Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Hai mặt của nền sản xuất xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.81 KB, 19 trang )

1

CHƯƠNG I
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG
I. Các yếu tố cơ bản của quá trình lao động sản xuất:
1. Sức lao động và lao động:
- Sức lao động: tòan bộ sức thể lực và trí lực của con người được sử
dụng trong quá trình lao động.
- Lao động: là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm
sáng tạo ra các sản phẩm phục vụ các nhu cầu của cuộc sống.
Vd: người nông dân sử dụng sức lao động của mình nhằm tạo ra lương
thực để nuôi sống bản thân và buôn bán.
2. Đối tượng lao động: là những yếu tố mà lao động của con người tác
động vào làm thay đổi hình thái của nó cho phù hợp với nhu cầu và
mục đích của con người. Bao gồm đối tượng lao động nguyên thuỷ
(đất, nước, phân bón…) và đối tượng lao động nhân tạo (máy cày,
máy gặt lúa…)
3. Tư liệu lao động: là một vật hay hệ thống những vật làm nhiệm vụ
truyền dẫn sự tác động của con người lên đối tượng lao động, nhằm
biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm thoả mãn nhu cầu của
con người.
II. Hai mặt của nền sản xuất xã hội:
1. Lực lượng sản xuất:

Cả ba yếu tố cơ bản của sản xuất là sức lao động, đối tượng lao
động và tư liệu lao động chỉ mới nói lên khả năng diễn ra quá trình
lao động sản xuất. Muốn biến khả năng thành hiện thực, phải kết hợp
được cả ba yếu tố đó lại với nhau theo công nghệ nhất định.


2



Tư liệu lao động và đối tượng lao động hợp thành tư liệu sản
xuất, là yếu tố khách thể của sản xuất, còn lao động là yếu tố chủ thể
của sản xuất. Sản xuất không thể tiến hành được nếu không có tư liệu
sản xuất, nhưng nếu không có lao động của con người thì tư liệu sản
xuất cũng không thể phát huy được tác dụng. Bởi vậy lao động sản
xuất của con người giữ vai trò quyết định và mang tính sáng tạo. Toàn
bộ sức lao động và tư liệu sản xuất được gọi là lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của một xã
hội nhất định ở một thời kỳ nhất định. Lực lượng sản xuất là biểu
hiện mối quan hệ tác động giữa con người và tự nhiên, biểu hiện
trình độ sản xuất của con người, năng lực họat động thực tiễn của
con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chát. Lực lượng sản
xuất là một hệ thống mà cấu trúc của nó bao gồm toàn bộ tư liệu sản
xuất, kỹ năng lao động và thói quen của họ. Ngày nay khoa học đã trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp, trở thành một bộ phận quan trọng
hàng đầu của lực lượng sản xuất. Nhờ hoạt động sáng tạo của con
người mà khoa học - công nghệ phát triển, đồng thời khoa học - công
nghệ lại giúp cho hoạt động sản xuất đạt hiệu quả và năng suất lao
động ngày càng cao.
Các yếu tố trong cấu trúc lực lượng sản xuất có quan hệ chặt chẽ
với nhau, trong đó con người là chủ thể. Lực lượng sản xuất phát triển
từ thấp đến cao, từ thô sơ đến hiện đại. Trong thời đại ngày nay, dưới
tác dụng của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nhất là từ những
năm 70 trở lại đây, người ta nói đến chiến lược phát triển đồng bộ tư
liệu sản xuất tương ứng với người lao động hiện đại trong cấu trúc
của lực lượng sản xuất. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất


