Tải bản đầy đủ (.docx) (152 trang)

Giáo dục đọa đức cho học sinh trung học cơ sở huyện bến lức, tỉnh long an trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (639.1 KB, 152 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHAN THỊ LINH PHƯƠNG

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG
HỌC CƠ SỞ Ở HUYỆN BẾN LỨC, TỈNH LONG
AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Nghệ An, 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀOTẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHAN THỊ LINH PHƯƠNG

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG
HỌC CƠ SỞ Ở HUYỆN BẾN LỨC, TỈNH LONG AN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN LƯƠNG BẲNG

Nghệ An, 2015




LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, ngoài sự cố gắng phấn đấu của
bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của nhiều tập thể, cá nhân.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến quý thầy cô Khoa Giáo dục chính
trị, Phòng Đào tạo Sau Đại học – Trường Đại học Vinh đã tận tình giúp đỡ,
truyền đạt mọi tri thức để tôi có thể hoàn thành khóa học và luận văn này. Đặc
biệt tôi xin tỏ lòng tri ân sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Lương Bằng, người đã tận
tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn
thành luận văn.
Bên cạnh đó, tôi cũng xin gửi lời cám ơn đến Phòng Giáo dục và Đào tạo
Bến Lức, Ban Giám hiệu, quý thầy cô, quý phụ huynh cùng các em học sinh các
trường THCS ở huyện Bến Lức đã tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt
quá trình theo học chương trình Cao học cũng như quá trình thu thập số liệu,
thông tin liên quan đến nội dung nghiên cứu.
Cuối cùng tôi gửi lời cám ơn chân thành đến những người thân trong gia
đình và tất cả bạn bè, đồng nghiệp đã động viên và giúp đỡ tôi rất nhiều.
Tuy nhiên do giới hạn về kiến thức và thời gian nghiên cứu, chắc chắn
luận văn còn có những thiếu sót và hạn chế. Tác giả mong nhận được sự chỉ dẫn,
góp ý, nhận xét của thầy cô giáo, bạn bè và đồng nghiệp để tiếp tục hoàn thiện
trong tương lai.
Xin trân trọng cảm ơn!
Nghệ An, năm 2015
Người viết luận văn

Phan Thị Linh Phương


MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
B. NỘI DUNG......................................................................................................10
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC CƠ SỞ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.............................10
1.1. Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài ....................................................10
1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ và nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh Trung học
cơ sở……………………………………………………………………............ 25
1.3. Vai trò của giáo dục đạo đức với sự hình thành và phát triển nhân cách học
sinh Trung học cơ sở ............................................................................................39
Chương 2. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC CƠ SỞ Ở HUYỆN BẾN LỨC, TỈNH LONG AN
……………………...............................................................................................46
2.1. Đặc điểm các trường Trung học cơ sở ở huyện Bến Lức, tỉnh Long An ......46
2.2. Thực trạng đạo đức và công tác giáo dục đạo đức cho học sinh Trung học cơ
sở huyện Bến Lức, tỉnh Long An .........................................................................51
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHÓM GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG
HỌC CƠ SỞ Ở HUYỆN BẾN LỨC, TỈNH LONG AN TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY ……………………………………….................................82
3.1. Phương hướng giáo dục đạo đức học sinh Trung học cơ sở huyện Bến Lức,
tỉnh Long An ........................................................................................................82
3.2. Những nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học
sinh Trung học cơ sở huyện Bến Lức, tỉnh Long An ...........................................86
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.....................................................................117
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................120
E. PHỤ LỤC......................................................................................................124
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


1.

2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.

CBQL Cán bộ quản lý
CNXH Chủ nghĩa xã hội
GDCD Giáo dục công dân
GDĐĐ Giáo dục đạo đức
GVBM
GVCN Giáo viên chủ nhiệm
GS
HS
PGS
PH
TS
THCS Trung học cơ sở
XHCN Xã hội chủ nghĩa

Giáo viên bộ môn
Giáo sư
Học sinh

Phó giáo sư
Phụ huynh
Tiến sĩ


6

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong đời sống xã hội, đòi hỏi tất yếu mỗi người phải ý thức được ý
nghĩa, mục đích hoạt động của mình trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Những
hoạt động đó bao giờ cũng có sự chi phối của những quan hệ giữa cá nhân với
cá nhân, cá nhân với xã hội. Những mối quan hệ đó qui định giới hạn nhất định
nhằm đảm bảo lợi ích của cộng đồng và xã hội. Những qui định này tự giác tạo
thành động lực cho sự phát triển xã hội. Đó chính là những qui tắc, chuẩn mực
hoàn toàn tự giác trong hành động của mỗi cá nhân trong tất cả các mối quan hệ
xã hội. Nói cách khác đó chính là đạo đức của con người trong xã hội.
Đạo đức là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm
điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử giữa con người với con người và các mối
quan hệ xã hội. Đạo đức có vai trò to lớn trong đời sống xã hội loài người.
Trong đời sống của mình con người ai cũng phải suy nghĩ về những vấn
đề đạo đức để tìm ra những con đường, cách thức và phương tiện hoạt động
nhằm kết hợp lợi ích của mình và cộng đồng từ đó bảo đảm cho sự tồn tại, phát
triển của chính mình và cộng đồng. Chính vì vậy, giáo dục đạo đức nhằm hình
thành cho con người những quan niệm đúng đắn về đạo đức. Trên cơ sở đó giúp
con người đánh giá đúng các hiện tượng, các hành vi đạo đức diễn ra xung
quanh mình. Từ đó, con người tự đánh giá những suy nghĩ, hành vi của bản
thân, hình thành lý tưởng niềm tin và sẵn sàng bảo vệ lý tưởng niềm tin đó.
Đức và tài là hai tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá một con người và trở
thành mục tiêu phấn đấu tu dưỡng của mọi người. Vì thế, giáo dục cùng với việc

cung cấp kiến thức, kĩ năng là phải bồi dưỡng được cái đức: cái vốn quí của một
con người. Ngày nay, sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ đã ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của tất cả các quốc gia trên toàn
thế giới. Cùng với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ là sự ra đời của nền
kinh tế tri thức. Điều đó đã đặt ra những vấn đề mới cho lĩnh vực giáo dục đào


