực hoạt động thực tế, đảm bảo cho hoạt
động diễn ra đạt hiệu quả. Những nhà nghiên cứu theo khuynh hướng thứ hai
không dừng lại ở quan niệm KN đơn thuần là kỹ thuật hành động mà còn chỉ
ra nó là một biểu hiện năng lực của con người. Do đó, KN vừa có tính ổn
23
định, vừa có tính mềm dẻo. Nhờ có sự mềm dẻo của KN mà con người có
tính sáng tạo trong hoạt động thực tiễn.
Kết hợp hai khuynh hướng trên, ta có thể xem xét KN bao gồm cả về mặt
kỹ thuật thao tác và cả khả năng thực hiện. Như vậy, KN là khả năng thực
hiện thành thạo, có kết quả các thao tác của hành động bằng phương thức lựa
chọn hành động đúng đắn và vận dụng những tri thức, kinh nghiệm vào
những điều kiện, tình huống khác nhau.
b) Các yếu tố ảnh hưởng đến sự RL KN: Sự RL KN chịu ảnh hưởng
của các yếu tố sau:
* Tri thức: Đây là yếu tố cần thiết đầu tiên, cốt lõi của sự RL KN. Tính
chất và mức độ nắm vững KT sẽ quyết định tính chất và trình độ của sự RL
KN.
* Quá trình thực hành luyện tập: Đây là yếu tố căn bản quyết định sự RL
KN, cho dù đó là KN bậc nào, trình độ gì. Quá trình thực hành luyện tập
không những giúp HS thấu hiểu, nắm vững, mở rộng, đào sâu các khía cạnh
kiến thức mà còn làm cho việc vận hành các phương thức hành động (cụ thể
hay khái quát) được thuần thục. Quá trình này được tái diễn nhiều lần với sự
mở rộng và thu hẹp tình huống của hành động, từ đó, giúp chủ thể cọ xát để
rèn luyện các phẩm chất tư duy, tích lũy kinh nghiệm trên các mặt của nhiều
lĩnh vực.
* Kinh nghiệm: Ở các mức độ khác nhau, các lĩnh vực khác nhau, kinh
nghiệm có sự tác động tích cực hay tiêu cực tới quá trình RL của KN.
* Khả năng trí tuệ và khả năng nhìn nhận của chủ thể: Đây là yếu tố hỗ
trợ tích cực cho chủ thể trong quá trình thực hiện hành động cũng như trong
quá trình RL KN. Tuy là yếu tố vô hình, khó kiểm soát nhưng trong nhiều
trường hợp, nó lại có tính chất quyết định đối với việc thực hiện một hành
động trong tình huống mới lạ.
24
1.2.2.2. KN tự học
a) KN học tập: KN học tập được hiểu là phương thức thực hiện có kết quả
các hành động học tập trên cơ sở vận dụng những tri thức, kỹ xảo đã có để giải
quyết những nhiệm vụ học tập mà quá trình DH đề ra trong những điều kiện học
tập nhất định.
b) KN tự học: KN tự học là một bộ phận của KN học tập. Nói đến KN tự
học là nói về mức độ thuần thục của các hoạt động tự học. KN tự học giúp
mỗi người có thể đi sâu vào những thao tác cụ thể trong việc phát huy nội lực
để học, từ đó có khả năng học tập liên tục suốt đời. KN tự học mang đậm tính
chất của KN bậc cao, KN bậc 2, KN lí luận. Các yếu tố của KN kinh nghiệm
có thể vẫn còn có tác dụng trong một số tình huống tương tự. Tuy nhiên, để
RL KN tự học thì các yếu tố của KN lí luận vẫn luôn giữ vai trò chủ đạo. KN
lí luận là yếu tố đảm bảo cho đa số HS có thể hình thành các thành tố của KN
tự học, bao gồm: xác định mục tiêu tự học; lựa chọn nội dung tự học; lập kế
hoạch tự học; tổ chức quá trình tự học; kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh quá
trình tự học. Bên cạnh đó, KN lý luận còn giúp HS có khả năng biết cách sắp
xếp các thành tố liên quan đến KN tự học thành một hệ thống và đề ra PP để
điều hành hệ thống hoạt động đạt hiệu quả cao.
1.2.2.3. KN tự học môn Khoa học của HS TH theo mô hình trường học
mới Việt Nam (VNEN)
KN tự học môn Khoa học của HS TH là một bộ phận của KN học tập
môn Khoa học trong chương trình TH. Nói đến KN tKhoa học. KN tự học
môn Khoa học giúp HS TH có thể đi sâu vào những thao tác cụ thể trong việc
phát huy nội lực để học, từ đó HS có khả năng học tập môn Khoa học lên các
bậc học tiếp theo. KN tự học môn Khoa học của HS TH bao gồm những KN
tự học môn Khoa học có thể quan sát được và những KN tự học môn Khoa
học không quan sát được.
a) Những KN tự học môn Khoa học thuộc các hoạt động có thể quan sát
được
25