Tải bản đầy đủ (.docx) (130 trang)

Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trung học phổ thông huyện cần giuộc, tỉnh long an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (556.04 KB, 130 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN HUỲNH HƯƠNG

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KINH TẾ CÔNG NGHIỆP LONG AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

VINH, 2015


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN HUỲNH HƯƠNG

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA
SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KINH TẾ CÔNG NGHIỆP LONG AN

Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 60.14.01.14
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGÔ SỸ TÙNG

Nghệ An, 2015


3

LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian nghiên cứu và làm việc nghiêm túc, luận văn với đề
tài “Một số giải pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học
Kinh tế Công nghiệp Long An” đã cơ bản hoàn thành và đạt mục tiêu nghiên
cứu đề ra. Em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc nhất tới tất cả các tập thể, cá nhân
đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu luận văn
này.
Trước hết, em xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học
Vinh, Khoa Sau đại học của nhà trường cùng các thầy cô, những người đã trang
bị kiến thức cho em trong suốt quá trình học tập.
Với lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất, em xin trân trọng cảm ơn
thầy PGS. TS Ngô Sỹ Tùng, người thầy đã trực tiếp chỉ bảo, hướng dẫn khoa học
và giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu, hoàn thành luận văn này.
Em xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến Ban Giám hiệu, quý thầy cô
trường Đại học Kinh tế Công nghiệp Long An, đã giúp đỡ em thu thập thông tin,
số liệu trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Mặc dù, có nhiều cố gắng trong quá trình hoàn thành luận văn, nhưng
do thời gian nghiên cứu có hạn nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những sai
sót, rất mong quý thầy, cô thông cảm và mong nhận được sự đóng góp của quý
thầy cô nhằm giúp em có thể khắc phục, sửa chữa những thiếu sót để đề tài luận
văn được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành biết ơn
Người thực hiện

Nguyễn Huỳnh Hương


4

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4. Giả thuyết khoa học
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
6. Phương pháp nghiên cứu
7. Phạm vi nghiên cứu
8. Đóng góp của luận văn
9. Cấu trúc luận văn
NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu.
1.2.Một số khái niệm cơ bản của đề tài.
1.2.1. Học và tự học
1.2.2. Hoạt động và hoạt động tự học
1.2.3. Quản lý và quản lý hoạt động tự học


5

1.2.4. Giải pháp và giải pháp quản lý hoạt động tự học
1.3. Một số vấn đề về hoạt động tự học của sinh viên trong trường đại

học
1.3.1. Sự cần thiết hoạt động tự học của sinh viên trong trường đại
học
1.3.2. Mục tiêu, kế hoạch, nội dung, phương pháp, hình thức tự học
của sinh viên
1.4. Quản lý hoạt động tự học của sinh viên trong trường đại học
1.4.1. Sự cần thiết của công tác quản lý hoạt động tự học của sinh viên
trong trường đại học
1.4.2. Nội dung công tác quản lý hoạt động tự học của sinh viên trong
trường đại học
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động tự học của sinh viên
Kết luận chương 1.
Chương 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH
VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ CÔNG NGHIỆP LONG AN
2.1. Khái quát về trường Đại học Kinh tế Công nghiệp Long An

37

37

2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển trường Đại học Kinh tế Công
nghiệp Long An

37

2.1.2. Mục tiêu chiến lược phát triển của trường Đại học Kinh tế Công
nghiệp Long An
2.1.3. Quy mô và chất lượng đào tạo của trường Đại học Kinh tế Công



6

nghiệp Long An
2.1.4. Cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ của trường Đại học Kinh tế
Công nghiệp Long An
2.1.5. Đặc điểm sinh viên viên trường Đại học Kinh tế Công nghiệp
Long An
2.2. Thực trạng hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học Kinh tế
Công
nghiệp Long An.
2.2.1. Nhận thức của sinh viên viên trường Đại học Kinh tế Công
nghiệp
Long An về hoạt động tự học
2.2.2. Hình thức và địa điểm tự học của sinh viên trường Đại học Kinh
tế
Công nghiệp Long An
2.3. Thực trạng công tác quản lý hoạt động tự học của sinh viên viên trường Đại
học Kinh tế Công nghiệp Long An.