7

tạo. Bởi vậy, Đảng ta xác định “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, nhằm
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Giáo dục là quốc sách
hàng đầu thì giáo dục đạo đức học sinh chính là trang đầu của quốc sách ấy. Vai
trò của giáo dục đạo đức thật sự quan trọng và có thể ảnh hưởng đến sự tồn vong
của một dân tộc. Giáo dục đạo đức chính là trụ cột của một quốc gia để tạo
dựng, giữ gìn và phát triển các giá trị xã hội.
Trong những năm qua, đất nước ta tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện
và sâu sắc. Từ một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Chuyển từ chính sách “bao cấp” sang chính sách “mở cửa” làm bạn với các
nước trong khu vực và trên thế giới chúng ta có nhiều thành tựu to lớn rất đáng
tự hào về phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa - giáo dục. Tuy nhiên, mặt trái của
cơ chế mới cũng ảnh hưởng tiêu cực đến sự nghiệp giáo dục, trong đó sự suy
thoái về đạo đức và những giá trị nhân văn là vấn đề toàn xã hội phải quan tâm.
Đánh giá thực trạng giáo dục, đào tạo Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII nhấn
mạnh “Đặc biệt đáng lo ngại là một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy
thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão
lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước” [8, tr.22].
Hiện nay, tình trạng thanh thiếu niên vi phạm pháp luật diễn biến phức
tạp, trở thành mối quan ngại của xã hội. Theo báo cáo của Ban chỉ đạo Đề án IV
“Đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm hại trẻ em và tội phạm trong lứa tuổi

chưa thành niên” của Bộ Công an, trong vòng 6 năm (2007 - 2013), trên cả nước
đã xảy ra 63.600 vụ án hình sự do trẻ vị thành niên gây ra, với 94.300 đối tượng
là trẻ vị thành niên phạm tội, tăng gần 4.300 vụ án so với 6 năm trước đó.
Một vấn đề đáng lo ngại là số tội phạm vị thành niên ngày càng trẻ hóa.
Theo thống kê, trong tổng số 94.300 tội phạm vị thành niên nói trên, số trẻ dưới
14 tuổi phạm tội chiếm tới 13%, trẻ từ 14 đến 16 tuổi phạm tội chiếm tới 34,7%.


8

Cùng với dòng chảy đó, học sinh các trường Trung học cơ sở trên địa bàn
huyện Bến Lức tỉnh Long An trong những năm gần đây cũng không nằm ngoài
tình trạng trên. Số học sinh vi phạm pháp luật không ít diễn ra dưới các hình
thức: Không chấp hành luật lệ giao thông, thiếu lễ độ với người lớn, nói tục, gây
gổ đánh nhau, không trung thực, ích kỷ, ham chơi, đua đòi... ngày càng nhiều.
Trước thực trạng đó, thì giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ là một nhiệm vụ
thường xuyên và quan trọng của xã hội, nhất là giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ
đang ngồi trên ghế nhà trường, những người sẽ kế tục sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước. Việc giáo dục đạo đức càng trở nên quan trọng và thật sự cấp
thiết khi đất nước ta bước vào giai đoạn hội nhập phát triển, giai đoạn chuyển
đổi nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
nhà nước. Đặc biệt đây là thời điểm cả nước đang hưởng ứng cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Những luận cứ nêu trên chỉ ra rằng “Giáo dục đạo đức cho học sinh
Trung học cơ sở ở huyện Bến Lức, tỉnh Long An trong giai đoạn hiện nay” là
hết sức cần thiết và đang đặt ra nhiều vấn đề cấp bách không chỉ ở huyện Bến
Lức, tỉnh Long An mà còn là vấn đề chung của cả nước.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã viết: “Chính con người, khi phát triển sự sản
xuất vật chất và sự giao tiếp vật chất của mình, đã làm biến đổi, cùng với hiện
thực đó của mình, cả tư duy lẫn sản phẩm tư duy của mình. Không phải ý thức

quyết định đời sống mà chính đời sống quyết định ý thức” [27, tr.227]. Như vậy,
với tư cách là một nội dung của phạm trù ý thức xã hội, đạo đức là sản phẩm của
những điều kiện lịch sử - xã hội, vì vậy khi xã hội thay đổi thì đạo đức cũng có
sự biến đổi và tác động lại hoặc làm cho xã hội không ngừng tiến bộ, hoặc kìm
hãm sự phát triển của xã hội.
Các triết gia phương Tây trong thời cổ đại đã khẳng định rằng: “Trước
tiên hãy học đạo đức, rồi đến học tri thức. Không có đạo đức, không thể thành


9

đạt trong cuộc sống”. “Người thành đạt trong học thức, nhưng không thành đạt
trong đạo đức coi như không thành đạt”.
Ở nước ta ngay từ xưa, ông cha ta đã xác định “Tiên học lễ, hậu học văn”,
“Lễ” ở đây chính là nền tảng của sự lĩnh hội và phát triển tốt các tri thức và kỹ
năng. Ngày nay, phương châm “Dạy người, dạy chữ, dạy nghề” cũng thể hiện rõ
tầm quan trọng của hoạt động giáo dục đạo đức, nếu thiếu đạo đức, con người sẽ
không phải là con người bình thường và cuộc sống xã hội sẽ không ổn định. Do
đó, nội dung giáo dục đạo đức trong nhà trường phải coi trọng 5 điều: Đoàn kết
tốt, kỉ luật tốt, khiêm tốn, thật thà, dũng cảm.
Luật giáo dục nước ta đã xác định: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là
giúp cho học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và
các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo,
hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách
và trách nhiệm công dân” [49, tr.25].
Kế thừa các quan điểm trên, nhiều tác giả nước ta đã có nhiều công trình
nghiên cứu, nhiều bài viết về vấn đề đạo đức, lối sống và giáo dục đạo đức như:
Thứ trưởng Võ Thuần Nho với bài “Một số vấn đề lý luận và tư tưởng về
giáo dục đạo đức cách mạng trong trường học”, (Báo nghiên cứu giáo dục số
8/1980). Tác giả đã đưa ra những lí luận và tư tưởng chủ đạo trong việc hình

