Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

CƠ sở lý LUẬN về HIỆU QUẢ GIÁM sát của hội ĐỒNG NHÂN dân cấp TỈNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.08 KB, 19 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP
TỈNH

1.3.1. Khái niệm hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Trong điều kiện hiện nay, xác định hiệu quả giám sát của một chủ thể cụ thể
là việc làm không đơn giản cả về mặt lý luận và thực tiễn. Đề cập đến vấn đề này
PGS,TS Võ Khánh Vinh nhận định:
Xác định hiệu quả giám sát là một nhiệm vụ phức tạp và đầy khó
khăn, các cơ quan thực tiễn thường xuyên thực hiện nghĩa vụ đó và đưa
ra nhiều tài liệu phong phú cho tư duy lý luận về vấn đề hiệu quả giám
sát. Đến nay khái niệm chung về hiệu quả giám sát cũng như các tiêu
chuẩn, các chỉ số và phương pháp xác định nó hầu như chưa được nghiên
cứu trong sách báo pháp lý và chính trị ở nước ta, tuy rằng đó là những
vấn đề có ý nghĩa quan trọng [46, tr.95].
Thuật ngữ "hiệu quả" là một khái niệm rất phức tạp được sử dụng cho nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế và hành chính cả ở tầm vĩ mô
và vi mô. Theo các nhà ngôn ngữ học, khái niệm "hiệu quả" được hiểu là: Kết quả
như yêu cầu của việc làm mang lại.
Theo Từ điển Lepetit Lasousse định nghĩa, "Hiệu quả là kết quả đạt được
trong việc thực hiện một nhiệm vụ nhất định" [42, tr.57]. Trong khi đó, các nhà
quản lý hành chính lại cho rằng: Hiệu quả là mục tiêu chủ yếu của khoa học hành
chính, là sự so sánh giữa các chi phí đầu vào với các giá trị của đầu ra, sự tăng tối
đa lợi nhuận và tối thiểu chi phí, là mối tương quan giữa sử dụng nguồn lực và tỷ
lệ đầu ra - đầu vào. Hiệu quả phản ánh giá trị của các kết quả cao hơn giá trị của
các nguồn lực đã chi này.
Như vậy, xác định hiệu quả của một hoạt động kinh tế thường cho chúng ta
những con số chính xác và cụ thể, nhưng đối với bất kỳ hoạt động xã hội nào nói


chung và hoạt động giám sát nói riêng, để tính được đầy đủ hiệu quả đạt được là
rất khó khăn và phức tạp, bởi vì kết quả của hoạt động này nhiều khi được đánh giá


chủ yếu mang tính chất định tính chứ không phải định lượng. Mặc dù vậy các kết
quả định tính đến lượt nó cũng phải gián tiếp thông qua các chỉ số định lượng để
xác định một cách tương đối. Do đó, để tính hiệu quả của một hoạt động xã hội
cũng không thể không vận dụng phương pháp tính hiệu quả kinh tế (tất nhiên chỉ
tương đối). Theo cách tiếp cận này "hiệu quả chính là chỉ số so sánh giữa kết quả
thu về với chi phí công sức bỏ ra" [31, tr.56], trong đó kết quả thu về bao gồm cả
kết quả định tính và kết quả định lượng.
Trong một số trường hợp cụ thể, chỉ số so sánh này có thể lượng hoá một
cách cụ thể (định lượng). Ví dụ: khi đánh giá hiệu quả đầu tư trong sản xuất kinh
doanh, hiệu quả cao hay thấp được đánh giá định lượng cụ thể, chính xác bằng
cách so sánh chi phí đầu tư và kết quả thu về trên một đơn vị tiền tệ xác định.
Nhưng trong một số trường hợp khác, chỉ số này khó có thể lượng hoá bằng những
con số cụ thể mà chỉ có thể đánh giá có tính chất định tính. Chẳng hạn đánh giá
hiệu quả của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Trong trường hợp này kết quả
thu về khó có thể định lượng bằng những con số cụ thể, tuy nhiên chi phí bỏ ra lại
có thể lượng hoá một cách tương đối. Như chi phí cho biên soạn tài liệu, nội dung
và công tác tổ chức giáo dục chính trị tư tưởng v.v..
Khi nghiên cứu về hiệu quả giám sát HĐND tỉnh, cách đánh giá cũng tương
tự như trường hợp đánh giá hiệu quả giáo dục chính trị - tư tưởng. Trong những
trường hợp này, chỉ số đánh giá mang tính chất lưỡng tính: Vừa định lượng vừa
định tính. Tính lưỡng tính không chỉ thể hiện trong yếu tố đầu tư, chi phí bỏ ra mà
ngay cả kết quả thu về. Yếu tố có thể định lượng trong đầu tư, chi phí bỏ ra chính
là chi phí trực tiếp cho hoạt động giám sát, bao gồm chi phí việc xây dựng chương
trình, nội dung giám sát, tổ chức giám sát, thời gian giám sát, số lượng thành viên