53

2.3.1. Thực trạng về công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức
về vai trò tự học
2.3.2. Thực trạng về hoạt động giảng dạy của giảng viên trường Đại học
Kinh tế Công nghiệp Long An


7

2.3.3. Thực trạng hoạt động của đội ngũ giáo viên chủ nhiệm kiêm cố

vấn học tập
2.3.4. Mức độ thực hiện các giải pháp quản lý hoạt động tự học của sinh
viên trường ĐH KTCN Long An
2.4. Đánh giá chung về thực trạng công tác quản lý hoạt động tự học của sinh
viên trường Đại học Kinh tế Công nghiệp Long An 67
Kết luận chương 2.
Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA
SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ CÔNG NGHIỆP LONG AN
72
3.1. Nguyên tắc xác định các giải pháp

72

3.2. Các giải pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học
Kinh tế Công nghiệp Long An.
3.2.1. Giải pháp 1: Nâng cao nhận thức của giảng viên và sinh viên trước
yêu cầu dạy và học theo học chế tín chỉ, lấy tự học làm nồng cốt, tăng cường trao
đổi, thảo luận.

74

3.2.2. Giải pháp 2: Xây dựng hệ thống cố vấn học tập có chất lượng, hướng
dẫn sinh viên tự học có hiệu quả

77

3.2.3. Giải pháp 3: Quản lý hoạt động giảng dạy của giảng viên thúc
đẩy đổi mới phương pháp giảng dạy giúp sinh viên tự học tốt
3.2.4. Giải pháp 4: Hoàn thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị phù hợp với
yêu cầu đào tạo nhằm điều kiện cho sinh viên tự học.



8

3.2.5. Giải pháp 5: Tăng cường sự phối hợp giữa các đơn vị chức năng
hướng tới hoạt động tự học của sinh viên.

88

3.2.6. Giải pháp 6: Tăng cường kiểm tra đánh giá công tác quản lý hoạt
động tự học của sinh viên trường ĐH KTCN Long An

92

3.3. Mối liên quan giữa các giải pháp 95
3.4. Khảo sát tính cần thiết và tính khả thi của các giải pháp
Kết luận chương 3.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1.
2.

Kết luận
Kiến nghị

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


9


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

Viết đầy đủ

Viết tắt

1

Cán bộ quản lý

CBQL

2

Cố vấn học tập

CVHT

3

Đại học Kinh tế Công nghiệp Long An

ĐH KTCN Long An

4

Giáo dục và Đào tạo


GD&ĐT

5

Giáo viên chủ nhiệm

GVCN


10

BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 2.1. Thống kê kết quả tốt nghiệp của sinh viên hệ Đại học chính quy
qua 3 năm học
Bảng 2.2. Nhận thức của sinh viên trường ĐH KTCN Long An về tầm quan
trọng của hoạt động tự học
Bảng 2.3. Đánh giá về vai trò của hoạt động tự học đối với sinh viên trường
ĐH KTCN Long An
Bảng 2.4. Các hình thức tự học của sinh viên trường ĐH KTCN Long An
Bảng 2.5. Các địa điểm tự học của sinh viên trường ĐH KTCN Long An
Bảng 2.6. Nhận thức của cán bộ quản lý về ý nghĩa công tác quản lý hoạt
động tự học của sinh viên trường ĐH KTCN Long An
Bảng 2.7 Đánh giá của sinh viên về hoạt động giáo dục truyền thống nâng
cao nhận thức về mục tiêu đào tạo
Bảng 2.8. Các phương pháp dạy học được sử dụng tại trường ĐH KTCN
Long An
57
Bảng 2.9 Các hoạt động của giảng viên trong vấn đề tự học của sinh viên
trường ĐH KTCN Long An

Bảng 2.10 Các hình thức kiểm tra đánh giá kết quả học tập của sinh
viêntrường ĐH KTCN Long An
Bảng 2.11. Đánh giá về vai trò của đội ngũ giáo viên chủ nhiệm kiêm cố vấn
học tập tại trường ĐH KTCN Long An
Bảng 2.12. Mức độ thực hiện các giải pháp quản lý hoạt động tự học của sinh
viên trường ĐH KTCN Long An
Bảng 3.1 Kết quả thăm dò mức độ cần thiết và tính khả thi của các giải pháp
quản lý tại trường ĐH KTCN Long An


