Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

Giáo dục hướng nghiệp trung học phổ thông theo định hướng tạo nguồn nhân lực ở huyện cao lanh, tỉnh đồng tháp hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (630.56 KB, 119 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ THANH DÂN

GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THEO ĐỊNH HƯỚNG TẠO NGUỒN NHÂN LỰC
Ở HUYỆN CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP HIỆN NAY

CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thái Sơn


2

ĐỒNG THÁP - 2015


3

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành công trình nghiên cứu này, tôi xin chân thành cảm ơn đến
Ban Giám hiệu, thầy cô giáo khoa Giáo dục Chính trị, Phòng Đào tạo sau đại
học trường Đại học Vinh, trường Đại học Đồng Tháp đã giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập và nghiên cứu.


Xin cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Thái Sơn - Thầy đã định hướng và giúp đỡ
tận tình, có nhiều đóng góp trong quá trình hoàn thiện luận văn.
Chân thành cảm ơn lãnh đạo Uỷ ban nhân dân huyện Cao Lãnh, các cơ
quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân huyện Cao Lãnh đã hỗ trợ tôi trong
quá trình thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của Ban giám hiệu các Trường THPT,
sự hợp tác nhiệt tình của các cộng tác viên, GV và HS các trường THPT Cao
Lãnh 1, THPT Cao Lãnh 2, THPT Thống Linh, THPT Kiến Văn, THCS – THPT
Nguyễn Văn Khải, Trung tâm dạy nghề - Giáo dục thường xuyên đã quan tâm,
chia sẻ, giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận văn này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thanh Dân


4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Cao đẳng
ĐH
Đại học
HS
Học sinh
NN
Nghề nghiệp
GV
Giáo viên
TH
Trung học

TVN
Tư vấn nghề
NNL
Nguồn nhân lực
NPT
Nghề phổ thông
CBQL
Cán bộ quản lý
CSVC
Cơ sở vật chất
HSPT
Học sinh phổ thông
GDPT
Giáo dục phổ thông
GVCN
Giáo viên chủ nhiệm
THCS
Trung học cơ sở
THPT
Trung học phổ thông
TCCN
Trung cấp chuyên nghiệp
KT - XH
Kinh tế - xã hội
GD - ĐT
Giáo dục và đào tạo

2.1
2.2
2.3

2.4
2.5

DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Bảng
Tổng hợp tình hình phát triển giáo dục THPT ở huyện Cao

Trang
48

Lãnh từ năm học 2010 - 2011 đến năm học 2013 - 2014
Tổng hợp học sinh trúng tuyển đại học, cao đẳng
Dân số trung bình phân theo giới tính, thành thị, nông thôn
Số liệu lao động huyện Cao Lãnh giai đoạn 2010 - 2014
Nhận thức của phụ huynh về tầm quan trọng của công tác

48
49
51
54


5

2.6
2.7
2.8
2.9
2.10


GDHN
Nhận thức của HS về hoạt động GDHN trong nhà trường
Nhận thức tầm quan trọng công tác GDHN của GV
Hình thức nào đã được sử dụng trong công tác GDHN ở

56
58
59

nhà trường phổ thông trong thời gian qua
Mức độ tham gia hoạt động GDHN của phụ huynh do nhà

62

trường tổ chức
Mức độ tham gia các lớp tập huấn, trang bị những kiến

63

thức, thông tin phục vụ cho công tác GDHN của GV
2.11 Tình hình cơ sở vật chất phục vụ công tác GDHN
3.1 Kết quả thống kê về tính cấp thiết của các giải pháp
3.2 Kết quả thống kê về tính khả thi của các giải pháp
3.3 Kết quả thống kê về mức độ quan trọng của các giải pháp
Hình
2.1 Bản đồ hành chính huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp
Sơ đồ
1.1 Tam giác hướng nghiệp của K. Kplatonov
1.2 Các hình thức GDHN cho HS trung học
3.1 Ban giáo dục hướng nghiệp

3.2 Mối quan hệ giữa các giải pháp GDHN

65
93
96
98
44
23
26
76
92


6

MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
3
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐÔ
4
MỤC LỤC
6
MỞ ĐẦU
8
Chương CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP 18
1
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRONG MỐI QUAN HỆ
VỚI YÊU CẦU TẠO NGUỒN NHÂN LỰC

1.1
Khái niệm, mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung giáo dục hướng 18
nghiệp trong trường phổ thông
1.2
Mối quan hệ giữa giáo dục hướng nghiệp trung học phổ 32
thông với yêu cầu tạo nguồn nhân lực
1.3
Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tương tác giữa giáo dục 39
hướng nghiệp trung học phổ thông và yêu cầu tạo nguồn
nhân lực
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
42
Chương GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP TRUNG HỌC PHỔ 43
2
THÔNG THEO ĐỊNH HƯỚNG TẠO NGUỒN NHÂN
LỰC Ở HUYỆN CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP
HIỆN NAY
2.1
Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội huyện Cao Lãnh tỉnh 43
Đồng Tháp
2.2
Thực trạng nguồn nhân lực huyện Cao Lãnh tỉnh Đồng 49
Tháp
2.3
Thực trạng giáo dục hướng nghiệp trung học phổ thông theo 53
định hướng tạo nguồn nhân lực huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng
Tháp
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
67
Chương GIẢI PHÁP GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP TRUNG 69