thành đạo đức cách mạng cho học sinh trong nhà trường.
PGS.TS. Đoàn Minh Duệ và các cộng tác viên với đề tài “Tình hình tư
tưởng đạo đức, lối sống của sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng thuộc các
tỉnh Bắc miền Trung”. Mặc dù đã khai thác khá sâu các vấn đề về đạo đức, lối
sống nhưng các giải pháp trong đề tài còn tập trung vào nâng cao giáo dục đạo
đức, lối sống của sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng chưa tập trung vào các
trường Trung học phổ thông và Trung học cơ sở.
GS. Phạm Minh Hạc trong nhiều công trình nghiên cứu về đạo đức đã
nhấn mạnh đến vấn đề cấu trúc của nhân cách cũng như nhấn mạnh vai trò của


10

giáo dục đạo đức trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Trong tác
phẩm “Giá trị học cơ sở lý luận góp phần đúc kết, xây dựng giá trị chung của
người Việt Nam thời nay”, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội 2010, đã đi từ góc độ
nghiên cứu giáo dục học, tâm lý học đến giá trị học trong thời điểm nhấn mạnh
việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa tri thức nhân loại.
TS. Nguyễn Quang Uẩn (1998), “Xây dựng lối sống và đạo đức mới cho
sinh viên đại học Sư phạm phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”,
Báo cáo tổng hợp đề tài khoa học công nghệ cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, đã
nêu bật các nguyên lý, mục tiêu và phương pháp giáo dục toàn diện con người
Việt Nam mà đích đến cuối cùng là đào tạo nên những con người tốt, có ích cho
xã hội và cộng đồng tạo nên nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hóa hiện đại hóa và thúc đẩy xã hội tiến bộ.
Luận án tiến sĩ triết học của Đỗ Tuyết Bảo: “Giáo dục đạo đức cho học
sinh các trường phổ thông cơ sở ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kì đổi
mới hiện nay”, đã phân tích ảnh hưởng của cơ chế thị trường đối với công tác
giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ nói chung và học sinh Trung học cơ sở
ở Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Trên cơ sở đó tác giả đề ra những định

hướng và giải pháp để góp phần giáo dục đạo đức học sinh Trung học cơ sở.
Bài báo của đồng chí Vũ Trọng Kim đăng tải trên Tạp chí Cộng sản số 21
(11-1997) khẳng định công tác vận động thanh niên hiện nay trong đó có học
sinh, sinh viên là rất quan trọng. Tuy nhiên, bài báo chưa đi sâu phân tích, đáng
giá thực trạng và các giải pháp cho công tác giáo dục đạo đức, lối sống đối với
học sinh phổ thông hiện nay.
Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên (chủ biên) (2002) “Giá trị
truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hóa” công trình đã đề cập
đến một số nội dung quan trọng như: “Các giá trị truyền thống trước sự thẩm
định và thách thức của thời đại trong bối cảnh toàn cầu hoá”; “Một số suy nghĩ
về giữ gìn và phát huy giá trị đạo đức truyền thống ở Việt Nam hiện nay”; “Giá


11

trị truyền thống Việt Nam nội dung và vị thế của nó trong giá trị nhân loại”...
Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc (chủ biên) (2003) “Mấy vấn đề
đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”, tác giả đã phân
tích một số nội dung quan trọng như: “Kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay và
những biến đổi trong lĩnh vực đạo đức”; “Giữ gìn và phát huy các giá trị đạo
đức truyền thống trong bối cảnh kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”; “Quan
hệ giữa các giá trị truyền thống và hiện đại trong xây dựng đạo đức”…
Nguyễn Chí Mỳ (chủ biên) (1999) “Sự thay đổi của thang giá trị đạo đức
trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý
ở nước ta hiện nay”, tác giả đã đưa ra một số vấn đề cơ bản như: Đạo đức mới
trong cơ chế thị trường; sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từ đó xây dựng đạo đức mới, đưa
ra phương hướng và giải pháp hình thành thang giá trị đạo đức mới.
Vũ Minh Giang, Phan Huy Lê (1994) “Các giá trị truyền thống của con
người Việt Nam hiện nay” Chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước KX

07-02, công trình đã đề cập đến một số nội dung: “Một số suy nghĩ về quá trình
hình thành và biến đổi của truyền thống yêu nước Việt Nam”; “Con người Việt
Nam hiện tại trong mối quan hệ với các giá trị và phản giá trị của truyền
thống”,...
Ngoài ra còn một số bài báo, tạp chí của nhiều tác giả đã bàn đến các nội
dung: Đặng Hữu Toàn (2001), Hướng các giá trị đạo đức truyền thống theo
chuẩn giá trị chân thiện mỹ trong bối cảnh toàn cầu hoá và phát triển kinh tế thị
trường, tạp chí triết học số 4; Nguyễn Văn Huyên (2003), Lối sống người Việt
Nam dưới tác động của toàn cầu hoá, tạp chí triết học số 12; Võ Văn Thắng
(2005), Một số mâu thuẫn nảy sinh trong xây dựng lối sống mới ở nước ta hiện
nay, tạp chí triết học số 8; Nguyễn Thị Thanh Huyền (2007), Toàn cầu hoá và
nguy cơ suy thoái đạo đức, lối lối con người Việt Nam hiện nay, tạp chí triết học
số 2; Cao Thu Hằng (2003), Giáo dục các giá trị đạo đức truyền thống trong