11


12

SƠ ĐỒ
Trang
Hình 2.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức trường ĐH KTCN Long An
Hình 3.1 Sơ đồ mối liên quan giữa các giải pháp

42
101


13

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại công nghệ thông tin cùng với nền kinh tế tri thức và xu thế
toàn cầu hoá mạnh mẽ, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã quyết định đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng
để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào
năm 2020. Để thực hiện mục tiêu trên, Đảng ta đã khẳng định nguồn lực con
người là nguồn lực quan trọng nhất và đóng vai trò then chốt bên cạnh các nguồn
lực: nguồn tài nguyên thiên nhiên; cơ sở vật chất kỹ thuật; các nguồn lực ngoài
nước…
Việc phát triển nguồn nhân lực nhằm thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại
hoá đất nước đang là nhu cầu cấp bách và mang tính đột phá, trong đó, lao động
tri thức đóng vai trò quan trọng hàng đầu.
Giáo dục được xem là con đường cơ bản nhất để thực hiện mục đích của quá
trình đó, mà tự học là phương thức cơ bản nhằm giúp người học phát triển những
hệ thống tri thức phong phú và thiết thực. Tự học - tự đào tạo là con đường phát
triển suốt đời của mỗi người, đó cũng là truyền thống quý báu của dân tộc Việt
Nam. Chất lượng và hiệu quả giáo dục chỉ được nâng lên khi tạo ra được năng
lực sáng tạo của người học, biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục,
tự nghiên cứu và trải nghiệm.
Tư tưởng Hồ Chí Minh vạch ra "lấy tự học làm gốc" đã được nhân dân ta
luôn trân trọng. Điều 5 của Luật Giáo dục quy định “Phương pháp giáo dục phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi
dưỡng cho người học năng lực tực học, khả năng thực hành, lòng say mê học
tập và ý chí vươn lên”.“Phương pháp giáo dục đại học phải coi trọng việc bồi


14

dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát triển tư
duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm,
ứng dụng”[14].
Như vậy, tự học là một yêu cầu không thể thiếu đối với mỗi công nhân nói
chung, thế hệ trẻ, sinh viên nói riêng. Tự học đã trở thành vấn đề cấp thiết đối

với giáo dục và đào tạo nước ta. Hoạt động tự học có ý nghĩa quyết định biến
quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo.
Chuyển đổi phương thức đào tạo từ học chế niên chế sang học chế tín chỉ đã
tạo sự thay đổi lớn về phong cách, thói quen dạy – học của cả thầy và trò. Đối
với hình thức đào tạo này thì khối lượng giờ dạy trên lớp sẽ giảm đi, giờ tự học,
tự nghiên cứu của sinh viên tăng lên. Chính vì vậy mà việc tự học, tự nghiên cứu
của sinh viên có vai trò hết sức quan trọng, mang tính quyết định đến hiệu quả
chất lượng đào tạo.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của tự học, trong những năm qua Trường Đại
học Kinh tế Công nghiệp Long An luôn quan tâm đến quản lý hoạt động tự học
của sinh viên. Tuy nhiên, chất lượng tự học của sinh viên còn hạn chế, chưa đáp
ứng với nhu cầu của xã hội. Nguyên nhân chủ yếu do chất lượng đầu vào chưa
cao, sinh viên chưa có kỹ năng và phương pháp học tập khoa học, hợp lý. Trong
đó, có việc đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên còn chậm. Công tác
quản lý hoạt động tự học của sinh viên chủ yếu vẫn là quản lý hành chính, mệnh
lệnh, chưa thực sự có hình thức tổ chức và giải pháp giúp sinh viên phát huy
chính mình.
Từ những tồn tại trên, việc tìm ra các giải pháp quản lý để nâng cao chất
lượng tự học của sinh nhà trường là nhiệm vụ hết sức cần thiết trong giai đoạn
hiện nay nhất là đối với Trường Đại học Kinh tế Công nghiệp Long An. Do đó,