3
HỌC PHỔ THÔNG THEO ĐỊNH HƯỚNG TẠO
NGUỒN NHÂN LỰC CỦA HUYỆN CAO LÃNH, TỈNH
ĐỒNG THÁP
3.1
Căn cứ để xây dựng các giải pháp
69
3.2
Một số giải pháp giáo dục hướng nghiệp trung học phổ 73
thông theo định hướng tạo nguồn nhân lực huyện Cao Lãnh,
tỉnh Đồng Tháp
3.3
Kiểm chứng tính cấp thiết, tính khả thi và mức độ quan 92
trọng của các giải pháp
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
100


7

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU

102
105
111



8

1. Tính cấp thiết của đề tài
Giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con
người. Giáo dục ngày càng có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây
dựng một thế hệ người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội. Để có nguồn lực tham gia vào hoạt động chung của xã hội thì công tác
hướng nghiệp là một trong những hoạt động có vai trò quan trọng chiến lược.
Hướng nghiệp nhằm góp phần phân bố hợp lý và sử dụng hiệu quả các nguồn
nhân lực, vốn quý của đất nước để phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Do
vậy, hướng nghiệp có một ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển nguồn
nhân lực của quốc gia.
Hướng nghiệp là một bộ phận quan trọng của nền giáo dục phổ thông,
thực hiện công tác hướng nghiệp là một yêu cầu cần thiết của cải cách giáo dục
nhằm thực hiện mục tiêu nguyên lí và nội dung giáo dục của Đảng. Công tác
hướng nghiệp luôn là vấn đề mà toàn xã hội quan tâm, hướng nghiệp cho học
sinh phổ thông được Đảng và Nhà nước ta coi trọng và đã có nhiều chủ trương,
quyết định ban hành để thực hiện hoạt động này như Quyết định 126/CP của
Chính phủ, Điều 27 của Luật giáo dục năm 2005,... Ngay từ những năm đầu của
thế kỷ XXI, giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề phổ thông được quan tâm và
đưa vào chương trình giáo dục phổ thông từ lớp 9 trung học cơ sở đến lớp 12
trung học phổ thông. Trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX yêu cầu ngành
giáo dục: “coi trọng công tác hướng nghiệp và phân luồng học sinh trung học,
chuẩn bị cho thanh thiếu niên vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước và từng địa phương”[25]. Gần đây, Bộ Chính
trị đã ban hành Chỉ thị số 10/CT/TW ngày 5 tháng 12 năm 2011 về việc “Phổ
cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, củng cố kết quả giáo dục tiểu học và trung
học cơ sở, tăng cường phân luồng sau trung học cơ sở đi đôi với phát triển mạnh

và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp; giáo dục gắn với dạy nghề nhằm


9

đáp ứng yêu cầu phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của đất
nước”[11].
Phát triển nguồn nhân lực là một trong những mục tiêu hàng đầu của
chiến lược phát triển giáo dục nước ta hiện nay; cùng với sự phát triển chung
của cả nước, Cao Lãnh có nhiều lợi thế và điều kiện thuận lợi để chuyển dịch cơ
cấu sản xuất và phát triển ngành công nghiệp, thương mại, du lịch như chăn nuôi
hướng công nghiệp, nuôi trồng - khai thác và chế biến thuỷ sản, chế biến và xuất
khẩu các sản phẩm từ cây ăn trái, chế biến gạo xuất khẩu, du lịch vùng sông
nước,…, đồng thời có địa hình nằm vị trí quan trọng của tỉnh Đồng Tháp đi
Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận, thuận tiện lưu thông các loại
phương tiện giao thông, vận chuyển hàng hóa cả đường bộ và đường thủy. Từ
đó huyện Cao Lãnh sẽ nhận được nhiều hơn sự hỗ trợ và đầu tư của Trung ương,
tỉnh, các doanh nghiệp, để phát triển kinh tế - xã hội, củng cố và giữ vững quốc
phòng an ninh. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, đòi hỏi phải có nguồn nhân lực
chất lượng cao, đặc biệt là có nguồn nhân lực cao về trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức chính trị.
Công tác giáo dục hướng nghiệp trung học phổ thông theo định hướng tạo
nguồn nhân lực huyện Cao Lãnh trong những năm qua đã được quan tâm chỉ
đạo. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện công tác này còn gặp nhiều
hạn chế, chưa được sự quan tâm đúng mức, thiếu cơ sở lí luận và thực tiễn, cơ
sở vật chất, trang thiết bị đã làm cho hoạt động này ngày càng nhiều bất cập, các
cá nhân tham gia nghiên cứu, xây dựng nội dung giáo dục hướng nghiệp, tham
gia công tác tổ chức giáo dục hướng nghiệp còn hạn chế. Nhiều trường triển
khai tuyên truyền giáo dục hướng nghiệp và tổ chức các hình thức giáo dục
hướng nghiệp cho học sinh chưa thường xuyên, dẫn đến tình trạng học sinh nhận

thức không đúng đắn về nghề nghiệp. Tình trạng trên đã kéo dài nhiều năm nay
và đã làm mất cân đối giữa "cung - cầu” về nguồn lao động tại chỗ.