12

điều kiện hiện nay, tạp chí triết học số 11,… và một số tài liệu “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Ban tư tưởng Văn hóa Trung ương
soạn thảo. PGS.TS. Nguyễn Lương Bằng (2012), Tiêu chí đánh giá, xếp loại
đạo đức học sinh phổ thông - một số vấn đề đặt ra trong bối cảnh hiện nay, Tạp
chí Đại học Sài Gòn, số 8. Truyền thống đạo đức trọng nhân nghĩa và ảnh
hưởng của nó đối với sinh viên hiện nay, Tạp chí Giáo dục, Số 4 (2006). Giáo
dục đạo đức cho học sinh (dưới góc độ triết học và đạo đức học), Thông báo
khoa học, ĐHSP Vinh, Số 66 (2003). Kinh nghiệm giáo dục đạo đức cho học
sinh phổ thông và một số vấn đề về đạo đức, Khoa học xã hội và nhân văn Nghệ
An, số 7/2013.
Một số luận văn thạc sĩ cũng đã chọn đề tài về giáo dục đạo đức, lối sống
cho học sinh, sinh viên, thanh niên như:
Nguyễn Hải Chi (2012), Nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức, lối sống

cho học sinh Trung học phổ thông trong giai đoạn hiện nay (Qua khảo sát tại
trường Trung học Thực Hành - Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh),
Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục, Đại học Vinh - Nghệ An.
Nguyễn Thị Thanh Hương (2012), Giáo dục đạo đức cho học sinh trường
trung học phổ thông Huỳnh Thúc Kháng, Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An giai
đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục, Đại học Vinh - Nghệ An.
Nguyễn Thị Cẩm Thủy (2012), Nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho
học sinh trung học cơ sở trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh
trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục, Đại học Vinh Nghệ An.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu khoa học, sách chuyên khảo, các
bài báo, tạp chí nêu trên về cơ bản rất có giá trị, nội dung nghiên cứu phong phú
và đa dạng. Các tác giả đã đề cập tới công tác giáo dục đạo đức cả về mặt lý
luận và thực tiễn, đã đưa ra những biện pháp hết sức thiết thực nhằm định hướng
cho công tác giáo dục đạo đức. Các công trình trên đã cung cấp cho chúng tôi


13

những lý luận hữu ích trong đề tài nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, trên đây là
những cái chung, trên bình diện rộng nhưng ở một địa bàn cụ thể như huyện Bến
Lức, tỉnh Long An thì các công trình trên chỉ gợi mở về mặt lý luận còn thực
tiễn thì chưa có công trình nào đề cập đến. Vì vậy, nghiên cứu để nắm được thực
trạng từ đó đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho
học sinh Trung học cơ sở ở huyện Bến Lức, tỉnh Long An vẫn là vấn đề cấp
thiết.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ thực trạng công tác giáo dục đạo đức học sinh Trung học
cơ sở ở huyện Bến Lức tỉnh Long An, đề tài đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh Trung học cơ sở ở huyện Bến Lức,
tỉnh Long An trong giai đoạn hiện nay.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận về công tác giáo dục đạo đức cho học sinh
Trung học cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
Thứ hai, khảo sát, đánh giá thực trạng đạo đức và công tác giáo dục đạo
đức học sinh ở một số trường Trung học cơ sở ở huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
Thứ ba, bước đầu đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo
dục đạo đức cho học sinh Trung học cơ sở ở huyện Bến Lức, tỉnh Long An trong
giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề đạo đức và công tác giáo dục
đạo đức cho học sinh Trung học cơ sở ở huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về đạo đức, thực trạng đạo đức và công tác giáo dục
đạo đức trong các trường Trung học cơ sở ở huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
5. Phương pháp nghiên cứu


14

Ngoài phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử, đề tài sử dụng các phương pháp chuyên ngành và liên ngành như:
-

Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu, phân tích, tổng

hợp, hệ thống hóa các tài liệu liên quan đề tài.
-

Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:

+ Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
+ Phương pháp quan sát các hoạt động giáo dục đạo đức trong nhà trường
+ Phương pháp phỏng vấn
+ Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.

6. Những đóng góp mới của đề tài
Đề tài đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác giáo
dục đạo đức cho học sinh Trung học cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục
đạo đức cho học sinh Trung học cơ sở ở huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên và học viên cao
học ngành chính trị.


15

B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC
CƠ SỞ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1. Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.1.1. Khái niệm đạo đức
Ngay từ thuở hoang sơ nhất của mình con người đã thiết lập các mối quan
hệ với nhau mặc dù đó chỉ là những quan hệ mang tính quần cư đơn thuần.
Trong quá trình tồn tại, phát triển con người từng bước ý thức được sự cần thiết
phải dựa vào nhau, hợp tác với nhau để đảm bảo cuộc sống hay chống chọi lại
sự khắc nghiệt của tự nhiên. Chính việc ý thức được sự cần thiết này đã làm nảy
sinh khát vọng về sự công bằng, sự bình đẳng… giữa mọi người với nhau trong
xã hội. Đây chính là những biểu hiện đầu tiên của các giá trị, chuẩn mực hay
nguyên tắc đạo đức.