15

chúng tôi chọn đề tài “Một số giải pháp quản lý hoạt động tự học của sinh
viên Trường Đại học Kinh tế Công nghiệp Long An”
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tự học
của sinh viên trường ĐH Kinh tế Công nghiệp Long An.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3.1. Khách thể nghiên cứu. Hoạt động tự học của sinh viên trường Đại học.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Các giải pháp quản lý hoạt động tự học của sinh
viên Trường Đại học Kinh tế Công nghiệp Long An.
4. Giả thuyết khoa học
Đề xuất được đặt ra trong hệ thống các giải pháp quản lý hoạt động tự học
của sinh viên và phù hợp với điều kiện hiện có của nhà trường, nếu được áp
dụng đồng bộ thì sẽ góp phần hình thành năng lực tự học của sinh viên nói riêng,
chất lượng và hiệu quả quá trình đào tạo nói chung.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài.
5.2. Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tự học và công tác quản lý hoạt
động tự học của sinh viên Trường Đại học Kinh tế Công nghiệp Long An.
5.3. Đề xuất các giải pháp quản lý nâng cao hiệu quả hoạt động tự học của
sinh viên Trường Đại học Kinh tế Công nghiệp Long An.
6. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã
hội, trên cơ sở thế giới quan khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu cơ bản được áp dụng gồm:


16

6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp
những tư liệu như: tư liệu về giáo dục học - tâm lý học, lý luận về quản lý giáo
dục, các văn bản về sinh viên, về tín chỉ.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Gồm phương pháp quan sát,
điều tra, phỏng vấn, thu thập những thông tin, số liệu nhằm đánh giá thực trạng
về công tác quản lý hoạt động tự học của sinh viên.
6.3. Nhóm các phương pháp xử lý số liệu: Sử dụng các công thức toán học
như trung bình cộng, thống kê và phân tích số liệu,...

7. Phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đã xác định và sự chi phối của các điều kiện khách
quan, nên luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về thực trạng công tác quản lý hoạt
động tự học của sinh viên Trường Đại học Kinh tế Công nghiệp Long An hiện
nay.
8. Đóng góp của luận văn
8.1. Về mặt lý luận: góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về hoạt động tự học
và quản lý hoạt động tự học của sinh viên đại học.
8.2. Về mặt thực tiễn: làm rõ thực trạng hoạt động và quản lý hoạt động tự
học của sinh viên trường Đại học Kinh tế Công nghiệp Long An, từ đó đề xuất
được các giải pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên có tính khả thi cao.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương l: Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý hoạt động tự học của sinh viên
Trường Đại học Kinh tế Công nghiệp Long An.


17

Chương 3: Đề xuất các giải pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên
Trường Đại học Kinh tế Công nghiệp Long An.


18

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1


. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Tự học và quản lý hoạt động tự học là một vấn đề được nhiều nhà giáo dục
học quan tâm nhằm phát huy tính tích cực, tính độc lập, tính tự giác, tính sáng
tạo của người học.
Trong lịch sử giáo dục, tự học là một vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu
trên thế giới quan tâm, song trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định nó được đề
cập dưới các góc độ và hình thức khác nhau.
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài về vấn đề tự học
Khổng tử (551 - 479 TCN) nhà triết học, nhà văn hóa, nhà giáo dục Trung
Quốc cổ đại cũng đã quan tâm đến dạy học là làm sao để phát huy được tính tích
cực suy nghĩ, tính tự học của trò. Theo ông thì thầy chỉ giúp học trò cái mấu chốt
quan trọng nhất, còn mọi vấn đề khác học trò phải từ đó mà tìm ra, thầy không
làm tất cả cho trò, trò phải tự học là chính. Ông đã từng nói với học trò mình
rằng: "Bất phẫn bất khải, phất phí bất pháp. Cử nhất ngung bát dĩ làm nguy
phản, tác bất phục dã" nghĩa là “Không tức giận vì muốn biết thì không gợi mở
cho, không bực tức vì không rõ được thì không bày vẽ cho. Vật có bốn góc bảo
cho biết một góc, mà không suy nghĩ ra ba góc thì không dạy nữa” [17].
Phương Tây cổ đại có Socrate (469-390 TCN), ông đã từng nêu lên khẩu
hiệu “Anh hãy tự biết lấy anh”[17]. Phương pháp này thường được gọi là
phương pháp Socrate, phương pháp này được sử dụng bằng cách đặt câu hỏi để
gợi cho người nghe dần tìm ra kết luận, tự phát hiện sai lầm của mình và tự khắc
phục những sai lầm đó.
Người đặt nền móng cho ý thức về hoạt động tự học trong nền giáo dục cận
đại là nhà giáo dục lỗi lạc của Tiệp Khắc J.A Comenxki (1592-1670). Cùng với
việc đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán của người học, Comenxki đã tìm


