Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP GIAO NHẬN VẬN TẢI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183 KB, 20 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA DOANH
NGHIỆP GIAO NHẬN VẬN TẢI
1.1. Khái luận chung về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm và bản chất của hiệu quả kinh doanh
Như chúng ta đã biết, kinh doanh trong cơ chế thị trường dưới sự quản lý
của Nhà nước, mọi doanh nghiệp đều hướng tới một mục tiêu chung là hiệu quả
trong hoạt động kinh doanh của mình. Hiệu quả kinh doanh là yếu tố cơ bản
quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Như vậy hiệu quả kinh
doanh thực chất là gì, và hiểu như nào là hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp?
Trong quá khứ cũng như hiện tại, còn nhiều quan niệm khác nhau về thuật
ngữ hiệu quả kinh doanh. Tuy nhiên người ta có thể chia hiệu quả kinh doanh
thành các nhóm cơ bản như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Hiệu quả kinh doanh là kết quả thu được
trong hoạt động kinh doanh, là doanh thu tiêu thụ hàng hoá.
Theo quan điểm này thì hiệu quả kinh doanh đồng nhất với kết quả kinh
doanh và với các chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh. Quan điểm
này không đề cập đến chi phí kinh doanh, nghĩa là nếu hoạt động kinh doanh
tạo ra cùng một kết quả thì có cùng một mức hiệu quả kinh doanh, mặc dù hoạt
động kinh doanh đó có hai mức chi phí khác nhau.
Nhóm quan điểm thứ hai cho rằng: Hiệu quả kinh doanh là quan hệ tỷ lệ
giữa phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí. Quan điểm này
đã nói lên quan hệ so sánh một cách tương đối giũa kết quả đạt được và chi phí
bỏ ra để đạt kết quả đó, nhưng lại chỉ xét đến phần kết quả và chi phí bổ sung.
Nhóm thứ ba cho rằng: Hiệu quả kinh doanh là một đại lượng so sánh
giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra để có được kết quả đó. Quan điểm này đã
phản ánh được mối liên hệ bản chất của hiệu quả kinh doanh, vì nó gắn được
kết quả với các chi phí bỏ ra, coi hiệu quả là sự phản ánh trình độ sử dụng các
nguồn lực. Tuy nhiên, kết quả và chi phí đều luôn luôn vận động, quan điểm
này chưa thể hiện được tương quan về lượng và chất giữa kết quả và chi phí.
Nhóm thứ tư cho rằng : Hiệu quả kinh doanh phải thể hiện được mối quan


hệ giữa sự vận động của kết quả với sự vận động của chi phí tạo ra kết qua đó,
đồng thời phản ảnh được mối quan hệ giữa sự vận động của kết quả với sự vận
động của chi phí tạo ra kết quả đó, đồng thời phản ánh được trình độ sử dụng
các nguồn lực sản xuất. Quan điểm này đã chú ý đến sự so sánh tốc độ vận động
của hai yếu tố phản ánh hiệu quả kinh doanh, đó là tốc độ vận động của kết quả
và tốc độ vận động của chi phí. Mối quan hệ này phản ánh trình độ sử dụng các
nguồn lực sản xuất của doanh nghiệp.
Như vậy, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế
phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất, trình độ tổ chức và quản lý
của doanh nghiệp để thực hiện ở mức cao nhất các mục tiêu kinh tế xã hội với
chi phí thấp nhất. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp gắn rất chặt với hiệu
quả kinh tế của toàn xã hội, vì thế nó cần xem xét toàn diện cả về mặt định tính
lẫn định lượng, không gian và thời gian. Về mặt định tính, mức độ hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp là những lỗ lực của doanh nghiệp và phản ánh
trình độ quản lý của doanh nghiệp đồng thời gắn những lỗ lực đó với việc đáp
ứng các mục tiêu và yêu cầu của doanh nghiệp và của xã hội về mặt kinh tế,
chính trị và xã hội. Về mặt định lượng, hiệu quả kinh doanh thể hiện mối tương
quan so sánh giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Mức chênh lệch này càng
lớn thì hiệu quả kinh doanh càng cao và ngược lại. Cả hai mặt định tính và định
lượng của hiệu quả kinh doanh có quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời
nhau, trong đó hiệu quả về lượng phải gắn với việc thực hiện các mục tiêu chính
trị, xã hội, môi trường nhất định. Do vậy, chúng ta không thể chấp nhận việc các
nhà kinh doanh tìm mọi cách để đạt được các mục tiêu kinh tế cho dù phải chi
phí với bất cứ giá nào thậm chí đánh đổi các mục tiêu chính trị, xã hội, môi
trường để đạt được các mục tiêu kinh tế. Về mặt thời gian hiệu quả doanh
nghiệp đạt được trong từng thời kỳ, từng giai đoạn không được làm giảm sút
hiệu quả của các giai đoạn, thời kỳ tiếp theo. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp
không được vì lợi ích trước mắt mà bỏ đi lợi ích lâu dài. Trong thực tiễn kinh
doanh của doanh nghiệp, điều thường không được tính đến là con người khai
thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn không có kế hoạch,