10

Để việc hướng nghiệp góp phần tích cực, hiệu quả vào việc phân luồng
học sinh sau tốt nghiệp trung học diễn ra phù hợp với phát triển kinh tế - xã hội
của huyện trong giai đoạn hiện nay và những năm sắp tới chúng tôi chọn đề tài:
“Giáo dục hướng nghiệp trong trường trung học phổ thông theo định hướng tạo
nguồn nhân lực ở huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp hiện nay”.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
* Giáo dục hướng nghiệp ở một số nước trên thế giới
Ở lĩnh vực NN, việc chọn nghề và nhất là mối quan hệ giữa người lao
động với NN, đã được nhiều nhà khoa học của nhiều quốc gia quan tâm nghiên
cứu nhằm giúp cho thanh thiếu niên HS có sự chọn lựa NN sao cho phù hợp với
năng lực, thể lực, trí tuệ, hứng thú cá nhân và yêu cầu kinh tế của đất nước.
Cộng hòa Pháp là một trong những nước đã phát triển hướng học, hướng
nghiệp và TVN sớm nhất trên thế giới. Thế kỉ XIX năm 1848, những người làm
công tác hướng nghiệp ở Pháp đã xuất bản cuốn sách “Hướng nghiệp chọn
nghề” nhằm giúp đỡ thanh niên trong việc lựa chọn NN để sử dụng có hiệu quả
năng lực lao động của thế hệ trẻ. Ngày 25/12/1922 Bộ Công nghiệp và Thương
nghiệp Cộng hòa Pháp đã ban hành nghị định về công tác hướng học, hướng
nghiệp và thành lập Sở Hướng nghiệp cho thanh niên dưới 18 tuổi; ngày
24/5/1938 công tác hướng nghiệp đã mang tính pháp lý thông qua quyết định
ban hành chứng chỉ NN bắt buộc đối với tất cả thanh niên dưới 17 tuổi, trước
khi trở thành người làm việc trong các xí nghiệp thủ công, công nghệ hoặc
thương nghiệp.
Từ năm 1960, Pháp đã thành lập hệ thống các trung tâm thông tin hướng
học, hướng nghiệp từ Bộ Giáo dục và Đào tạo đến khu, tỉnh, huyện và cụm

trường. Năm 1975, nước Pháp đã tiến hành cải cách giáo dục để hiện đại hóa
nền giáo dục. Cải cách giáo dục ở Pháp chú ý đặc biệt chăm lo giảng dạy lao
động và NN cho HS, khắc phục khuynh hướng và quan niệm coi giáo dục lao
động là một hoạt động giáo dục loại 2 (Đứng sau các môn khoa học).


11

Ở Liên Xô (cũ), công tác hướng nghiệp được nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm như: E.A Klimov, V.N. Supkin,… nghiên cứu của các tác giả tập trung vào
hứng thú NN, động cơ chọn nghề, các giá trị về nghề mà HS quan tâm, đồng
thời đưa ra những chỉ dẫn để giúp HS chọn nghề tốt hơn.
Ở Nhật Bản, đã từ lâu giáo dục Nhật Bản chú ý đến vấn đề hoàn thiện nội
dung, hình thức dạy học kĩ thuật nhằm cung cấp tri thức, rèn luyện kĩ năng lao
động NN và phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh phổ thông. Chính vì vậy, ở
Nhật Bản trong những năm qua nhiều cuộc cải cách giáo dục đã được tiến hành
với mục đích đảm bảo cho GDPT đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế của đất
nước.
Tại Hàn Quốc, trong các loại hình trường phổ thông, nội dung giảng dạy
kỹ thuật - lao động là một bộ phận cấu thành quan trọng trong chương trình giáo
dục. Hết cấp II HS sẽ đi theo hai luồng chính là phổ thông và chuyên nghiệp. Các
trường kỹ thuật NN tuyển sinh trước rồi mới chọn HS theo luồng HS.
Trung Quốc khuyến khích giáo dục suốt đời một cách tích cực. Hiện nay,
giáo dục dựa trên cộng đồng đang được phát triển mạnh mẽ, trong chương trình
giảng dạy thường có các môn học tự chọn với mục tiêu trang bị cho HS những
kiến thức và kỹ năng chuyên môn cần thiết để HS có khả năng tham gia lao
động NN ở các lĩnh vực KT - XH khác nhau hoặc tiếp tục học lên trình độ NN
cao hơn ở bậc đại học.
Vào những năm đầu của thế kỷ XX, các nước như Pháp, Mỹ, Anh đã
thành lập các phòng hướng nghiệp; với các trắc nghiệm, họ đã tư vấn cho thanh

niên ở đó chọn được những nghề thích hợp với khả năng của bản thân và các
nghề đang có nhu cầu tuyển dụng cao.
* Giáo dục hướng nghiệp ở Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta rất coi trọng việc vận dụng sáng tạo các
quan điểm giáo dục của chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm đào tạo lớp người lao động
mới. Ngày 19/3/1981, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 126/CP


12

về “Công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông và việc sử dụng học sinh các
cấp phổ thông cơ sở và phổ thông trung học tốt nghiệp ra trường”[13]. Có thể
coi quyết định này là một mốc quan trọng đối với sự phát triển giáo dục trong hệ
thống nhà trường phổ thông. Bởi từ thời điểm này GDHN chính thức được coi
như là một môn học và đồng thời được coi như là một hoạt động có trong các
tiết dạy của các môn học.
Vấn đề GDHN ở trường THPT đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm
và đề cập đến ở nhiều góc độ khác nhau. Cụ thể như:
Đặng Danh Ánh (2002), “Quan điểm mới về giáo dục hướng nghiệp”,
Tạp chí Giáo Dục, số 38.
Nguyễn Văn Hộ (1998), Cơ sở sư phạm của công tác hướng nghiệp trong
trường phổ thông, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Nguyễn Văn Lê, Hà Thế Truyền, Bùi Văn Quân (2004), Một số vấn đề về
hướng nghiệp cho HS phổ thông, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
Phạm Tất Dong (chủ biên) (1987), Giáo trình công tác hướng nghiệp
trong nhà trường phổ thông, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Các tác giả trên đã đề cập đến những quan điểm mới, một số vấn đề về
GDHN và xây dựng một số cơ sở lí luận nền tảng về hướng nghiệp trong trường
phổ thông, khái quát kinh nghiệm hướng nghiệp của một số nước trên trên giới,
có những đánh giá về công tác hướng nghiệp cho HS ở trường phổ thông và đã