19


ra phương pháp cho phép giáo viên giảng ít hơn, học sinh học nhiều hơn. Ông
khẳng định: “Không có khát vọng học tập, không có khát vọng suy nghĩ thì sẽ
không thể trở thành tài năng” [25]. Trong tác phẩm “Phép giảng dạy vĩ đại” ông
đã trình bày những tư tưởng cấp tiến, khoa học, nhân văn về mô hình giáo dục
hiện đại mà ngày nay chúng ta đang phấn đấu áp dụng, mở đầu cho một nền giáo
dục mới.
Vào thế kỷ XVIII - XIX, một số nhà giáo dục lỗi lạc như J.J. Rousseau
(17121778), Pestalozi (1746-1827), Disterver (1790-1886), Usinxki (18241890), J. Dewey (1859-1952), … đã hướng đến việc phát huy yếu tố tiềm ẩn
trong cá nhân mỗi người, nhấn mạnh phương thức học tập bằng con đường tích
cực tìm tòi, khám phá, nỗ lực của bản thân để giành lấy tri thức. Những tư tưởng
đó được các nhà giáo dục thế hệ sau này tiếp thu và phát triển thành các phương
pháp dạy học tích cực, phát huy tính tích cực, tự chủ của người học [25].
N.A. Rubakin (1862-1946) trong tác phẩm “Tự học như thế nào?” đã nhấn
mạnh vai trò và thái độ tích cực tự học của học sinh trong việc chiếm lĩnh tri
thức. N.A. Rubakin đã thấy rõ vai trò của yếu tố động cơ trong tự học của học
sinh. Muốn người học học tập có kết quả thì trong dạy học phải giáo dục con
người có động cơ đúng đắn trong tự học. Ông khẳng định: “Việc giáo dục động
cơ đúng đắn là điều kiện cơ bản để học sinh tích cực, chủ động trong tự học”
[22]. Rubakin kết luận rằng: “Hãy mạnh dạn tự mình đặt ra câu hỏi rồi tự mình
tìm lấy câu trả lời - đó chính là phương pháp tự học. Tuy nhiên, chỉ có động cơ
thôi vẫn chưa đủ mà người học cần phải có kỹ năng tự học thì mới tự học có hiệu
quả” [22].
Nghiên cứu hoạt động tự học của sinh viên đại học tác giả A.A.Goroxepxki
và M.I.Lubixona đã khái quát việc học tập của sinh viên đại học bao gồm: nghe
và ghi bài, đọc và ghi tài liệu, chuẩn bị xenima, kiểm tra, tổ chức lao động trí óc