thậm chí khai thác và sử dụng bừa bãi, làm cạn kiệt tài nguyên, phá huỷ môi
trường. Cũng không thể quan niệm rằng cắt giảm chi phí và tăng doanh thu lúc
nào cũng có hiệu quả, một khi cắt giảm tuỳ tiện và thiếu cân nhắc các chi phí
cải tạo môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái, đầu tư cho giáo dục đào tạo. .
Tóm lại, về mặt định tính, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là một
phạm trù kinh tế tổng hợp phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố sản xuất nói
riêng, trình độ tổ chức và quản lý nói chung để đạt được các mục tiêu mà doanh
nghiệp đã xác định. Trong điều kiện hiện nay, khi các quốc gia trên thế giới
luôn đặt cao sự an toàn của người tiêu dùng, an toàn vệ sinh môi trường, vấn đề
lao động và trách nhiệm xã hội thì hiệu quả kinh doanh nhiều khi còn gắn với
hiệu quả kinh tế xã hội. Về mặt định lượng, đó là một đại lượng biểu thị sự
tương quan giữa kết quả mà doanh nghiệp đạt được với các chi phí mà doanh
nghiệp bỏ ra để đạt được các kết quả đó và mối quan hệ giữa sự vận động của
chi phí tạo ra nó trong những điều kiện nhất định.
1.1.2. Chi phí kinh doanh và hiệu quả kinh doanh
Chi phí kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của tất cả các khoản chi cho hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm mua sắm nguyên vật liệu, máy móc
thiết bị, công cụ sản xuất khác, thuê lao động, đất đai, xây dựng nhà xưởng, chi
phí quản lý, chi phí trong quá trình sản xuất, chi phí tiếp khách, giao dịch….
nghĩa là tất cả các khoản chi cho đến khi giao được hàng đến người tiêu dùng,
kể cả nộp thuế và mua bảo hiểm.
Chi phí kinh doanh được biểu thị bằng một số chỉ tiêu: Tổng chi phí kinh
doanh, chi phí sản xuất (giá thành) chi phí ngoài sản xuất (cho lưu thông hàng
hoá, như vận chuyển, bốc xếp, lưu kho, báo vệ hàng hoá…) chi nộp thuế, mua
bảo hiểm, chi tiếp thị và các khoản khác. Để tính hiệu quả kinh doanh, người ta
thường dùng các chỉ tiêu như tổng chi phí sản xuất, tổng vốn kinh doanh, vốn cố
định, vốn lưu động.
Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp là toàn bộ những thành quả thu được
sau một quá trình kinh doanh được xã hội thừa nhận.
Định nghĩa trên cho thấy, có thể có nhiều đại lượng xác định kết quả kinh