tham gia... Tuy nhiên, cũng có những yếu tố thuộc phạm trù đầu tư cho hoạt động
giám sát nhưng không thể lượng hoá. Chẳng hạn như năng lực, uy tín, trình độ, kỹ
năng, kinh nghiệm... và sự am hiểu về các lĩnh vực giám sát của chủ thể tiến hành
giám sát. Những yếu tố này có vai trò, tác dụng cho công việc giám sát rất lớn

nhưng không thể lượng hoá như các đầu tư chi phí khác.
Trong đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh thì yếu tố
kết quả thu về sau khi tiến hành các hoạt động giám sát cũng có tính lưỡng tính. Có
thể vừa xác định được kết quả một cách định lượng vừa xác định được kết quả một
cách định tính (nhưng chủ yếu bằng định tính).
Có những hoạt động giám sát có thể lượng hoá được kết quả thu về. Chẳng
hạn, giám sát hoạt động thi hành pháp luật của các cơ quan tư pháp tại địa phương
đã đưa lại kết quả: chất lượng điều tra, xét xử, thi hành án đảm bảo đúng pháp luật
hơn, như số vụ án bị đình chỉ điều tra do hành vi không cấu thành tội phạm và số
vụ án bị huỷ và cải sửa giảm xuống đáng kể; án dân sự được thi hành tăng lên,
giảm tối đa số án tồn đọng; qua giám sát các cơ quan tư pháp được tăng cường về
cơ sở vật chất, kinh phí, các điều kiện đảm bảo phục vụ hoạt động v.v..
Tuy vậy, trong nhiều trường hợp kết quả thu về không chỉ đơn giản tính
bằng những yếu tố định lượng mà còn dựa vào cả yếu tố định tính. Hiệu quả giám
sát của HĐND cấp tỉnh không những thể hiện ở chỗ các chủ thể bị giám sát đã
chấn chỉnh uốn nắn hoạt động của mình theo đúng quy định của Hiến pháp, pháp
luật và nghị quyết của HĐND mà thông qua giám sát nâng cao tinh thần trách
nhiệm của các cá nhân có chức trách, củng cố niềm tin của cử tri đối với cơ quan
dân cử. Làm tốt công tác giám sát sẽ có những ảnh hưởng tích cực đến các vấn đề
kinh tế - xã hội, góp phần đảm bảo tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn trên
địa bàn tỉnh.


Thực ra, lâu nay việc đánh giá hiệu quả giám sát mới chủ yếu dừng lại qua
các con số: Số lượng các đoàn giám sát, các vấn đề được chất vấn qua các kỳ họp...
còn từ kết quả của các hoạt động đó mang lại hiệu quả như thế nào trong thực tế
quả thật rất khó xác định.
Như vậy, nói một cách khái quát, hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh phải bao
hàm cả những yếu tố định tính "chính là những ảnh hưởng (hiệu ứng tích cực) mà
hoạt động giám sát mang lại, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy

Nhà nước và toàn xã hội" [5, tr.98-99]. Đồng thời thông qua hoạt động giám sát sẽ
tăng cường mối quan hệ giữa HĐND với các cơ quan nhà nước khác, góp phần
xây

dựng

chính

quyền

địa

phương

ngày

càng

vững mạnh.
Từ sự phân tích trên, hiệu quả giám sát của HĐND cấp tỉnh được hiểu như
sau: Hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh là kết quả thu được sau quá trình tiến
hành các hoạt động giám sát so với những chi phí về thời gian, vật chất, nguồn lực
lao động... cho các hoạt động giám sát của HĐND tỉnh.
1.3.2. Các yếu tố đảm bảo hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh
- Các quy định của pháp luật về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh.
Đây là yếu tố đầu tiên tác động rất lớn đến hiệu quả giám sát của HĐND
tỉnh. Các quy định pháp luật về giám sát có vai trò tạo cơ sở pháp lý cho
HĐND thực hiện quyền năng giám sát của mình. Nếu luật không quy định một

cách cụ thể về hoạt động giám sát của HĐND thì việc ghi nhận chức năng
giám sát của HĐND trong Hiến pháp cũng chỉ là hình thức. Điều này đã được
minh chứng trong thực tiễn phát triển của Luật Tổ chức HĐND và UBND.


Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1989 và năm 1994 có quy định về chức
năng giám sát của Hội đồng nhưng rất khái quát, chung chung... Điều này đã
gây nên những khó khăn cho hoạt động của HĐND và là một trong những
nguyên nhân dẫn đến hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND tỉnh thời gian
qua rất thấp. Nhưng từ năm 2003, Luật Tổ chức HĐND và UBND đã cụ thể,
chi tiết hoá chức năng giám sát của Hội đồng, nhờ đó hiệu quả giám sát của
Hội đồng trong thực tiễn được nâng lên rất nhiều.
Như vậy, vấn đề đặt ra là để nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh
đòi hỏi Nhà nước phải ban hành đầy đủ các văn bản pháp luật trong lĩnh vực
giám sát cho HĐND nói riêng và toàn bộ hoạt động của HĐND nói chung .
- Tổ chức bộ máy, hoạt động của Thường trực và các Ban HĐND cấp tỉnh.
Yếu tố này đòi hỏi HĐND phải có một bộ máy hoạt động đủ khả năng thực
hiện một cách tốt nhất chức năng giám sát trong phạm vi quyền hạn của mình. Bất
kỳ cơ quan nào, nếu có một tổ chức hợp lý và đồng bộ sẽ tạo nên guồng máy làm
việc nhịp nhàng và dễ mang lại hiệu quả.
HĐND ở nước ta là cơ quan hoạt động không thường xuyên, cùng với đặc
điểm đại biểu HĐND làm việc theo chế độ kiêm nhiệm nên ảnh hưởng rất lớn, trực
tiếp đến hiệu quả hoạt động của HĐND nói chung và giám sát nói riêng. Hơn nữa,
HĐND là một cơ quan mang tính chất đại diện ở địa phương, nên về mặt tổ chức
lâu nay vẫn chưa được chú ý cả về lý luận và thực tiễn. Để thực hiện tốt chức năng
giám sát của mình, HĐND ngày càng chú ý hoàn thiện về mặt tổ chức. Từ khi
HĐND mới chỉ có một ban thư ký đại biểu, không có thường trực, đến nay HĐND
đã thành lập các cơ quan của mình: Thường trực HĐND, các ban HĐND, trong đó đã
có những đại biểu hoạt động chuyên trách, phần nào đáp ứng được nhu cầu công việc
trước mắt. Tuy nhiên, với tình hình nhiệm vụ như hiện nay, cần phải tập trung nghiên

cứu đổi mới về mặt tổ chức bộ máy của Hội đồng, trong đó phải chú ý đến bộ phận


giúp việc cho thường trực. Có như vậy mới đảm đương được công việc giám sát của
Hội đồng.
- Năng lực, bản lĩnh và trách nhiệm thực hiện chức năng giám sát của đại
biểu HĐND.
Đại biểu HĐND là nguồn gốc của mọi vấn đề liên quan đến chất lượng và
hiệu quả giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Bởi thực tế
chứng minh rằng: một cơ quan tổ chức có cơ cấu hợp lý đầy đủ các phòng ban,
nhưng để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, yếu tố con người trong tổ
chức đó đóng vai trò vô cùng quan trọng. Do vậy, bên cạnh đảm bảo về mặt số
lượng, năng lực của các đại biểu HĐND trong khi thực hiện chức năng giám sát có
vai trò rất lớn đến kết quả giám sát cũng như việc thực thi kết quả đó. Đúng như ý
kiến của ông Trần Hữu Đức - Trưởng phòng tổng hợp - Văn phòng HĐND tỉnh
Nghệ An nhận xét:
Các đại biểu dân cử phải có đủ tâm, đủ tầm và đủ tài, bởi người làm
công tác giám sát, ngoài công nhận cái đúng, còn phải chỉ rõ và đề ra
những kiến nghị, những biện pháp hữu hiệu để loại bỏ cho được cái tiêu
cực, trái pháp luật. Để phát hiện sai trái của người khác của các ngành
chức năng, người đại biểu nhân dân phải có quan điểm, trình độ, bản lĩnh
vững vàng, có cách nhìn sáng suốt và phương pháp làm việc khoa học,
hợp lý, phải có bản lĩnh giám nói thẳng nói thật, không nể nang né tránh,
phải vì lợi ích của dân của Nhà nước [10, tr.19].
Điều này có nghĩa, giám sát là một công việc khó khăn và phức tạp, bên
cạnh nắm vững các quy định pháp luật về vấn đề giám sát, người đại biểu còn phải
có kỹ năng, trình độ, bản lĩnh và trách nhiệm khi tiến hành các hoạt động giám sát.
Muốn vậy, các đại biểu dân cử phải luôn ý thức được đây là một trong những điều
kiện chủ quan mà bất cứ một người đại biểu nào cũng phải tự trau dồi nâng cao
nghiệp vụ.



- Chương trình, kế hoạch, phương thức giám sát của HĐND.
Xây dựng chương trình, kế hoạch và lựa chọn hình thức giám sát phù hợp là
điều kiện đảm bảo thế chủ động cho HĐND khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ và
cũng là một trong những yếu tố góp phần nâng cao hiệu quả giám sát. HĐND tỉnh
cần ra nghị quyết tổ chức giám sát, các cuộc giám sát đều phải lập kế hoạch, xây
dựng chương trình cụ thể, thông báo sớm về nội dung, thời gian và thống nhất cách
thức thực hiện, các thành viên của đoàn giám sát phải nắm vững mục đích yêu cầu,
phương pháp giám sát.
Nói chung, HĐND phải xây dựng chương trình giám sát hàng năm, kế hoạch
giám sát hàng quý, hàng tháng của thường trực, các ban, các đại biểu và kế hoạch
giám sát cụ thể bằng nội dung cũng như những cuộc giám sát đột xuất theo yêu cầu
của cử tri, dư luận xã hội. Trong giai đoạn hiện nay chúng ta đang thực hiện
chương trình hoá hoạt động giám sát, tổ chức giám sát một cách toàn diện, các lĩnh
vực giám sát của HĐND tỉnh rất rộng, cho nên khi xây dựng chương trình giám sát
cần phải có trọng tâm, trọng điểm; nội dung giám sát phải tập trung vào những vấn
đề thiết thực, bức xúc và đang được đông đảo cử tri ở địa phương quan tâm.
Cũng cần phải thấy rằng mọi cố gắng trong việc xây dựng chương trình, lập
kế hoạch và lựa chọn hình thức giám sát có thể sẽ không đưa lại một kết quả nào
nếu HĐND thiếu kiểm tra, đôn đốc các kết luận sau khi giám sát. Việc kiểm tra,
đôn đốc các kết luận sau khi giám sát buộc đối tượng bị giám sát phải kịp thời uốn
nắn, chấn chỉnh hoạt động của mình theo đúng quy định của pháp luật và Nghị
quyết của HĐND, và đó cũng là một trong những điều kiện nâng cao hiệu lực, hiệu
quả giám sát hiện nay.
- Chất lượng và hiệu lực giám sát.
Chất lượng, hiệu lực và hiệu quả giám sát có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Hiệu quả giám sát cao hay thấp phụ thuộc vào chất lượng hoạt động giám sát cũng
như những kết luận, kiến nghị từ hoạt động giám sát có được thực hiện nghiêm