20

và kế hoạch làm việc cho sinh viên được trình bày trong “Tổ chức công việc tự

học của sinh viên đại học”[1], và đây cũng là các thức học cụ thể mà đến nay vẫn
được áp dụng trong học tập của sinh viên.
Một nghiên cứu khác về hoạt động học tập mà R.Retzke là chủ biên trong
cuốn sách “Học tập hợp lý”[21], ông quan niệm học tập ở đại học là một quá
trình phát triển con người, không ai làm thay được người học trong các hoạt
động của bản thân họ, và việc tiếp thu và tích lũy hiểu biết là một nhiệm vụ của
tự học.
Khi xuất hiện lý thuyết lấy người học làm trung tâm vào cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX ở các nước phương tây đã làm nảy sinh quan niệm mới về cách
dạy, cách học. Tiêu biểu có các tác giả: J.Điuây (Mỹ), Xarut(Pháp)… thể hiện
qua tính đề cao, khuyến khích, tạo điều kiện cho người học thực hiện việc học
thông qua cách thức học, kinh nghiệm học, tự thể hiện và chịu trách nhiệm về
hành động cũng như kết quả học tập của bản thân mình.
Tại Châu Á, một nhà sư phạm nổi tiếng người Nhật T.Makiguchi cho rằng:
“Mục đích của giáo dục là hướng dẫn quá trình học tập và đặt trách nhiệm học
tập vào tay mỗi học sinh. Giáo dục như là một quá trình hướng dẫn học sinh tự
học mà động lực của nó là kích thích người học sáng tạo ra giá trị để đạt đến
hạnh phúc của bản thân và cộng đồng”[7].
UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc United Nations Educational Scientific and Cultural Organization) đã đặc biệt
nhấn mạnh đến vai trò của người học, cách học cần phải được dạy cho thế hệ trẻ,
điều này được thể hiện qua tác phẩm “Học tập - một kho báu tiềm ẩn” [31]. Vào
năm 1996, Uỷ ban quốc tế về Giáo dục cho Thế kỷ XXI do Jacque Delor làm
Chủ tịch đã đưa ra một báo cáo khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục đối
với sự phát triển tương lai của cá nhân, dân tộc và nhân loại. Báo cáo này nhấn


21

mạnh giáo dục là “kho báu tiềm ẩn” và đã đưa ra một tầm nhìn về giáo dục cho
thế kỷ XXI dựa trên bốn trụ cột (học để biết, học để làm, học để khẳng định

mình, học để cùng chung sống) khẳng định tầm quan trọng của tự học trong xã
hội đầy tính cạnh tranh và trong thời đại bùng nổ của tri thức khoa học, công
nghệ như hiện nay.
1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam về vấn đề tự học
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học, tự học từ xưa đến nay.
Thời phong kiến, thầy đồ dạy học thường kèm một nhóm học trò gồm nhiều đối
tượng khác nhau, các thầy đã chú ý đến trình độ, đặc điểm lứa tuổi, hoàn cảnh
sống, tính cách từng học trò cụ thể mà giảng dạy cho phù hợp. Dưới sự hướng
dẫn của thầy mà trò tự chiếm lĩnh kiến thức cho mình.
Hoạt động tự học thực sự đã được xã hội quan tâm và nó đã trở thành một
truyền thống quý báu của dân tộc ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương
sáng về ý chí và quyết tâm trong tự học, Người đã có nhiều bài phát biểu, bài
viết trong những thời điểm, hoàn cảnh lịch sử khác nhau nhưng bao giờ Người
cũng nhấn mạnh đến tác dụng và hiệu quả to lớn của việc học tập. Nói về vấn đề
học tập và tự học của cán bộ cách mạng và học sinh, Người đã động viên toàn
dân: “Phải tự nguyện, tự giác xem việc tự học là nhiệm vụ của người cách mạng,
phải cố gắng hoàn thành cho được, do đó phải tích cực, tự động hoàn thành kế
hoạch học tập” [15]. Trong công tác huấn luyện cán bộ, người chỉ ra “Lấy tự học
làm cốt, cần có thảo luận và chỉ đạo hỗ trợ vào, cần phải biết sắp xếp thời gian
và bài học khéo và mạch lạc với nhau”[16]. Người luôn đề cao vấn đề tự học,
yêu cầu người học phải biết tự động học tập, phải lấy tự học làm nồng cốt. Chính
cuộc đời và sự nghiệp của người là tấm gương sáng của ý chí quyết tâm trong
học tập. Tư tưởng giáo dục của Người rất đơn giản, dễ hiểu, gắn với cuộc sống
đời thường, nhưng lại rất súc tích, nhất quán và phong phú. Giáo dục không chỉ