Ở phương Đông, trong các học thuyết của Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo
đều lấy đạo đức làm nền tảng trong đối nhân xử thế và tự rèn luyện mình,
khuyên con người nên làm nhiều việc thiện, tránh làm điều ác. Theo quan niệm
của người Trung Quốc cổ đại “đạo” có nghĩa là con đường, đường đi; ngoài ra
“đạo” còn có nghĩa là đường sống của mỗi người trong các mối quan hệ xã hội.
Khi đề cặp đến “đức” là nói đến nhân đức, đức tính, là biểu hiện của đạo, đạo
nghĩa và là nguyên tắc luân lý. Có thế nói, ở phương Đông mà điển hình là
người Trung Quốc cổ đại thì đạo đức có nghĩa là những yêu cầu, những nguyên
tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo hay đó chính là đạo làm
người.
Ở phương Tây, vấn đề đạo đức từ rất sớm đã thu hút sự quan tâm chú ý
của nhiều nhà tư tưởng. Danh từ đạo đức bắt nguồn từ chữ mos trong ngữ vựng
Latinh có nghĩa là lề thói. Moralis có nghĩa là thói quen. Ngoài ra, trong tiếng
Hi Lạp còn có khái niệm ethicos cũng có nghĩa là tập tục gắn với thói quen. Cả


16

hai từ này đều nói về đạo đức xã hội, điều đó chứng tỏ rằng, đạo đức chính là
những lề thói tập tục và biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người với người
trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày. Vì thế, một cá nhân được đánh giá là
người có đạo đức khi cá nhân đó luôn tuân thủ đúng những lề lối, tập tục trong
xã hội và ngược lại những người không tuân theo những điều đó thì là người
không có đạo đức.
Đạo đức không phải là sự biểu hiện của một sức mạnh nào đó ở bên ngoài
xã hội, bên ngoài các quan hệ con người; cũng không phải là sự biểu hiện của
những năng lực “tiên thiên”, nhất thành bất biến của con người. Với tư cách là
sự phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức là sản phẩm của những điều kiện sinh hoạt
vật chất của xã hội, của cơ sở kinh tế. “Xét cho cùng, mọi học thuyết về đạo đức
đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy

giờ” [29, tr.137]. Nói cách khác, từ xã hội cổ đại đến hiện đại, mỗi giai cấp đều
có nền đạo đức riêng của mình và thái độ của chúng ta là “không tin vào đạo
đức vĩnh viễn và chúng ta bóc trần tất cả những sự dối trá của các câu chuyện
hoang đường về đạo đức vĩnh viễn” [20, tr.371].
Như vậy, đạo đức sinh trước hết là từ nhu cầu phối hợp hành động trong
lao động sản xuất vật chất, trong đấu tranh xã hội, trong phân phối sản phẩm để
con người tồn tại và phát triển. Cùng với sự phát triển của sản xuất, các quan hệ
xã hội, hệ thống các quan hệ đạo đức, ý thức đạo đức, hành vi đạo đức cũng theo
đó mà ngày càng phát triển, ngày càng nâng cao, phong phú, đa dạng và phức
tạp.
Đạo đức là một trong những phạm trù được bàn nhiều nhất và từ rất sớm
nên có rất nhiều quan niệm về đạo đức. Theo Martin Heigdergger thì “Đạo đức
là lĩnh vực của con người mà hành vi, các mối quan tâm, những tình cảm được
chia sẻ giữa người này với người khác theo những mục tiêu và tiêu chí nhất định
có liên quan đến tự do và trật tự phức tạp của cộng đồng” [14, tr.90-91]. Nhà
nghiên cứu đạo đức nổi tiếng người Nga là G. Bandzeladze đã viết: “Đạo đức


17

của con người là năng lực phục vụ một cách tự giác và tự do những người khác
và xã hội… Nơi nào không có những hành động tự nguyện, tự giác của con
người thì nơi ấy không có nhân phẩm, không thể thực sự có đời sống xã hội và
bản thân tính người (hoặc nhân phẩm) là ở đạo đức và nội dung của đạo đức
chính là năng lực phục vụ tự nguyện, tự giác lợi ích của người khác và của toàn
thể xã hội” [5, tr.48-49].
“Đạo đức là một quan hệ xã hội có quy tắc, có chuẩn mực, có đánh giá, có
giá trị, nhưng nó không ghi thành văn bản pháp quy, mà thông thường là nếp
sống, phong tục, tập quán do một cộng đồng nhất định tạo thành khi chung sống
với nhau” [16, tr.11]. Hay “Đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc,

chuẩn mực xã hội nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình vì lợi
ích xã hội, hạnh phúc của con người trong mối quan hệ giữa con người và con
người” [17, tr.7].
“Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui
tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh cách đánh giá và cách ứng xử của con
người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi
niềm tin cá nhân, bởi sức mạnh của truyền thống và sức mạnh của dư luận xã
hội” [25, tr.196]. Như vậy, đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc,
chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp
với tiến bộ chung của xã hội. Đây là sự phản ánh các quan hệ xã hội, là toàn bộ
những quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công
bằng, danh dự, lòng tự trọng, ước mơ, ý chí, lý tưởng... và về những quy tắc đánh
giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân và xã hội, giữa cá nhân với cá nhân
trong xã hội.
“Đạo đức giúp cho xã hội loài người tiến lên trình độ cao hơn, thoát khỏi
ách bóc lột lao động” [19, tr.356], giúp cho con người không ngừng nâng cao
phẩm giá của mình và góp phần xây dựng, giữ gìn và bảo vệ cuộc sống ngày
càng tốt đẹp hơn, lành mạnh hơn. Hay nói cách khác đạo đức là “những gì góp


18

phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người
lao động chung quanh giai cấp vô sản đang tạo ra xã hội mới, Cộng sản chủ
nghĩa” [19, tr.354] và chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi sức mạnh
của truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
Các khái niệm trên cho chúng ta thấy rằng đạo đức là một hình thái ý thức
được hình thành rất sớm trong lịch sử phát triển nhân loại và được mọi xã hội,
mọi giai cấp, mọi thời đại quan tâm. Khi xã hội chưa phân chia giai cấp, đạo đức
là công cụ chủ yếu để điều tiết hành vi cá nhân. Khi xã hội đã phân chia giai