đưa ra những giải pháp về công tác GDHN ở Việt Nam.
Bên cạnh đó còn có một số luận án của các tác giả cũng đã đề cập đến
việc tư vấn nghề và định hướng nghề nghiệp như:
Liêu Thị Thùy Trang (1999) “Nghiên cứu động cơ chọn nghề Sư phạm
của sinh viên Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Trà Vinh”.
Nguyễn Thị Bạch Phượng (1998) “Nghiên cứu hướng chọn nghề của học
sinh THPT”.


13

Nguyễn Minh Đường (2005), “Thực trạng và giải pháp đào tạo lao động
kĩ thuật đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động trong điều kiện kinh tế thị
trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế”.
Nguyễn Thị Thanh Huyền (2009) “Xây dựng mô hình tư vấn nghề trong
các trường THPT khu vực miền núi Đông Bắc Việt Nam”.
Phạm Đức Khiêm (2005) “Nghiên cứu về định hướng NN học sinh THPT
nhằm phân luồng học sinh vào các trường THCN tại thành phố Hồ Chí Minh”.
Trịnh Xuân Thu (1998) “Nghiên cứu sự thích ứng nghề của sinh viên
Khoa Kỹ thuật Công ngiệp - Trường Cao đẳng Sư phạm thành phố Hồ Chí
Minh”.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đều khẳng định vai trò quan
trọng của GDHN ở trường học trong việc định hướng NN cho HS. Xây dựng
được hệ thống các khái niệm, mục tiêu, nội dung, hình thức tổ chức GDHN. Bên
cạnh đó các công trình nghiên cứu đã đưa ra được những thực trạng GDHN, đây
chính là những thành tựu về cơ sở lí luận và thực tiễn giúp cho công tác GDHN
trong trường phổ thông được thực hiện một cách khoa học và có hiệu quả.
Các công trình nghiên cứu trên đã chỉ rõ GDHN được thực hiện bằng
nhiều con đường. Tuy nhiên, các tác giả mới chỉ đưa ra những nội dung chưa có
những chỉ dẫn cụ thể về phương pháp tiến hành biện pháp thực hiện GDHN.

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay,
nhằm đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
hội nhập nền kinh tế thế giới.
Công tác GDHN là một công việc hết sức quan trọng, trong thời gian qua
công tác GDHN THPT theo định hướng tạo NNL của huyện Cao Lãnh chỉ có
những văn bản chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền, cụ thể hóa bằng các kế
hoạch dài hạn, báo cáo như:
Ban Thường vụ Huyện ủy Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp (2010), Công văn
số 22-CV/HU ngày 22/9/2010 của Ban Thường vụ Huyện ủy Cao Lãnh về việc


14

thực hiện Chỉ thị 08-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn từ 2011
đến năm 2020.
Uỷ ban nhân dân huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp (2006), Báo cáo thực
hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2006, kế hoạch thực hiện giai
đoạn 2011 – 2015.
Uỷ ban nhân dân huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp (2011), Quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Cao Lãnh giai đoạn 2011 – 2020.
Uỷ ban nhân dân huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp (2011), Kế hoạch số
79/KH-UBND ngày 22/12/2011 của UBND huyện Cao Lãnh về đào tạo nghề
cho lao động nông thôn giai đoạn 2011 - 2020 trên địa bàn huyện Cao Lãnh.
Uỷ ban nhân dân huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp ( 2011), Kế hoạch số
78/KH-UBND ngày 22/12/2011 của UBND huyện Cao Lãnh về nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực huyện Cao Lãnh giai đoạn 2011 - 2015.
Uỷ ban nhân dân huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp (2012), Kế hoạch số
27/KH-UBND ngày 24/01/2012 của UBND huyện Cao Lãnh về tổ chức Hội
thảo phổ cập giáo dục trung học và hướng nghiệp học sinh sau tốt nghiệp THCS

năm học 2012 – 2013.
Uỷ ban nhân dân huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp ( 2014), Báo cáo số
77/BC-UBND ngày 09/6/2014 của UBND huyện Cao Lãnh sơ kết 03 năm về
tình hình thực hiện Nghị quyết 01-NQ/TU ngày 23/5/2011 của Ban chấp hành
Đảng bộ Tỉnh về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tỉnh Đồng Tháp giai
đoạn 2011 – 2015.
Hiện tại, chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách toàn diện và triệt để
những vấn đề cấp thiết trong công tác này. Với đề tài nghiên cứu “Giáo dục
hướng nghiệp trong trường trung học phổ thông theo định hướng tạo nguồn
nhân lực ở huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp hiện nay”, chúng tôi hy vọng trên
cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề này và đưa ra những bài học kinh nghiệm,