chỉnh hay không. Giám sát có chất lượng nghĩa là đưa ra được những kết luận, đề
xuất đúng đắn và chỉ khi giám sát có chất lượng mới tạo tiền đề để bảo đảm hiệu
lực của giám sát. Trong mối quan hệ giữa chất lượng và hiệu lực giám sát thì chất
lượng giám sát là tiền đề bảo đảm hiệu lực, nhưng để bảo đảm hiệu lực giám sát
còn cần sự tự giác chấp hành nghiêm chỉnh của các chủ thể bị giám sát đối với các
kết luận, đề xuất đúng đắn rút ra từ hoạt động giám sát; đồng thời cần có các biện
pháp xử lý đối với những chủ thể không chấp hành nghiêm các kết luận, đề xuất
đó. Một khi chất lượng và hiệu lực giám sát được đảm bảo thì đương nhiên hiệu
quả của hoạt động giám sát sẽ tốt hơn. Vì thế trong các giải pháp bảo đảm hiệu quả
giám sát phải tính đến các giải pháp liên quan đến chất lượng và hiệu lực giám sát.
- Điều kiện vật chất, chi phí cho hoạt động giám sát của Hội đồng.
Muốn nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND tỉnh cần phải đầu tư
chi phí và điều kiện vật chất cho hoạt động giám sát. Trong đánh giá hiệu quả giám
sát của HĐND cần hiểu tính chất hai mặt của đầu tư chi phí cho hoạt động này.
Thứ nhất, phải tăng cường đầu tư chi phí cho hoạt động giám sát của HĐND
theo yêu cầu của từng nội dung hoạt động. Nếu có đầu tư thoả đáng sẽ góp phần
tích cực nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng. Chẳng hạn có những địa
phương thuộc vùng sâu, vùng xa, vùng cao rất khó khăn, công việc giám sát chủ
yếu lại diễn ra ở cơ sở cho nên cần có chế độ kinh phí bồi dưỡng cho cán bộ trực
tiếp xuống giám sát, tạo điều kiện thuận lợi cho đoàn giám sát trong thời gian làm
việc tại cơ sở... Đối với các chức danh kiêm nhiệm của HĐND nên có quy định
được hưởng phụ cấp kiêm nhiệm để họ nâng cao tinh thần trách nhiệm của mình.
Cần phải đầu tư nhiều hơn nữa các trang thiết bị cần thiết, khắc phục tình trạng khó
khăn lâu nay trong công việc giám sát là thiếu nguồn thông tin cập nhật.
Thứ hai, đầu tư chi phí cho hoạt động giám sát phải tối ưu nghĩa là chỉ đủ
mức cần thiết và triệt để tiết kiệm, chống lãng phí. Không bao giờ và ở đâu hễ cứ
tăng đầu tư chi phí thì khi đó và ở đó, công tác giám sát có hiệu quả. Ngược lại,



nhiều khi chỉ với mức kinh phí hạn hẹp, nhưng nếu tổ chức thực hiện tốt, tìm ra
những hình thức phương pháp thích hợp, cũng có thể đưa lại hiệu qủa cao.
Tuy nhiên, do tính đặc thù của công tác giám sát, hơn nữa nhiều khi dư luận
xã hội cũng đóng vai trò rất lớn trong việc chấn chỉnh các vấn đề chính trị, cho nên
trong một số trường hợp không nên căn ke tính toán mức chi phí bỏ ra là bao
nhiêu, vấn đề chúng ta có thực hiện chương trình giám sát đến cùng hay không.
Nếu cuộc giám sát đưa lại kết quả tốt không những góp phần tích cực vào sự phát
triển kinh tế của địa phương mà còn có tác dụng to lớn trong việc chấn chỉnh các
vấn đề chính trị - xã hội. Như vậy, khi nói tới hiệu quả của bất kỳ hoạt động nào
nói chung và giám sát nói riêng đòi hỏi phải tính đến mức đầu tư, chi phí hợp lý,
tối ưu.
1.3.3. Tiêu chí đánh giá hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh
Để đánh giá được hiệu quả giám sát của HĐND cần có những tiêu chí nhất
định. Mỗi tiêu chí được xem là một căn cứ để xác định hiệu quả giám sát ở một
phương diện khác nhau. Vì vậy, để đánh giá đúng hiệu quả giám sát cần phải xác
định đúng các tiêu chí cần thiết.
Do nội dung giám sát của HĐND rất đa dạng nên có những nhận định, đánh
giá kết luận mang tính chất định tính, đồng thời cũng có những đánh giá, kết luận
mang tính chất định lượng. Vì vậy, xác định tiêu chí để đánh giá hiệu quả giám sát
là một việc làm rất khó khăn. Hơn nữa đến nay "khái niệm chung về hiệu quả giám
sát, các chỉ số và phương pháp xác định nó hầu như chưa được nghiên cứu trong
sách báo pháp luật và chính trị ở nước ta" [46, tr. 98]. Xuất phát từ quan niệm về hiệu
quả giám sát của HĐND cấp tỉnh, bước đầu xin nêu một số tiêu chí đánh giá hiệu quả
giám sát của HĐND cấp tỉnh như sau:
- Chuyển biến của tình hình kinh tế - xã hội sau khi có hoạt động giám sát.