cấp, đạo đức cùng với pháp luật trở thành phương thức điều chỉnh hành vi của
con người. Trong cuộc sống hiện thực, đạo đức bao gồm ý thức, tình cảm và
hành động thực tiễn. Cả ba mặt đó thường thì thống nhất với nhau, nói lên năng
lực phục vụ một cách tích cực, tự giác của cá nhân trong mối tương quan vì lợi
ích của người khác và của xã hội.
Đây chính là hệ thống quan niệm về cái chân, thiện, mỹ và cái ác trong
quan hệ giữa người với người và với môi trường xung quanh. Đạo đức về bản
chất là những nguyên tắc, những chuẩn mực trong quan hệ xã hội, nó được hình
thành và phát triển trong cuộc sống, được mọi người thừa nhận và tự giác thực
hiện. Đạo đức chính là tinh hoa văn hóa của cuộc sống thể hiện trong cuộc sống
hằng ngày, thực hiện chức năng xã hội hết sức quan trọng là điều chỉnh hành vi
của con người trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Như vậy, theo chúng tôi có thể hiểu đạo đức theo các nghĩa sau: Thứ nhất,
hiểu theo nghĩa rộng thì đạo đức là hình thái ý thức xã hội, nhờ đó con người tự
giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc và làm giàu tính
người trong các quan hệ xã hội. Thứ hai, hiểu theo nghĩa hẹp thì đạo đức là các
qui tắc, chuẩn mực dùng điều chỉnh hành vi con người trong quan hệ giữa người
với người trong hoạt động sống. Thứ ba, hiểu theo nghĩa rất hẹp thì đó là hành vi
đạo đức, là hành động cá nhân thể hiện quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ đối


19

với xã hội và đối với người khác, thể hiện lương tâm hoặc bổn phận cá nhân
trong những hoàn cảnh đặc thù. Nhưng dù được hiểu theo nghĩa nào thì nội dung
cốt lõi của đạo đức vẫn là phản ánh mối quan hệ của con người với chính bản
thân mình, với mọi người, với cộng đồng, công việc, môi trường và quan hệ với
cả dân tộc.
1.1.2. Khái niệm giáo dục đạo đức
1.1.2.1. Khái niệm giáo dục

Ngay từ buổi bình minh của mình để tồn tại được con người đã tiến hành
các hoạt động lao động. Có thể nói lao động là hoạt động chủ yếu, quan trọng
nhất của con người, là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của cả nhân
loại. Chính thông qua lao động và thông qua các hoạt động thực tiễn diễn ra
trong cuộc sống hàng ngày con người đã bắt đầu nhận thức về thế giới xung
quanh và dần dần tích lũy cho mình một kho tàng kinh nghiệm quý giá. Đó là
các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, các chuẩn mực về đạo đức, niềm tin, các dạng
hoạt động giao lưu của con người trong xã hội. Cùng với đó con người có nhu
cầu trao đổi và truyền thụ lại những kinh nghiệm đã tích lũy ấy cho nhau. Sự
truyền thụ và tiếp thu hệ thống kinh nghiệm đó chính là giáo dục.
Lúc đầu giáo dục xuất hiện như một hiện tượng tự phát, diễn ra theo lối
quan sát, bắt chước trực tiếp ngay trong quá trình lao động ở mọi lúc, mọi nơi.
Vì ở những xã hội tồn tại trước khi có chữ viết, giáo dục chỉ có thể được thực
hiện bằng lời nói và thông qua bắt chước. Những câu chuyện kể được tiếp tục từ
đời này sang đời khác. Khi xã hội ngày càng phát triển, kinh nghiệm xã hội
được đúc kết nhiều hơn, các loại hình hoạt động xã hội ngày càng mở rộng hơn
thì giáo dục theo phương hướng trực tiếp không còn phù hợp mà đòi hỏi phải có
một phương thức giáo dục khác có hiệu quả hơn. Rồi ngôn ngữ nói phát triển
thành những chữ và ký hiệu. Và kể từ đó giáo dục trở thành một hoạt động tự
giác có tổ chức, có mục đích, có nội dung và phương pháp.


20

Ở phương Tây, ngay từ thời cổ đại, Platon - triết gia Hy Lạp cổ điển, nhà
toán học (được coi là người đầu tiên) đã xây dựng một nền giáo dục có hệ thống
dưới sự chỉ đạo của một tư tưởng triết học duy tâm. "Viện Hàn lâm" mà ông
thành lập ở Athens được coi là trường đại học tổng hợp đầu tiên ở châu Âu, cơ
sở giáo dục này đã có ảnh hưởng to lớn đến nền giáo dục phương Tây trong suốt
mấy chục thế kỷ qua và có lẽ nó còn tiếp tục ảnh hưởng tới nền giáo dục loài

người trong nhiều thập niên tới.
Ở phương Đông, từ rất sớm, Khổng Tử đã có những đóng góp quan trọng
đối với hoạt động giáo dục. Nếu như hoài bão lớn nhất của ông là làm chính trị,
thì thành công lớn nhất của ông là hoạt động giáo dục. Nếu gạt bỏ những hạn
chế thì tư tưởng có tính chất xuyên suốt trong giáo dục của ông "Học không biết
chán, dạy không biết mỏi" đến nay vẫn giữ nguyên giá trị trong một "xã hội học
tập" hay "học tập suốt đời" hiện nay.
Ở Việt Nam, từ rất sớm, cha ông ta đã rất chú ý đến việc đào tạo và tuyển
chọn người tài cho đất nước. Vào năm 1070 vua Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu
và 5 năm sau nhà Lý cho mở khoa thi Minh Kinh bác học để tuyển chọn nhân tài.
Năm 1076 Quốc Tử Giám như một kiểu trường đại học quốc lập đầu tiên ở nước ta
được thành lập để đào tạo nhân tài phục vụ đất nước. Đến năm 1253, vua Trần
Thánh Tông cho lập Giảng Võ Đường để luyện tập võ nghệ. Tất cả những điều đó
cho chúng ta thấy một điều rằng ngay từ xa xưa ông cha ta đã đầu tư phát triển nền
giáo dục Việt Nam. Từ sau cách mạng tháng Tám 1945 trở lại đây nền giáo dục
nước ta là nền giáo dục của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, được xây dựng
trên nguyên tắc dân tộc, hiện đại, khoa học và đại chúng. Và chính nền giáo dục ấy
đã đào tạo nên những nhân tài phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngày nay, về cơ bản, các giáo trình về giáo dục học ở Việt Nam đều trình
bày: Giáo dục là hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và