15

những giải pháp hiệu quả có khả năng ứng dụng góp phần phát triển nguồn nhân
lực của huyện.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nâng cao chất lượng công tác giáo dục hướng nghiệp trong các trường
trung học phổ thông theo định hướng tạo nguồn nhân lực của huyện Cao Lãnh
tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, đề tài triển khai những nhiệm vụ sau:
Làm rõ mối quan hệ giữa giáo dục hướng nghiệp với yêu cầu tạo nguồn
nhân lực.
Phân tích, đánh giá, nhận xét thực trạng về công tác giáo dục hướng
nghiệp trung học phổ thông, nguồn nhân lực của huyện (từ năm 2010 đến năm
2014); những mặt tích cực và hạn chế.
Đề xuất những giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục hướng

nghiệp trung học phổ thông, nguồn nhân lực của huyện trong những năm sau.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công tác giáo dục hướng nghiệp trong
trường trung học phổ thông và định hướng phát triển nguồn nhân lực.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn phạm vi nghiên cứu trên địa bàn huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng
Tháp.
Nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 2010 đến năm 2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận


16

Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh; dựa trên đường lối, chính sách, quan điểm của Đảng,
Nhà nước Việt Nam, các văn bản của tỉnh, huyện về giáo dục hướng nghiệp,
nguồn nhân lực.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp thu thập số liệu (nghiên cứu sách báo, tạp chí
chuyên ngành, các báo cáo về thực trạng công tác giáo dục hướng nghiệp trung
học phổ thông,…).
Phương pháp thống kê, tập hợp nghiên cứu các tài liệu, văn bản liên quan
đến đề tài.
Phương pháp phân tích số liệu dựa trên các số liệu thống kê về công tác
giáo dục.
Sử dụng phương pháp phỏng vấn, điều tra xã hội học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn làm rõ công tác giáo dục hướng nghiệp trung học phổ thông,
nguồn nhân lực của huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn phác họa những nét cơ bản nhất về công tác giáo dục hướng
nghiệp ở các trường trung học phổ thông, nhằm tạo chuyển biến căn bản mạnh
mẽ về chất lượng, hiệu quả, góp phần tạo ra những con người Việt Nam phát
triển toàn diện đáp ứng ngày càng tốt hơn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
tổ quốc.
Đồng thời sẽ là tài liệu tham khảo tốt cho các nhà giáo dục, giáo viên, học
sinh, sinh viên, những người quan tâm tới công tác giáo dục hướng nghiệp.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương:


17

Chương 1: Cơ sở lý luận về giáo dục hướng nghiệp trung học phổ thông
trong mối quan hệ với yêu cầu tạo nguồn nhân lực.
Chương 2: Giáo dục hướng nghiệp trung học phổ thông theo định hướng
tạo nguồn nhân lực ở huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp hiện nay.
Chương 3: Giải pháp giáo dục hướng nghiệp trung học phổ thông theo
định hướng tạo nguồn nhân lực của huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.


18

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI YÊU CẦU
TẠO NGUỒN NHÂN LỰC

1.1. Khái niệm, mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung giáo dục hướng nghiệp
trong trường phổ thông
1.1.1. Khái niệm giáo dục hướng nghiệp
Dựa trên quan điểm của C. Mác, V.I. Lênin và của những nhà khoa học
khi xem xét vấn đề hướng nghiệp đối với sự hình thành nhân cách và ảnh hưởng
của nó tới các hoạt động sản xuất xã hội, chúng ta có thể thấy được nếu sớm
thực hiện GDHN cho thế hệ trẻ thì đó sẽ là cơ sở để giúp cho họ chọn nghề đúng
đắn, có sự phù hợp giữa năng lực, sở thích cá nhân với nhu cầu xã hội. Đối
tượng của công tác hướng nghiệp bao gồm một phạm vi rộng về lứa tuổi, nhưng
chú ý chủ yếu là đối với thế hệ trẻ; lực lượng tiến hành công tác hướng nghiệp
bao gồm nhiều bộ phận và những mối quan hệ khác nhau trong xã hội. Vậy, có
thể hiểu như thế nào về khái niệm "Hướng nghiệp"? Tuỳ thuộc vào đặc trưng
cho mỗi lĩnh vực hoạt động khoa học mà khi xem xét hoạt động hướng nghiệp
có thể có những quan điểm khác nhau về khái niệm này.
K.K. Platônốp, một trong những nhà tâm lý học nổi tiếng của Nhà nước
Xô viết cho rằng hướng nghiệp là một hệ thống các biện pháp tâm lý - giáo dục,
y học, nhằm giúp cho con người đi vào cuộc sống thông qua việc lựa chọn cho
mình một NN vừa đáp ứng nhu cầu xã hội, vừa phù hợp với hứng thú năng lực
của bản thân. Những biện pháp này sẽ tạo nên sự thống nhất giữa quyền lợi của
xã hội với quyền lợi của cá nhân.
Tháng 10 - 1980, hội nghị lần thứ 9 những người đứng đầu cơ quan giáo
dục NN các nước xã hội chủ nghĩa họp tại La-ha-ba-na thủ đô Cu Ba đã thống
nhất về khái niệm hướng nghiệp là hệ thống những biện pháp dựa trên cơ sở tâm
lý học, sinh lý học, y học và nhiều khoa học khác để giúp đỡ HS chọn nghề phù