Để đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung và hoạt
động giám sát của HĐND tỉnh nói riêng trước hết phải căn cứ vào tình hình kinh tế

xã hội của địa phương. Đây là tiêu chí đầu tiên cần phải xem xét, bởi tất cả các
hoạt động của các cơ quan, đơn vị suy cho cùng không ngoài mục đích nhằm thúc
đẩy kinh tế - xã hội địa phương ngày càng phát triển.
HĐND tỉnh hàng năm phải căn cứ vào những dự báo của tình hình kinh tế xã
hội địa phương để xây dựng chương trình giám sát của mình. Đồng thời thông qua
giám sát HĐND không những có quyền kiến nghị với UBND, với các ngành có
liên quan mà còn có thể kiến nghị với Trung ương về việc đưa ra những chủ
trương, chính sách cho phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của địa phương. Do
vậy, muốn biết hoạt động giám sát của HĐND có mang lại hiệu quả hay không
chúng ta phải có những biện pháp so sánh tình hình kinh tế xã hội của địa phương
sau khi có hoạt động giám sát so với trước khi có hoạt động giám sát. Nếu sau
chương trình giám sát hàng năm của Hội đồng tình hình kinh tế xã hội trên địa bàn
có những chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao,
chứng tỏ hoạt động giám sát của HĐND đã mang lại hiệu quả và ngược lại.
Để làm tốt nhiệm vụ trên, HĐND ngoài việc cập nhật các thông tin về kinh
tế xã hội của địa phương sau khi có hoạt động giám sát còn phải nắm bắt chính xác
tình hình kinh tế xã hội trước khi có hoạt động giám sát. Bởi chỉ trên cơ sở đó, các
cơ quan chức năng mới có căn cứ để so sánh, đánh giá đúng kết quả thực tế do sự
tác động của HĐND mang lại.
Tuy nhiên, sự phát triển của kinh tế - xã hội địa phương trong thực tế hoàn
toàn không chỉ do tác động của HĐND mà còn là sự tác động tổng hợp của nhiều
yếu tố quan trọng khác. Do vậy, khi đánh giá hiệu quả giám sát của HĐND theo
tiêu chí này cũng chỉ ở mức độ tương đối.
- Mức độ đạt được của mục đích, yêu cầu giám sát.


Bất cứ một hành động nào của con người đều xuất phát từ tính có mục đích
của nó. Về điều này Ăngghen đã khẳng định trong lịch sử xã hội, nhân tố hoạt
động hoàn toàn chỉ là những con người có ý thức, hoạt động có suy nghĩ, hay có
nhiệt tình và theo đuổi những mục đích nhất định, thì không có gì xảy ra mà lại

không có ý định tự giác, không có mục đích mong muốn. Mục đích là kết quả
mong đợi, là cái ta mong muốn đạt được [9, tr.36].
Cũng giống như các hoạt động khác, khi tiến hành giám sát, HĐND tỉnh
phải xác định đúng mục đích, yêu cầu của từng chương trình giám sát. Mục đích
của hoạt động giám sát được thể hiện ở nhiều cấp độ và phạm vi khác nhau. Ở cấp
độ chung mục đích của giám sát là việc bảo đảm hoạt động đúng đắn, minh bạch,
liên tục của từng cơ quan nhà nước, của từng cá nhân có chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn trong BMNN nói chung trên cơ sở tuân thủ thường xuyên nghiêm chỉnh
pháp luật quy định về nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn của họ. Ở cấp độ thứ hai,
tuỳ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng đối tượng bị giám sát,
HĐND đề ra những mục đích giám sát cụ thể khác nhau [46, tr. 96].
Thông thường mục đích của giám sát được thực hiện thông qua giám sát
toàn diện việc thực hiện Luật, Nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh nghị quyết của
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, nghị quyết của HĐND tỉnh... về tất cả các lĩnh vực
của địa phương hoặc ở các ngành nhất định để phát hiện vấn đề và kiến nghị biện
pháp. Mục đích của giám sát cũng có thể được thực hiện thông qua giám sát từng
vấn đề. Ví dụ: đánh giá hiệu quả việc sử dụng ngân sách khoa học và công nghệ,
đánh giá tình trạng môi trường, đánh giá việc thực hiện chương trình trồng rừng...
theo kế hoạch đã định trước hoặc đột xuất theo kiến nghị của đại biểu HĐND, của
cử tri, của cấp trên... [47, tr. 28].
Như vậy, căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội của địa phương, HĐND tỉnh
xây dựng chương trình giám sát hàng năm và thực hiện chương trình đó theo
những mục đích đã đề ra. Để đánh giá hiệu quả giám sát của HĐND, chúng ta phải