21

lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người. Như vậy, giáo
dục là hoạt động truyền thụ và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của thế
hệ trước cho thế hệ sau nhằm chuẩn bị cho thế hệ sau tham gia lao động sản
xuất và tổ chức đời sống xã hội. Chúng ta có thể thấy nếu không có giáo dục thì
loài người không có tiến bộ xã hội, không có học vấn, không có văn hoá, văn
minh. Vì vậy, bất kỳ xã hội nào muốn tồn tại và phát triển được đều phải tổ chức

và thực hiện hoạt động giáo dục một cách liên tục đối với các thế hệ con người.
Giáo dục là nhu cầu tất yếu của xã hội loài người và sự xuất hiện giáo dục
trong xã hội là một tất yếu lịch sử.
Theo Mác và Ăngghen, giáo dục gồm có ba nội dung sau đây:
“Một là, trí dục.
Hai là, thể dục: Giống như những điều người ta dạy ở các trường thể dục
và trong luyện tập quân sự.
Ba là, dạy kỹ thuật bách khoa. Việc dạy kỹ thuật bách khoa này làm cho
các em biết những nguyên tắc cơ bản của tất cả mọi quá trình sản xuất, đồng
thời làm cho trẻ em và thiếu niên có được những kỹ năng sử dụng những công
cụ đơn giản nhất của tất cả các ngành sản xuất” [28, tr.263].
Dưới góc độ triết học, chúng ta có thể hiểu rằng “giáo dục là một quá
trình hai mặt, một mặt, đó là sự tác động từ bên ngoài vào đối tượng giáo dục
(sự tác động của tri thức, văn hóa nhân loại thông qua nhà sư phạm đến đời sống
của học sinh, sinh viên); mặt khác (và chủ yếu hơn là) thông qua sự tác động này
làm cho đối tượng tự biến đổi bản thân mình, tự hoàn thiện, tự nâng mình lên qua
giáo dục” [47, tr.38].
Về bản chất, có thể nhận thấy “giáo dục là quá trình tổ chức cuộc sống,
hoạt động và giao lưu cho đối tượng giáo dục, nhằm giúp họ nhận thức đúng, tạo
lập tình cảm và thái độ đúng, hình thành những thói quen hành vi văn minh
trong cuộc sống, phù hợp với chuẩn mực xã hội” [54, tr.137].


22

“Giáo dục là quá trình thống nhất của sự hình thành tinh thần và thể chất
của mỗi các cá nhân trong xã hội. Giáo dục là một mặt không thể tách rời của
cuộc sống con người, của xã hội, nó là một hiện tượng đặc trưng của xã hội loài
người. Trong quá trình tiến hóa của nhân loại, giáo dục xuất hiện cùng với sự
xuất hiện của xã hội loài người, khi con người có quan hệ với tự nhiên bằng

công cụ và phương tiện lao động thì nhu cầu về sự truyền đạt và lĩnh hội kinh
nghiệm của thế hệ trước cho thế hệ sau mới xuất hiện. Giáo dục như là một
phương thức của xã hội để đảm bảo việc kế thừa văn hóa, phát triển nhân cách”
[12, tr.14].
Kế thừa truyền thống giáo dục mà cha ông ta để lại, Đảng ta, đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến giáo dục, đến việc "trồng người".
Với Hồ Chí Minh "trồng người" là tư tưởng có tính chất nhất quán, xuyên suốt
trong cuộc đời hoạt động của mình. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vừa là
thành quả của sự chắt lọc tinh tế tinh hoa văn hoá dân tộc và nhân loại, vừa
mang đậm hơi thở của cuộc sống.
Ngay từ những ngày đầu lập nước, dù bộn bề công việc, Người vẫn đặc
biệt chú ý đến mục tiêu của giáo dục. Người nhấn mạnh: một dân tộc dốt là một
dân tộc yếu. Người coi dốt cũng là một thứ giặc, cùng với giặc đói và giặc ngoại
xâm. Cho nên, để làm cách mạng, mà trước hết là để diệt giặc dốt, thì cần phải
học. Người khẳng định, “học để sửa chữa tư tưởng, hăng hái theo cách mạng,
học để tu dưỡng đạo đức cách mạng; học để tin tưởng vào đoàn thể; học để
hành” [35, tr.316-317]. Người đã phân tích một cách đơn giản và dễ hiểu rằng,
“không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế, văn
hóa” [40, tr.184].
Không những thế, giáo dục còn góp phần đắc lực vào công cuộc bảo vệ và
xây dựng đất nước. Người kêu gọi:


23

"Quốc dân Việt Nam!
Muốn giữ vững nền độc lập,
Muốn làm cho dân mạnh nước giàu,
Mọi người Việt Nam... phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công
cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ" [35,

tr.28-29].
Có thể thấy rằng từ cổ chí kim giáo dục là vấn đề được quan tâm đặc biệt
không chỉ ở nước ta mà cả các nước trên thế giới. Đây là vấn đề được các cấp,
các ngành hết sức quan tâm. Giáo dục là hoạt động chuyên môn của xã hội nhằm
hình thành và phát triển nhân cách con người theo những yêu cầu của xã hội.
Thuật ngữ giáo dục thường được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, giáo dục bao gồm cả việc dạy lẫn việc học cùng với hệ
thống các tác động sư phạm khác diễn ra trong - ngoài lớp, trong - ngoài nhà
trường cũng như trong gia đình - ngoài xã hội. Đó chính là một quá trình vẹn
toàn để hình thành nhân cách, được tổ chức một cách có mục đích và có kế
hoạch thông qua các hoạt động và các quan hệ giữa người giáo dục và người
được giáo dục nhằm chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội của loài người.
Theo nghĩa hẹp, giáo dục là một bộ phận của quá trình sư phạm, đó là một
quá trình tác động đến thế hệ trẻ về mặt đạo đức, tư tưởng, hành vi... nhằm hình
thành niềm tin, lý tưởng, động cơ, thái độ và những hành vi thói quen cư xử
đúng đắn trong xã hội.
Như vậy, giáo dục là sự tác động của nhân cách này đến nhân cách khác,
tác động của người giáo dục đến người được giáo dục, cũng như tác động giữa
những người được giáo dục với nhau. Chính thông qua loại hình hoạt động này
mà nhân cách của người học được hình thành và phát triển phù hợp với những
yêu cầu chung của xã hội.
1.1.2.2. Khái niệm giáo dục đạo đức