19

hợp với nhu cầu xã hội; đồng thời thỏa mãn tối đa nguyện vọng, thích hợp với
những năng lực, sở trường và tâm sinh lý cá nhân, nhằm mục đích phân bố hợp

lý và sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động dự trữ có sẵn của đất nước.
Trong trường phổ thông, hướng nghiệp vừa là hoạt động dạy của GV, vừa
là hoạt động học của HS. Nói như vậy nghĩa là trong công tác hướng nghiệp,
GV là người tổ chức, hướng dẫn còn HS là người chủ động tham gia vào hoạt
động để tiếp cận với hệ thống NN. Kết quả cuối cùng của quá trình hướng
nghiệp là sự tự quyết định của HS trong sự lựa chọn NN trong tương lai. Hướng
nghiệp là một hình thức hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò. Với tư
cách là hoạt động dạy của thầy, hướng nghiệp được coi như là công việc của tập
thể GV, tập thể sư phạm có mục đích giáo dục HS trong việc chọn nghề, giúp
các em tự quyết định NN tương lai trên cơ sở phân tích khoa học về năng lực,
hứng thú của bản thân và nhu cầu về nhân lực của các ngành sản xuất trong xã
hội. Như vậy, hướng nghiệp là quá trình hướng dẫn chọn nghề, quá trình chuẩn
bị cho thế hệ trẻ đi vào lao động sản xuất xã hội; là quá trình tác động của gia
đình, nhà trường và xã hội, trong đó nhà trường đóng vai trò chủ đạo nhằm
hướng dẫn và chuẩn bị cho thế hệ trẻ sẵn sàng đi vào lao động ở các ngành nghề
tại những nơi xã hội đang cần phát triển, đồng thời lại phù hợp với hứng thú,
năng lực cá nhân.
Giáo dục hướng nghiệp là hệ thống các biện pháp giúp cho con người lựa
chọn và xác định NN của bản thân trong cuộc sống tương lai trên cơ sở kết hợp
nguyện vọng, sở trường của cá nhân với nhu cầu xã hội. Các nhà tâm lý học Việt
Nam cho rằng: “GDHN là hệ thống các biện pháp tâm lý - sư phạm và y học
giúp cho thế hệ trẻ chọn nghề có tính đến nhu cầu của xã hội và năng lực của
bản thân”[3, tr.121]. “Giáo dục hướng nghiệp là hoạt động phối hợp giữa gia
đình, nhà trường, trong đó tập thể sư phạm nhà trường giữ vai trò quyết định
nhằm giúp HS chọn nghề trên cơ sở khoa học”[3, tr.122].


20

“Giáo dục hướng nghiệp là một hệ thống các biện pháp giáo dục của nhà

trường, gia đình và xã hội, nhằm chuẩn bị cho thế hệ trẻ về tư tưởng, tâm lí, tri
thức, kĩ năng, để họ có thể sẵn sàng đi vào ngành nghề, vào lao động sản xuất,
đấu tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[4, tr.29].
Từ những khái niệm trên có thể rút ra khái niệm chung nhất về GDHN:
Là một hệ thống các biện pháp giáo dục của nhà trường, gia đình, xã hội trong
đó nhà trường đóng vai trò chủ đạo trong việc cung cấp tri thức, hình thành kĩ
năng chọn nghề cho HS. Trên cơ sở đó, HS lựa chọn nghề phù hợp với năng lực,
tính cách, sở thích, giá trị của bản thân, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của gia
đình và phù hợp với nhu cầu của xã hội.
1.1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung giáo dục hướng nghiệp ở trung
học phổ thông
* Mục tiêu của GDHN trong trường PT
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng và ban hành nội dung chương trình
hoạt động GDHN với mục tiêu: “Phát hiện, bồi dưỡng tiềm năng sáng tạo của cá
nhân, giúp họ hiểu mình và hiểu yêu cầu của nghề, chuẩn bị cho họ sự sẵn sàng
tâm lí đi vào những nghề mà các thành phần kinh tế trong xã hội đang cần nhân
lực, trên cơ sở đó đảm bảo sự phù hợp nghề cho mỗi cá nhân”[17, tr.11].
* Nhiệm vụ hướng nghiệp ở trường THPT
Nhiệm vụ của hướng nghiệp trong Quyết định 126/CP ngày 19/3/1981 về
công tác hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông và sử dụng hợp lý HS tốt
nghiệp ra trường đã chỉ rõ: “Công tác hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông
nhằm mục đích bồi dưỡng, hướng dẫn việc chọn nghề của HS cho phù hợp với
yêu cầu phát triển của xã hội đồng thời phù hợp với năng khiếu cá nhân”[13].
Công tác hướng nghiệp ở các trường gồm các nhiệm vụ sau đây:
- Giáo dục thái độ lao động đúng đắn.
- Tổ chức cho HS thực tập làm quen với một số nghề.
- Tìm hiểu năng khiếu, khuynh hướng NN của từng HS để khuyến khích,