doanh của doanh nghiệp như sản lượng, giá trị tổng sản lượng, giá trị sản lượng
hàng hoá và giá trị sản lượng hàng hoá thực hiện, doanh thu, giá trị sản phẩm
thuần tuý, giá trị sản phẩm thặng dư. Tuy nhiên, trong các doanh nghiệp thì:
Giá trị sản phẩm thuần tuý và hiệu số của giá trị tổng sản phẩm và tổng chi
phí vật chất (gồm nhà xưởng, thiết bị máy móc (C1) và nguyên vật liệu (C2).
Trong các doanh nghiệp chỉ tiêu này bao gồm:
 tiền lương chính và phụ cấp của công nhân viên chức
 chi phí bảo hiểm xã hội
 Các chi phí bằng tiền khác
 Các khoản phải nộp cho ngân sách nhà nước
 Phần lợi nhuận để lại cho doanh nghiệp trích các quỹ.
Chỉ tiêu giá trị sản phẩm thuần tuý có ưu điểm là phản ánh kết quả tích cực
của quá trình sản xuất, đó là lượng gia tăng của cải vật chất và tiết kiệm lao
động xã hội: phạm vi doanh nghiệp và phạm vi ngành, lượng gia tăng này biểu
hiện ở mức tăng giá trị sản phẩm thuần tuý, còn trên giác độ toàn bộ nền kinh tế
quốc dân thì lượng gia tăng này biểu hiện ở mức tăng thu nhập quốc dân.
Chỉ tiêu giá trị sản phẩm thặng dư có ưu điểm là phản ánh được mục tiêu
của hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong điều kiện giá
cả thiếu ổn định thì chỉ tiêu lợi nhuận mang nhiều tính giá trị hơn.
1.1.3. Phân loại hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Trong thực tiễn có nhiều loại hiệu quả kinh doanh khác nhau. Để tiện cho
việc quản ký và nâng cao hiệu quả kinh doanh người ta thường phân loại hiệu
quả theo các tiêu thức khác nhau. Sau đây là một số cách phân biệt hiệu quả
kinh doanh trong doanh nghiệp:
Thứ nhất, căn cứ vào phương pháp tính hiệu quả : Hiệu quả tuyệt đối và
hiệu quả tương đối. Đây là hai hình thức biểu hiện mối quan hệ giữa kết quả và
chi phí.
Hiệu quả tuyệt đối là phạm trù chỉ lượng hiệu quả của từng phương án kinh
doanh, từng thời kỳ kinh doanh của từng doanh nghiệp. Nó được tính bằng công
thức:

∑kết quả - ∑chi phí =∑P. (1)
Hiệu quả tương đối là phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực
sản xuất của doanh nghiệp. Nó được tính bằng công thức:
H1= Kết Qủa / Chi Phí (2)
H2= Chi Phí / Kết Qủa (3)
Công thức (2) cho biết lượng hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được từ
phương án kinh doanh, từng thời kỳ kinh doanh.
Công thức (3) cho biết một đơn vị chi phí thì tạo ra bao nhiêu đơn vị kết
qủa hoặc một đơn vị kết quả tạo ra bao nhiêu đơn vị chi phí.
Thứ hai, căn cứ vào phạm vi tính toán hiệu quả : Hiệu quả kinh doanh
tổng hợp và hiệu quả kinh doanh bộ phận:
 Hiệu quả kinh doanh tổng hợp là hiệu quả kinh doanh tính chung cho
toàn doanh nghiệp, cho các bộ phận trong doanh nghiệp.
 Hiệu quả kinh doanh bộ phận là hiệu quả kinh doanh tính riêng cho từng
bộ phận của doanh nghiệp hoặc từng yếu tố sản xuất.
Thứ 3, căn cứ thời gian mang lại hiệu quả : Hiệu quả trước mắt và hiệu
quả lâu dài. Hiệu quả trước mắt là hiệu quả kinh doanh tính cho thời gian ngắn,
thường là một năm, nó phản ánh tính tức thời trong hoạt động kinh doanh, và
thường không phản ánh được hiệu quả kinh doanh trong cả một quá trình. Hiệu
quả kinh doanh lâu dài là hiệu quả kinh doanh được tính cho một thời gian dài,
thường là từ 3- 5 năm, và thậm chí còn lâu hơn từ 5-10 năm…nó phản ánh hiệu
quả kinh doanh trong cả chặng đường kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ tư, căn cứ vào đối tượng xem xét hiệu quả : Hiệu quả trực tiếp và
hiệu quả gián tiếp. Hiệu quả kinh doanh trực tiếp được tính trực tiếp từ các hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, như doanh thu, lợi nhuận… còn hiệu quả
kinh doanh gián tiếp được tính thông qua các đại lượng gián tiếp như hiệu quả
của bộ máy quản trị, hiệu quả công tác xúc tiến thị trường…
Thứ 5, căn cứ vào khía cạnh khác nhau của hiệu quả : Hiệu quả tài
chính, hiệu quả chính trị- xã hôi.
Hiệu quả tài chính là hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp về mặt kinh tế