22

bó hẹp trong nhà trường, mà nó phải hướng tới giáo dục toàn dân, làm cho toàn
xã hội đều tham gia công tác giáo dục và tự giáo dục, rèn luyện mình trở thành

những công dân tốt, cán bộ tốt, chiến sĩ tốt.
Ngày nay, tư tưởng giáo dục của chủ tịch Hồ Chí Minh được Đảng, Nhà
nước vận dụng đưa vào đường lối giáo dục và đã chỉ đạo: “Đổi mới phương thức
dạy học… nâng cao khả năng tự học, tự nghiên cứu của người học”[8].
Quan điểm này tiếp tục được phát triển, trong văn kiện Đại hội IX của Đảng
cộng sản Việt Nam đã nêu rõ: “Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo
của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay
nghề, đẩy mạnh phong trào học tập trong toàn dân…”[9]
Trong những năm trở lại đây, đã có nhiều bài báo, nhiều công trình nghiên
cứu của các nhà giáo, nhà quản lý giáo dục, nhà khoa học viết về vấn đề tự học.
-

tiêu biểu như:
Sách “Tự học, tự đào tạo – tư tưởng chiến lược phát triển của giáo dục Việt
Nam”[27], do tác giả Nguyễn Cảnh Toàn chủ biên, thể hiện quan điểm tự học

-

gần với quan niệm tự đào tạo.
Sách “Phương pháp học tập, nghiên cứu của sinh viên Cao đẳng, Đại học” [23]
tác giả Phạm Trung Thanh, đã nêu ra mô hình về phương pháp học tập của sinh
viên gồm: xác định mục đích, động cơ, thái độ, việc học ở trên lớp, việc học tập

-

nghiên cứu ở nhà, việc học tập, nghiên cứu ở tập thể và qua kiểm tra-thi…
Nguyễn Cảnh Toàn trong cuốn “Quá trình dạy – tự học” (1997) và “Học và dạy
cách học” (2002) đã dày công nghiên cứu về tự học, ông định nghĩa: “Tự học là
tự mình động não, tự mình sử dụng các năng lực trí tuệ (như giám sát, so sánh,
phân tích, tổng hợp, …) và có khi cả năng lực cơ bắp (như khi phải sử dụng công

cụ, …) cùng các phẩm chất cá nhân của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân
sinh quan, thế giới quan (như trung thực, khách quan, cầu tiến, …) để chiếm lĩnh
một lĩnh vực, hiểu biết nào đó của nhân loại, biến nó thành sở hữu của mình”.


23

Theo ông “Tự học thường được hiểu là học với sách, không có thầy bên cạnh,
nhưng hiểu như vậy là hơi hẹp. Ngay cả khi có thầy bên cạnh, thì thầy cũng chỉ
hướng dẫn, uốn nắn, chứ thầy đâu có học hộ cho trò. Dạy, dù sao, cũng chỉ là
ngoại lực tác động đến trò. Ngoại lực đó phải có sự cộng hưởng của nội lực là sự
cố gắng của học trò. Sự cố gắng này là tự học”. Như vậy, tự học có thể xảy ra khi
-

có thầy, có sách và cả khi không có thầy, có sách. [28], [29].
Trong Luật giáo dục Việt Nam đã chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phải phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho
người học năng lực tực học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí
vươn lên” (điều 5). “Phương pháp giáo dục đại học phải coi trọng việc bồi dưỡng
năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy
sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng
dụng” (điều 40). [14]
Tự học là một yêu cầu không thể thiếu đối với mỗi công dân nói chung,
thế hệ trẻ, sinh viên nói riêng. Trong nền giáo dục hiện đại thì nó có vai trò quan
trọng, quyết định đến hiệu quả và chất lượng của công tác đào tạo. Bên cạnh đó,
tự học là con đường phát triển nội lực của mỗi cá nhân, của dân tộc, động lực
chính của quá trình giáo dục - đào tạo.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Học và tự học
1.2.1.1. Học

Chúng ta đã biết rằng quá trình dạy học bao gồm quá trình dạy và quá
trình học. Trong đó, dạy là hoạt động lãnh đạo, tổ chức, điều khiển hoạt động
học của học sinh, sinh viên. Học là hoạt động do được sự lãnh đạo, tổ chức, điều
khiển nên nó là hoạt động nhận thức đặc biệt.