21


hướng dẫn, bồi dưỡng khả năng NN thích hợp nhất.
- Động viên hướng dẫn HS đi vào những nghề, những nơi đang cần lao
động trẻ tuổi có văn hóa.
Cụ thể hóa nhiệm vụ của hướng nghiệp như sau:
* Đối

với trường phổ thông: Hướng nghiệp cho học sinh phổ thông là

bước khởi đầu quan trọng của quá trình phát triển NNL của đất nước.
Nhiệm vụ đầu tiên là qua hướng nghiệp, giúp các em được làm quen với
những nghề cơ bản trong xã hội, những nghề có vị trí then chốt trong nền kinh
tế quốc dân, những nghề cần thiết phải phát triển ở ngay địa phương mình.
Nhiệm vụ này được thể hiện trong suốt những năm còn ngồi trên ghế nhà
trường. Tóm lại, nhiệm vụ thứ nhất là hình thành ở HS những biểu tượng đúng
đắn về những nghề cần phát triển.
Nhiệm vụ thứ hai là hướng dẫn phát triển hứng thú NN, trong quá trình
tìm hiểu nghề, ở HS sẽ xuất hiện và phát triển hứng thú NN. Người làm hướng
nghiệp sẽ hướng dẫn sự phát triển hứng thú của các em trên cơ sở phân tích
những đặc điểm, điều kiện, hoàn cảnh riêng của các em. Trong xã hội, không ít
nghề ở ngoài sự định hướng của HS. Nhưng khi thấy được hết tầm quan trọng
của một nghề, có những HS đã dứt khoát chọn nghề ấy và cảm thấy thoải mái
hoặc hài lòng với sự lựa chọn của mình, từ đó nảy nở hứng thú với nghề.
Nhiệm vụ thứ ba là giúp HS hình thành năng lực NN tương ứng. Người ta
chỉ có thể yên tâm sống lâu dài với nghề nếu họ có năng lực chuyên môn thực
sự, đóng góp được sức lực, trí tuệ một cách hữu hiệu với nghề của mình. Xét
đến cùng, ai cũng muốn có năng suất lao động cao, có uy tín trong lao động NN.
Mặt khác, NN cũng không chấp nhận những người thiếu năng lực. Vì vậy, trong
quá trình hướng nghiệp, phải tạo điều kiện sao cho HS hình thành năng lực
tương ứng với hứng thú NN đã có.

Nhiệm vụ cuối cùng của hướng nghiệp là giáo dục cho HS thái độ lao
động, ý thức tôn trọng người lao động thuộc các ngành nghề khác nhau, ý thức


22

tiết kiệm và bảo vệ của công. Đây là những phẩm chất, nhân cách không thể
thiếu được ở người lao động trong xã hội của chúng ta. Có thể coi đây là nhiệm
vụ giáo dục đạo đức và lương tâm NN, là nhiệm vụ chủ yếu đối với thế hệ trẻ.
Cùng với các nhiệm vụ trên, nhiệm vụ này góp phần vào việc làm cho những
phẩm chất nhân cách của người lao động được hài hòa và cân đối.
Tóm lại, hướng nghiệp có mục đích cơ bản là hướng dẫn và chuẩn bị cho
thế hệ trẻ sẵn sàng đi vào các ngành nghề mà đất nước hay ở từng địa phương
đang cần. Quá trình GDHN phải làm cho HS có những hiểu biết cần thiết về thị
trường lao động, biết cách lựa chọn NN có cơ sở khoa học, được làm quen với
nghề để có hứng thú và thái độ đúng đắn, yêu quý nghề, và điều quan trọng là
HS có được tình cảm, thói quen lao động để tiến tới có thể biết làm một số nghề
truyền thống cần duy trì và phát triển ở địa phương.
* Đối với xã hội, các tầng lớp dân cư: Do tình hình các nghề và việc làm
hiện nay thường xuyên thay đổi cho nên hoạt động hướng nghiệp không còn giới
hạn ở trường phổ thông mà cần thiết mở rộng cho các tầng lớp dân cư khác
nhau.
Nhiệm vụ xã hội cơ bản của hướng nghiệp là: Tìm một nghề phù hợp nhất
với những khả năng của cá nhân và thỏa mãn nhu cầu nhân lực cho tất cả các
lĩnh vực NN ở cấp độ quốc gia. Cá nhân cần được thông tin đầy đủ về yêu cầu,
sự thỏa mãn và khó khăn của mỗi một nghề mình đang quan tâm.
Về các nhiệm vụ của hướng nghiệp, K.K. Platonov đã đưa ra “Tam giác
hướng nghiệp” như sau:



23
Định hướng
nghề

Các nghề các đặc điểm
yêu cầu của chúng

Tư vấn nghề

Thị trường
lao động

Phẩm chất, năng lực,
hoàn cảnh cá nhân

Tuyển chọn nghề

Sơ đồ 1.1: Tam giác hướng nghiệp của K. Kplatonov
Theo nhà tâm lý học K. Kplatonov, nhiệm vụ GDHN có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, hỗ trợ lẫn nhau ở ba nội dung: Định hướng nghề; tư vấn nghề và
tuyển chọn nghề.
Ở trường phổ thông, mục tiêu, nhiệm vụ của GDHN tập trung chủ yếu ở
hai nội dung chính là định hướng NN và tư vấn NN, hai yếu tố này bước đầu
góp phần cho việc tuyển chọn NN.
* Nội dung hướng nghiệp sát với yêu cầu tạo nguồn nhân lực
Nội dung phải đáp ứng được mục tiêu đào tạo con người toàn diện, năng
động sáng tạo, có khả năng xử lý tốt các vấn đề thực tiễn đặt ra. Vừa mang tính
cơ bản, tinh giản, thiết thực, vừa có tính chất "chìa khoá" để tạo điều kiện cho
HS chiếm lĩnh được các nội dung khác và khả năng phát triển sâu hơn, rộng hơn
ngành nghề đã học. Phải đủ mềm dẻo (có phần cứng và phần mềm), có sự phân

hóa phù hợp với năng lực, sở trường của HS, tăng thời lượng thực hành, vận
dụng tri thức, kỹ năng để giải quyết các vấn đề thực tiễn, đặc biệt chú ý tới năng
lực khai thác thông tin để biến các nguồn thông tin thành tri thức. Làm cho HS