24

Con người vừa là thực thể tự nhiên vừa là thực thể xã hội và “bản nhất của
con người không phải là trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất của con người là sự tổng hòa những quan hệ xã hội”
[31, tr.216]. C.Mác thừa nhận rằng con người là một thực tế tự nhiên, là một

thực thể sinh vật do quá trình biến đổi của hoàn cảnh tự nhiên và hoàn cảnh xã
hội. Song, ông cũng khẳng định hoàn cảnh tạo ra con người và trong chừng mực
nào đó con người tạo hoàn cảnh, nghĩa là cái hoàn cảnh tạo ra con người ấy
cũng chính là do con người đã tạo ra. Chính vì thế, để con người phát triển một
cách toàn diện, tránh những điều đáng tiếc ngoài ý muốn có thể xảy ra phải tăng
cường giáo dục cho con người đặc biệt là coi trọng giáo dục đạo đức.
Theo Mác, giáo dục trong đó có giáo dục đạo đức là một hình thái ý thức xã
hội, là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng. Con người phát triển toàn diện sẽ
là mục đích của nền giáo dục cộng sản chủ nghĩa, đó là những con người phát
triển đầy đủ, tối đa năng lực sẵn có về tất cả mọi mặt đạo đức, trí tuệ, thể chất,
tình cảm, nhận thức, năng lực, óc thẩm mỹ và có khả năng cảm thụ được tất cả
những hiện tượng tự nhiên, xã hội xảy ra xung quanh, đồng thời có thể sáng tạo
ra những cái mới theo khả năng của bản thân. Vì vậy, con người phát triển toàn
diện theo quan điểm của Mác, trước hết phải là sự phát triển không ngừng của
tất cả các mặt. Đó là sự kết hợp một cách hợp lý giữa giáo dục đạo đức, thể dục,
trí dục và lao động sản xuất. Hiểu theo quan điểm của Mác, giáo dục cùng với
giáo dục đạo đức không chỉ hình thành những chuẩn mực của quan hệ cư xử như
đức hạnh mà đó là lập trường tư tưởng, ý thức giai cấp, đó là nhân sinh quan, thế
giới quan khoa học.
Nếu như Mác đã đề cập sâu sắc đến tính tất yếu của con người phát triển
toàn diện trong xã hội tương lai, phác thảo những yêu cầu, chỉ ra những phẩm
chất, năng lực chủ yếu của con người trong tương lai thông qua giáo dục đạo
đức, thì V.I.Lênin đã chỉ rõ quá trình đào tạo con người lí tưởng. Đó là giáo dục
đào tạo những thế hệ trẻ có bản lĩnh chính trị, có tình cảm đồng chí, có lòng yêu


25

nước, có tri thức cần thiết, có tư duy sáng tạo, am hiểu thực tiễn và sẵn sàng
tham gia có hiệu quả vào công cuộc lao động xây dựng CNXH và hoạt động

chính trị xã hội nhằm giải phóng quần chúng cần lao. Với Lênin, con người
toàn diện ấy không phải từ trên trời rơi xuống mà đó là sản phẩm của toàn bộ
quá trình tác động xã hội, giáo dục của nhà trường, gia đình, đoàn thể và tự rèn
luyện của thế hệ trẻ.
Về giáo dục đạo đức, theo Lênin là giáo dục đạo đức cộng sản chủ nghĩa
mà trước hết là giáo dục tính kỉ luật trong lao động và hoạt động tập thể vì
người khác. Bên cạnh đó, giáo dục lòng yêu tổ quốc XHCN và tinh thần quốc tế
vô sản cũng có một ý nghĩa cực kì to lớn trong việc hình thành phẩm chất con
người XHCN.
Trong di sản lý luận của V.I.Lênin, giáo dục lý tưởng cộng sản là vấn đề
đặc biệt quan trọng, được xem là cái gốc để xây dựng những con người mới,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng XHCN. V.I.Lê-nin chỉ rõ: “muốn
tiến lên chủ nghĩa cộng sản, phải học tập chủ nghĩa cộng sản” [21, tr.36]. Hay
khi đề cặp đến nội dung giáo dục đạo đức cho thanh niên V.I.Lênin cho rằng đó
cũng chính là đạo đức cộng sản. Như thế, chỉ thông qua giáo dục đặc biệt giáo
dục đạo đức con người mới trở thành một người cộng sản chân chính “người ta
chỉ có thể trở thành một người cộng sản khi biết làm giàu trí tuệ của mình bằng
cách thâu thái lấy toàn bộ tri thức của nhân loại” [21, tr.362]. V.I.Lênin nhấn
mạnh rằng, giáo dục đạo đức cho con người không phải chỉ đơn giản là nói cho
họ nghe những bài diễn văn êm dịu hay những phép tắc đạo đức. Bởi vì, nếu
học nhiều và đọc nhiều nhưng không áp dụng những kiến thức đã học vào hoạt
động của mình thì cũng chỉ là “những tên mọt sách hay những kẻ khoác lác” mà
thôi.
Cũng như V.I.Lê-nin, giáo dục đạo đức là một trong những vấn đề nổi bật
trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Người đặc biệt nhấn mạnh vai trò của đạo
đức và luôn quan tâm đến việc giáo dục đạo đức trong sự nghiệp trồng người.


×