tài chính được biếu hiện qua các chỉ tiêu thu, chi trực tiếp của doanh nghiệp.
Hiệu quả chính trị- xã hội là hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp về mặt
chinh trị - xã hội- môi trường.
1.1.4 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh kinh doanh của doanh nghiệp
Hiệu quả kinh doanh không chỉ là mục tiêu kinh tế tổng hợp mà là nhiệm
vụ cơ bản của công tác quản trị doanh nghiệp. Để đánh giá hiệu quả kinh doanh
của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường, người ta thường sử dụng một hệ
thống các chỉ tiêu. Hệ thống chỉ tiêu này cho chúng ta rõ kết quả về mặt lượng
của phạm trù hiệu quả kinh tế, hiệu quả đạt được cao hay thấp sau mỗi kỳ kinh
doanh.
Để có những hiểu biết đúng đắn về bản chất của hiệu quả kinh doanh của
các doanh nghiệp, người ta phân loại các chỉ tiêu trong hệ thống chỉ tiêu đánh
giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp:
 Một là, các chỉ tiêu sử dụng để tính toán hiệu quả kinh doanh.
 Hai là, các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh.
 Ba là, các chỉ tiêu so sánh hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp.
Thứ nhất các chỉ tiêu sử dụng để tính toán hiệu quả kinh doanh
Mỗi chỉ tiêu này cho biết rõ chi phí bỏ ra và kết quả đạt được của từng mặt
hay từng lĩnh vực hoạt động sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế mỗi
chỉ tiêu loại này không phản ánh đầy đủ hiệu quả kinh doanh của các mặt hoạt
động của doanh nghiệp. Do có đặc trưng này nên sau khi đã tính toán, xác định
được loại chỉ tiêu này, người ta sẽ sử dụng chúng trong mối liên hệ với các chỉ
tiêu khác để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Ví dụ như, chỉ tiêu
quản trị sản lượng hàng hoá, giá thành, doanh thu tiêu thụ hàng hoá, vốn đầu tư.
.
Thứ hai: Các chỉ tiêu được sử dụng để phản ánh hiệu quả kinh doanh
Mỗi chỉ tiêu thuộc loại này phản ánh trực tiếp hiệu quả kinh doanh thông
qua quan hệ giữa kết quả đạt được và các chi phí đã bỏ ra để có được kết quả
đó, nói cách khác, chỉ tiêu này thể hiện mặt lượng của hiệu quả kinh doanh. Ví
dụ như NSLĐ, thời hạn thu hồi vốn đầu tư, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận…

Thứ ba: Các chỉ tiêu sử dụng để so sánh hiệu quả kinh doanh
Trong thực tế kinh doanh, mỗi doanh nghiệp thường xây dựng và lựa chọn
phương án kinh doanh có hiệu quả nhất để thực hiện. Để chọn được một
phương án kinh doanh có hiệu quả, người ta phải tính toán các chỉ tiêu để tiến
hành so sánh kết quả đạt được của các phương án kinh doanh khác nhau về
cùng một vấn đề để áp dụng trong kinh doanh của doanh nghiệp. Trong quá
trình phân tích và lựa chọn phương án có hiệu quả nhất người ta phải sử dụng
các chỉ tiêu để tính toán hiệu quả kinh doanh hoặc chỉ tiêu phản ánh hiệu quả
kinh doanh để so sánh giữa các phương án và chọn lựa.
Trong ba nhóm chỉ tiêu nói trên, chỉ tiêu dùng để phản ánh hiệu quả kinh
doanh có ưu điểm là phản ánh một cách trực tiếp hiệu quả kinh doanh thông qua
quan hệ giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra, lên tiện lợi cho việc tính toán và
đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp một cách bao quát. Do vậy
trong bài chỉ giới thiệu các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh và được dùng
để tính hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Hệ thống các chỉ tiêu chủ yếu phản ánh hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp đó là:
Chỉ tiêu lợi nhuận (p)
Trong cơ chế thị trường, lợi nhuận (p) vừa được coi là nhân tố để tính toán
hiệu quả kinh tế, vừa được coi là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp của doanh
nghiệp. Chỉ tiêu này được tính như sau:
P = D- (Z+ TH+ TT) (4)
Trong đó:
 P: Lợi nhuận của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh
 D: Doanh thu tiêu thụ trong một kỳ kinh doanh
 Z: Gía thành sản phẩm trong một kỳ kinh doanh
Th: Các loại thuế phải nộp sau một kỳ kinh doanh.
Chỉ tiêu này cho biết tổng lợi nhuận sau thuế của Công ty sau một kỳ kinh
doanh.
Mức vốn hao phí cho một đơn vị sản phẩm

Chỉ tiêu này được tính theo công thức :

×