24

biết tiếp cận với trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ tiên tiến của nhân loại,
đồng thời phải biết phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc bằng việc phát triển
các nghề truyền thống ở địa phương và đất nước.
Xác định rõ hướng nghiệp là cầu nối giữa GDPT và giáo dục NN, GDPT
dưới góc độ hướng nghiệp là để tạo nền tảng phát triển NNL đi vào công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước. Thay đổi nội dung, giáo trình, sách giáo khoa
GDPT phải chú ý đến hướng nghiệp, dành tỷ lệ số giờ cho hướng nghiệp một
cách hợp lý và thích ứng hơn. Đảm bảo được sự cân đối giữa tri thức văn hóa
khoa học và kỹ thuật - công nghệ - hướng nghiệp. Tạo điều kiện cho HS nhanh
chóng tiếp cận với NN, đặc biệt là nghề trong định hướng phát triển của địa
phương và đất nước. Đảm bảo được sự cân đối của mối quan hệ khoa học và kỹ
thuật, truyền thống và hiện đại, cá nhân và cộng đồng, dân tộc và quốc tế. Đảm
bảo cho người lao động tương lai hội nhập vào xã hội thông tin, do đó yêu cầu
về kỹ thuật, kỹ năng nghề phải đạt trình độ tương đương khu vực và thế giới.
Theo hướng phát triển liên tục, tạo điều kiện cho HS có thể học tập suốt
đời để nâng cao trình độ và hoàn thiện nhân cách người lao động trong nền sản
xuất hiện đại. Công tác hướng nghiệp phải cung cấp cho HS sự hiểu biết về hệ
thống NN trong xã hội, đặc biệt đối với những nghề phổ biến và quan trọng nhất
của nền kinh tế, đồng thời cũng phải giúp cho HS quen biết với những nghề
chính của địa phương, của khu vực và những nghề có tính chất truyền thống.
Bên cạnh hệ thống NN, trong các giờ hướng nghiệp cũng phải cho HS hiểu biết
hệ thống các trường nghề (trường dạy nghề, các trường trung học và đại học
chuyên nghiệp).

Nội dung công tác hướng nghiệp còn bao gồm cả những yêu cầu mà NN
đòi hỏi của con người cần có về tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, tâm sinh lý và điều
kiện sức khoẻ. Đó là những dự kiến đưa ra trước HS, giúp các em có cơ sở khoa
học, sẽ lựa chọn, xem xét sự phù hợp hay không phù hợp với mình. Thông qua
các giờ hướng nghiệp, giúp HS có thái độ đúng đắn đối với KT - XH và người


25

lao động, thấy rõ trách nhiệm của mình giữa hưởng thụ và cống hiến, giữa cá
nhân và tập thể, đánh giá đúng những khó khăn và thuận lợi của đất nước, của
địa phương. Nhằm tạo cho mình tâm thế sẵn sàng đi vào mọi nghề, mọi nơi mà
Tổ quốc kêu gọi; nội dung các bài hướng nghiệp phải khơi dậy hứng thú NN cho
HS. Những mầm giống tốt, những HS có thiên hướng nghề rõ rệt cần được phát
hiện, duy trì và giúp đỡ phát triển.
Công tác hướng nghiệp không chỉ dừng lại ở mức độ nhận thức mà điều
cần thiết là phải hình thành cho HS hệ thống tri thức kỹ thuật công nghệ của sản
xuất và lao động có văn hóa, những hiểu biết này là cơ sở để hình thành cho HS
những kỹ năng, kỹ xảo ban đầu về NN, trước mắt là để giảm nhẹ mức độ căng
thẳng trong quá trình tiếp xúc với NN sau này.
Tóm lại, hướng nghiệp có mục đích cơ bản là hướng dẫn và chuẩn bị cho
thế hệ trẻ sẵn sàng đi vào các NN mà đất nước hay ở từng địa phương đang cần.
Quá trình GDHN phải làm cho HS có những hiểu biết cần thiết về thị trường lao
động, biết cách chọn lọc NN có cơ sở khoa học, được làm quen với nghề để có
hứng thú và thái độ đúng đắn, yêu quý nghề, điều quan trọng là HS có được tình
cảm, thói quen lao động để tiến tới có thể biết làm một số nghề truyền thống,
nghề thông dụng đang cần duy trì và phát triển ở địa phương.
Ngay từ khi học phổ thông, HS đã được chuẩn bị tâm thế và kỹ năng sẵn
sàng đi vào cuộc sống, tự tạo việc làm ở gia đình và có thể tham gia lao động ở
các thành phần kinh tế khác. Đó là yếu tố thiết thực góp phần xóa đói giảm

nghèo, xây dựng quê hương giàu mạnh, có cuộc sống lành mạnh để tiếp tục vừa
làm vừa học lên.
1.1.3. Các con đường giáo dục hướng nghiệp ở trung học phổ thông
Giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông bằng các hình thức: Tích
hợp nội dung hướng nghiệp vào các môn học, lao động sản xuất và học NPT,
hoạt động sinh hoạt hướng nghiệp và các hoạt động ngoại khóa khác. Theo


×