xem xét mức độ đạt được của mục đích, yêu cầu giám sát. Bởi mục đích của giám
sát là điều mà mọi thành viên khi tiến hành giám sát đều hướng tới và mong muốn
đạt được. Nên "mục đích đã trở thành tiêu chuẩn, thước đo cho việc đánh giá hiệu
quả giám sát, là phạm vi cho việc đánh giá kết quả thực tế đạt được" [46, tr. 96].
Tuy nhiên với cách xác định này, mục đích đề ra cho từng cuộc giám sát bao giờ

cũng phải đúng, nghĩa là phải phù hợp với chức năng nhiệm vụ, quyền hạn do pháp
luật quy định cho đối tượng bị giám sát và phải phù hợp với nghị quyết của HĐND
tỉnh cũng như yêu cầu thực tiễn đặt ra.
- Các kết quả cụ thể đạt được do tác động trực tiếp của hoạt động giám sát.
Một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá hiệu quả giám sát của
HĐND là phải căn cứ vào những kết quả thực tế do tác động giám sát mang lại.
Muốn vậy, kết thúc mỗi cuộc giám sát HĐND phải xác định được các kết quả đạt
được trong cuộc giám sát đó. Chẳng hạn: nếu giám sát lĩnh vực xây dựng cơ bản
thì phải ngăn chặn được vấn đề thất thoát vốn nhà nước; nếu giám sát vấn đề thu
thuế thì phải đánh giá được số phần trăm thất thu, thất nộp và doanh số mức thu
cho ngân sách nhà nước phải được tăng lên...
Rõ ràng đây là tiêu chí phức tạp nhất, vì HĐND tỉnh có phạm vi giám sát
rộng, những biến đổi do sự tác động giám sát của HĐND nhiều khi không chỉ phát
sinh trực tiếp từ đối tượng bị giám sát mà còn ảnh hưởng tích cực đến các đối
tượng liên quan. Hơn nữa các kết quả thực tế do giám sát của HĐND mang lại
nhiều khi không những thể hiện bằng yếu tố định lượng mà còn cả yếu tố định tính.
Chẳng hạn: khi HĐND tỉnh tiến hành giám sát vấn đề thu, chi tuỳ tiện tiền của học
sinh tại một số trường trên địa bàn tỉnh Nghệ An vào đầu năm học 2005, kết quả
các đơn vị trường học có vi phạm đã kịp thời chấn chỉnh hoạt động của mình, trả
lại tiền cho học sinh và nộp vào ngân sách nhà nước một số lượng không nhỏ;
đồng thời qua đợt giám sát HĐND đã đưa lại sự yên tâm cho các phụ huynh học


sinh cũng như niềm tin của cử tri đối với cơ quan dân cử. Do vậy, để xác định
đúng những kết quả thực tế do sự tác động của giám sát đòi hỏi phải có quan điểm
toàn diện, cụ thể đồng thời phải có những phương pháp phù hợp để thu thập nhiều
nguồn thông tin và tư liệu khác nhau.
Mặt khác, những chuyển biến tích cực của đối tượng bị giám sát trong thực
tế không hoàn toàn chỉ do tác động của cơ quan dân cử ở địa phương mà còn là sự
tác động tổng hợp của nhiều yếu tố khác như cơ quan thanh tra, sự kiểm tra chỉ đạo

hướng dẫn của cấp trên, sự giám sát của nhân dân... Vì vậy, phải xác định rõ những
kết quả nào do giám sát của HĐND mang lại, những kết quả nào do công cụ khác
tác động. Nếu những kết quả thực tế đạt được hoàn toàn không có sự tác động của
HĐND mà do sự tác động của yếu tố khác thì không thể coi đó là cơ sở để đánh
giá hiệu quả giám sát của HĐND. Giám sát của HĐND được xem có hiệu quả khi
những kết qủa tích cực đạt được do giám sát mang lại phải phản ánh đúng mục
đích, yêu cầu, định hướng khi lên kế hoạch giám sát. Đồng thời mục đích, yêu cầu,
định hướng khi chuẩn bị giám sát và những kết quả thực tế do giám sát mang lại
phải xác định trong cùng một tiêu chuẩn, trong cùng một phạm vi, có như vậy đánh
giá mới chính xác [37, tr. 97-98].
Khi xem xét những kết quả thực tế do giám sát của HĐND cần tính tới cả
những biến đổi tích cực và biến đổi không tích cực nếu có. Chẳng hạn, việc HĐND
tỉnh tổ chức các đoàn xuống giám sát tại cơ quan, các ngành chức năng ở cơ sở có
thể đưa đến những kết quả tốt, nhưng bên cạnh đó cũng có thể gây ra tâm lý lo lắng,
cản trở sự hoạt động bình thường của cơ quan tổ chức, ảnh hưởng đến chương trình
hoạt động của đối tượng bị giám sát.
Tóm lại, trên cơ sở xác định chính xác những kết quả cụ thể đạt được do
hoạt động giám sát của HĐND mang lại, kết hợp với các tiêu chí khác có thể đánh
giá mức độ hiệu quả giám sát của HĐND.