24

Học là quá trình con người lĩnh hội những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và
những phương thức hành vi mới, do vậy, ta thấy học chính là hoạt động nhằm
tạo ra sự thay đổi và phát triển kiến thức của người học một cách bền vững. Để
lĩnh hội được những kinh nghiệm xã hội, con người có nhiều cách thức chiếm
lĩnh khác nhau, đó có thể là do được người khác truyền thụ, do tự quan sát, đúc
kết từ lao động và môi trường sống.
Theo Từ điển Giáo dục học: “Học là quá trình nghiền ngẫm, đọc đi đọc
lại, nhắc đi nhắc lại để ghi nhớ, để bắt chước, để hiểu, để làm” hoặc “Học, cốt lõi
là tự học, là quá trình phát triển nội tại, trong đó chủ yếu là tự thể hiện và biến
đổi mình, tự làm phong phú giá trị của mình bằng cách thu nhận, xử lý và biến
đổi thông tin bên ngoài thành tri thức bên trong của con người mình”[30].
Học là hoạt động tự giác tích cực, chủ động, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt
động nhận thức. Học tập của người học nhằm thu nhận xử lý, biến đổi thông tin
bên ngoài thành trí thức của bản thân, qua đó người học thể hiện mình, biến đổi
mình, tự làm phong phú giá trị của mình. Học là hoạt động cá nhân và là hoạt
động tự giác, là sự tự khám phá hiện thực, hoạt động học còn gắn kết với nhân tố
môi trường như bạn bè, gia đình, lớp học, cộng đồng, trong quá trình học cá
nhân và xã hội không tách rời nhau.
Học có thể diễn ra một cách ngẫu nhiên trong cuộc sống hàng ngày và nó
diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc. Cách học có thể diễn ra trong công việc qua lao động
sản xuất, trong hoạt động vui chơi,... Ở người học không chỉ hình thành những
năng lực thực tiễn do kinh nghiệm mang lại, mà còn tiến hành các hoạt động có

định hướng để thực hiện những mục tiêu đề ra.
1.2.1.2. Tự học


25

Gibbon đã nói: “Mỗi người đều phải nhận hai thứ giáo dục, một thứ do
người khác truyền cho, một thứ quan trọng hơn do chính mình tạo lấy”[27]. Thứ
do người khác truyền cho là những kiến thức mà người học tiếp thu từ sự truyền
đạt của thầy, còn thứ quan trọng hơn do chính mình tạo lấy chính là việc tự học.
Theo N.A. Rubankin: “Tự học là quá trình lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm
xã hội, lịch sử trong thực tiễn hoạt động cá nhân bằng cách thiết lập các mối
quan hệ cải tiến kinh nghiệm ban đầu, đối chiếu với các mô hình phản ánh hoàn
cảnh thực tại, biến tri thức của loài người thành vốn tri thức, kinh nghiệm, kỹ
năng, kỹ xảo của bản thân chủ thể” [22].
Như vậy, tự học (self - study) là sự nỗ lực chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng của
bản thân của người học để hướng tới những mục đích học tập nhất định.
Tự học là học khi có thầy và cả khi không có thầy, người học biết tự xác
định mục tiêu, tự lập kế hoạch, tự đánh giá việc học tập của bản thân.
Theo nghiên cứu của các nhà tâm lý giáo dục, biểu hiện của ý thức tự học
rất đa dạng: Một sinh viên có ý thức tự học tốt phải là người biết cách sắp xếp
thời gian học tập: học tập trên lớp, nghiên cứu tài liệu mọi lúc, mọi nơi ngay cả
trong vui chơi giải trí hoặc học qua mạng Internet. Người có ý thức tự học tốt
còn là người luôn tìm thấy những điều đáng học hỏi trong cuộc sống xung
quanh, ngay từ những điều nhỏ nhặt nhất, biến nó thành vốn sống, kỹ năng sống
cho bản thân.
Như vậy, tự học là hình thức hoạt động nhận thức của người học nhằm
chiếm lĩnh tri thức, tự mình luyện tập các thao tác, hành động để hình thành kỹ
năng, kỹ xảo. Tự học phản ánh rõ nhất nhu cầu về học tập của người học, nó
giúp người học tự tìm ra tri thức mới, cách thức hành động mới bằng chính nỗ

lực của bản thân mình. Tự học hình thành nên những con người năng động và
sáng tạo.


×