- Kết quả thu về so với chi phí bỏ ra.
Hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh thể hiện ở việc đạt được những mục đích
đề ra, mặt khác phải tính đến những chi phí để đạt được mục đích đó. Chi phí đó
bao gồm: chi phí về vật chất, tinh thần, cũng như số lượng người tham gia, thời
gian tiến hành... tất cả những phí tổn cho việc giám sát đều cần ở mức thấp nhưng
phải đủ đảm bảo cho các chủ thể giám sát phát huy tốt vai trò, nhiệm vụ và năng
lực của mình để đạt được những kết quả ở mức cao nhất. Điều này có nghĩa phải
biết tiết kiệm, không chi phí bừa bãi và phải biết lựa chọn những phương pháp
giám sát ít tốn kém nhất để đạt được mục đích đề ra.

Mặc dù vậy, giám sát là một hoạt động chủ yếu mang tính xã hội nên để tính
kết quả thu về so với chi phí bỏ ra là điều rất khó khăn phức tạp. Bởi yếu tố vừa
định lượng, vừa định tính không chỉ thể hiện trong kết quả thu về mà ngay cả yếu tố
đầu tư chi phí bỏ ra. Cho nên khi căn cứ vào tiêu chí này để đánh giá hiệu quả giám
sát cũng chỉ tính toán ở mức độ tương đối. Vấn đề quan trọng phải biết được đặc thù
của công tác giám sát để vận dụng cho phù hợp.
Trong hoạt động giám sát, tính kinh tế liên quan chặt chẽ với tính xã hội. Có
những cuộc giám sát nếu tính dưới góc độ kinh tế không mang lại lợi ích thiết thực
nhưng xét dưới góc độ xã hội lại mang lại hiệu quả rất lớn. Chẳng hạn một số lĩnh
vực nếu được giám sát đến cùng và triệt để không những góp phần tích cực vào sự
phát triển kinh tế - xã hội mà còn có tác dụng to lớn trong việc chấn chỉnh các vấn
đề chính trị. Vì vậy, khi căn cứ vào tiêu chí kinh phí để xem xét hiệu quả giám sát
của HĐND phải xem xét cả hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Nguyễn Khắc Bộ (2001), Công tác giám sát tại kỳ họp Hội đồng nhân dân Những vấn đề đặt ra nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động
của Hội đồng nhân dân, Kỷ yếu nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát
của Hội đồng nhân dân, Văn phòng Quốc hội.

2.

Bộ Nội vụ (2005), Tài liệu bồi dưỡng trưởng, phó ban chuyên trách và ủy
viên thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Hà Nội.

3.

Chủ tịch Hồ Chí Minh với Quốc hội và Hội đồng nhân dân (1996), Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

4.

Nguyễn Như Du (2004), "Cử tri đang mong chờ vào hiệu quả giám sát", Báo
Người đại biểu nhân dân, (31), tr.1.

5.

Nguyễn Sĩ Dũng (chủ biên) (2004), Quyền giám sát của Quốc hội, nội dung
và thực tiễn từ góc nhìn tham chiếu, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

6.

Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7.

Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8.

Đảng bộ tỉnh Nghệ An (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ
An lần thứ XVI, Tài liệu lưu hành nội bộ.

9.

Nguyễn Minh Đoan (2001), Hiệu quả pháp luật, Những vấn đề lý luận và

thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Trần Hữu Đức (2006), "Nâng cao chất lượng giám sát của Hội đồng nhân dân",
Bản tin Hội đồng nhân dân và Đoàn đại biểu Quốc hội, (1), tr.19.
11. Minh Đức (2006), "Giám sát là động lực của phát triển", Bản tin Hội đồng
nhân dân và Đoàn đại biểu Quốc hội Nghệ An, (1), tr.6.


12. Ninh Viết Giao (2005), Nghệ An lịch sử và văn hoá, Nxb Nghệ An,
Nghệ An.
13. Hà Thị Mai Hiên (2003), Cơ chế kiểm tra giám sát trong nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, trong sách: "Giám sát và cơ chế giám sát việc
thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta", Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội.
14. Hiến pháp nước Cộng hoà xã h chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (đã được sửa
đổi bổ sung 2001) (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An (1999), Báo cáo kết quả bầu cử Hội đồng
nhân dân tỉnh Nghệ An nhiệm kỳ 1999-2004.
16. Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An (2004), Báo cáo tổng kết hoạt động của Hội
đồng nhân dân tỉnh nhiệm kỳ 1999-2004.
17. Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An (2004), Báo cáo kết quả bầu cử Hội đồng
nhân dân tỉnh Nghệ An nhiệm kỳ 2004 - 2009.
18. Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An (2005), Báo cáo kết quả hoạt động của
thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An năm 2005 khoá XV tại kỳ
họp thứ 6.
19. Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An (2005), Báo cáo kết quả hoạt động của Ban
pháp chế Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An năm 2005 và định hướng
trọng tâm công tác 2006.
20. Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An (2005), Báo cáo hoạt động của Ban Kinh tế
và ngân sách Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An 2005 định hướng công

tác năm 2006.
21. Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An (2005), "Giám sát dễ dãi sẽ mất lòng dân",
Bản tin Hội đồng nhân dân và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Nghệ An,
tr.14.


22. Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An (2005), Báo cáo thẩm tra của Hội đồng
nhân dân tỉnh Nghệ An về tình hình văn hoá - xã hội trên địa bàn năm
2005.
23. Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An (2006), Báo cáo kết quả hoạt động của
thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh 6 tháng đầu năm 2006.
24. Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An (2006), Báo cáo kết quả hoạt động của Ban
pháp chế Hội đồng nhân dân tỉnh 6 tháng đầu năm và định hướng trọng
tâm công tác 6 tháng cuối năm 2006.
25. Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An (2006), Báo cáo kết quả hoạt động 6 tháng
đầu năm và phương hướng, nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2006 của Ban
Kinh tế ngân sách.
26. Trần Đình Huề (2001), Mấy vấn đề về vai trò hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân và bước đầu xây dựng quy trình một cuộc giám sát, Kỷ
yếu nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân, Văn
phòng Quốc hội.
27. Vũ Hùng (2001), Hoạt động giám sát của Ban Văn hoá xã hội, Hội đồng
nhân dân thành phố Đà Nẵng và một số kiến nghị nhằm góp phần nâng
cao chất lượng và hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân, Kỷ yếu
nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân, Văn
phòng Quốc hội.
28. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, Tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
29. Leni Montiel (2001), Bài phát biểu tại Hội thảo nâng cao năng lực và hiệu
quả giám sát của Hội đồng nhân dân, Kỷ yếu Nâng cao năng lực và hiệu
quả giám sát của Hội đồng nhân dân, Văn phòng Quốc hội, Hà Nội.

30. Luật hoạt động giám sát của Quốc hội (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
31. Nguyễn Văn Mạnh (2002), Cơ sở lý luận về nâng cao hiệu quả giáo dục pháp
luật cho người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn
Hà Nội, Kỷ yếu khoa học đề tài cấp bộ "Nâng cao hiệu quả giáo dục pháp


luật trong các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Hà Nội hiện nay", Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
32. Một vụ thất thoát, tham nhũng được nêu trên Vietnet ngày 19/10/2005, tr.1.
33. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Chu Hồng Thanh (1993), Nhà nước quản lý kinh tế bằng pháp luật trong cơ
chế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Luận án phó tiến sĩ Luật học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
35. Lê Minh Thông (chủ biên) (2001), Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động của
bộ máy Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Khoa học
xã hội nhân văn, Hà Nội.
36. Nguyễn Văn Thuật (2001), Phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh thực
hiện chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An, Kỷ yếu
về nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân, Văn
phòng Quốc hội.
37. Vũ Thư (2003), Vấn đề nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của
Hội đồng nhân dân, Trong sách: "Giám sát và cơ chế giám sát việc thực
hiện quyền lực nhà nước ở nước ta", Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
38. Nguyễn Văn Tri (2001), Chất vấn và trả lời chất vấn, một hình thức giám sát
quan trọng của Hội đồng nhân dân, Những vấn đề đặt ra nhằm nâng cao
chất lượng và hiệu quả, Kỷ yếu nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng
nhân dân, Văn phòng Quốc hội.
39. Dương Quang Tung (2001), Bàn về mô hình tổ chức chính quyền địa phương,
Trong sách: Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà

nước", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
40. Từ điển bách khoa luật (1987), Mátxcơva
41. Từ điển học sinh (1971), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
42. Từ điển Lepetitlasousse (1999), Paris.
43. Từ điển luật học (1999), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.


44. Đào Trí Úc (2003), "Quan niệm về giám sát việc thực hiện quyền lực nhà
nước và các cơ chế thực hiện giám sát", Tạp chí Nhà nước và pháp luật,
(6), tr.4.
45. Trần Văn Vinh (2006), Lấy phiếu tín nhiệm các chức danh do Hội đồng nhân
dân bầu, thực trạng và giải pháp, Bản tin Hội đồng nhân dân và đoàn đại
biểu Quốc hội tỉnh Nghệ An.
46. Võ Khánh Vinh (2003),Một số vấn đề chung về hiệu quả và việc nâng cao
hiệu quả giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước, Trong sách: "Giám
sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước", Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
47. Hồ ĐứcViệt (chủ biên) (2005), Sổ tay hướng dẫn hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh trong lĩnh vực khoa học và công nghệ bảo vệ
môi trường và tài nguyên thiên nhiên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Viện Ngôn Ngữ học (2005), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
49. Vụ Công tác đại biểu (2005), Những điểm mới trong quy chế hoạt động của
Hội đồng nhân dân 2005, Nxb Chính trị quốc gia.



×