3


biểu hiện ở trình độ năng suất lao động xã hội trong từng thời kỳ, đây
là tiêu chí quan trọng nhất và là tiêu chí chung nhất của tiến bộ xã hội.
2. Quan hệ sản xuất:
Nếu như lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa người
với tự nhiên, phản ánh mặt kỹ thuật của sản xuất, thì quan hệ sản xuất
biểu hiện mối quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình
sản xuất, phản ánh mặt xã hội của sản xuất. Trong quá trình sản xuất,
con người không chỉ có quan hệ với tự nhiên , tác động vào giới tự
nhiên, mà còn có quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Hơn nữa, chỉ có
trong quan hệ tác động lẫn nhau thì con người mới có sự tác động vào
tự nhiên. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, biểu hiện
mối quan hệ giữa người với người trên ba mặt chủ yếu sau đây:
- Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất: là quan hệ giữa người với
người trong việc chiếm hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã
hội.
vd: trong xã hội phong kiến địa chủ là người có sự sở hữu lớn
nhất về tư liệu sản xuất (đất đai, phân bón, trâu bò…)
- Quan hệ tổ chức, quản lý: là quan hệ giữa người với người
trong phân phối trao đổi sản phẩm xã hội.
vd: hình thức quản lý trong xã hội tư bản là sự hình thành những
tập đoàn độc quyền lớn mạnh nhằm chi phối thị trường thế giới.
- Quan hệ phân phối, trao đổi: là quan hệ giữa người với người
trong phân phối, trao đổi sản phẩm xã hội.
vd: sự phân phối trong xã hội phong kiến và tư bản là không
công bằng (người làm nhiều hưởng ít và ngược lại) nên đã tạo ra
những mâu thuẫn xã hội gay gắt.


4


Với tư cách là một hệ thống, các mặt nói trên của quan hệ sản
xuất, có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại với nhau, trong đó
quan hệ sở hữu giữa vai trò quyết định, chi phối quan hệ tổ chức,
quản lý và quan hệ phân phối, trao đổi, đồng thời quan hệ tổ chức,
quản lý và quan hệ phân phối, trao đổi cũng tác động trở lại quan hệ
sở hữu. Quan hệ sản xuất trong thực tế không phải là quan hệ pháp lý,
mà là quan hệ giữa các hiện tượng kinh tế được biểu hiện thành các
phạm trù và quy luật kinh tế. Con người không thể tự ý lựa chọn quan
hệ sản xuất nói chung và quan hệ sở hữu nói riêng một cách chủ quan
duy ý chí, mà phải tùy thuộc vào tính chất, trình độ phát triển của lực
lượng của sản xuất xã hội… “Bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan
hệ sở hữu cùng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực
lượng sản xuất mới” [2, trang 467].
3. Quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:
Sự kết hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hình
thành phương thức sản xuất của xã hội. Lịch sử loài người đã trải qua
các phương thức sản xuất: công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ,
phong kiến, tư bản chủ nghĩa và đang quá độ lên phương thức sản
xuất cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hộ. Lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt thống nhất của phương
thức sản xuất có quan hệ mật thiết với nhau và tác động lẫn nhau. Lực
lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, khi trình độ và tính chất
của lực lượng sản xuất biến đổi thì sớm hay muộn, quan hệ sản xuất
cũng biến đổi theo cho phù hợp. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất không
hoàn toàn thụ động, mà có tác động trở lại với lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển khi nó phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Trái lại, nó trở



5

thành xiềng xích trói buộc, kìm hãm lực lượng sản xuất khi nó đã lỗi
thời, không phù hợp với lực lượng sản xuất.
Trong xã hội có giai cấp mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất biểu hiện ở mâu thũan giai cấp đối kháng. Giai cấp
thống trị muốn duy trì quan hệ sản xuất vì lợi ích của nó, còn giai cấp
tiến bộ tiêu biểu cho lực lượng sản xuất mới thì muốn xóa bỏ quan hệ
sản xuất lỗi thời, thiết lập quan hệ sản xuất mới để giải phóng lực
lượng sản xuất. Mâu thuẫn đó tất yếu dẫn đến đấu tranh giai cấp nổ ra
cách mạng xã hội đẻ thay thế quan hệ sản xuất cũ lạc hậu bằng quan
hệ sản xuất mới tiến bộ hơn, dẫn đến sự ra đời của phương thức sản
xuất cao hơn trong lịch sử. Vì vậy, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất cũng thể hiện trong mâu thuẫn xã hội - chính trị.
Ta có thể tóm tắt bằng sơ đồ như sau:

PHƯƠNG THỨC
SẢN XUẤT
LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT
LAO
ĐỘNG
ĐỐI TƯỢNG
LAO ĐỘNG

TƯ LIỆU
SẢN XUẤT

QUAN HỆ
SẢN XUẤT

QUAN HỆ
SỞ HỮU

TƯ LIỆU
LAO ĐỘNG

QUAN HỆ
QUẢN LÝ

QUAN HỆ
PHÂN PHỐI


6

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN
XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT
I. Giai đoạn từ 1975 - 1980:
Lực lượng sản xuất thấp kém, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, đã có rất
nhiều bài tham luận đề cập đến giai đoạn đầy khó khăn này, dưới đây là
một vài trích dẫn tiêu biểu:
Từ 1975-1986: Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao
cấp. Sau khi miền Nam Việt Nam được hoàn toàn giải phóng (năm 1975)
và đất nước thống nhất (năm 1976), bắt đầu ngay việc thực hiện kế
hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980). Kế hoạch này có nhiều điểm duy ý
chí nên phần lớn chỉ tiêu đều không đạt. Sản xuất đình trệ, tăng trưởng
chỉ đạt 0,4 %/ năm (kế hoạch là 13-14 %) trong khi tỷ lệ tăng dân số
hàng năm trên 2,3 %. Tình trạng thiếu lương thực diễn ra gay gắt, năm
1980 phải nhập 1,576 triệu tấn lương thực. Ngân sách thiếu hụt lớn, giá

cả tăng hàng năm 20 %, nhập khẩu nhiều gấp 4-5 lần xuất khẩu. Nhà
nước thiếu vốn đầu tư cho nền kinh tế, nhiều công trình phải bỏ dở, hàng
tiêu dùng thiết yếu thiếu trầm trọng.
Đại hội IV ĐCS VN đã quyết định cải tạo XHCN trong cả nước với
mục tiêu lớn: xây dựng chế độ làm chủ tập thể và sản xuất lớn. Do các
mục tiêu đề ra quá lớn nên trong kế hoạch 5 năm lần thứ III (1981-1985)
nền kinh tế thiếu cân đối và lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Sản xuất
đình trệ thể hiện trên tất cả các lĩnh vực. Nạn lạm phát tăng nhanh, đầu
những năm 80 tăng khoảng 30-50 % hàng năm, cuối năm 1985 lên đến


7

587,2 % và siêu lạm phát đạt đến đỉnh cao vào năm 1986, với 774,7 %.
Đời sống nhân dân hết sức khó khăn.
Tổng

lãnh

sự

quán

Việt

Nam

tại

San


Francisco

(www.vietnamconsulate-ca.org)
Đây cũng là giai đoạn có sự thay đổi lớn về dân số, một ví dụ điển hình
là theo thống kê của Bộ xây dựng (www.moc.gov.vn) thì dân số
TP.HCM lúc đó đã giảm sút ghê gớm (gần 700.000 người) do những
biến cố sau:
- Rất nhiều gia đình bỏ ra nước ngoài trong những ngày trước và
trong tháng 4 -1975
- Việc đưa các gia đình tư sản đi định cư ở các vùng xa Thành phố
Hồ Chí Minh
- Hàng trăm ngàn người hồi hương sau chiến tranh
- Việc đưa một số lượng lớn người đi kinh tế mới ở Bình Dương,
Bình Phước
- Vụ nạn kiều diễn ra vào năm 1979 khiến hơn 30.000 người Hoa
trở về Trung Quốc
- Hàng trăm nghìn người vượt biên vào những năm 1976-1986
Thực tế trước đổi mới, nhất là của hơn 10 năm tiến hành xây dựng
CNXH trên phạm vi cả nước ( 1975 - 1986), chứng tỏ rằng trong nền
kinh tế mang đậm bản sắc nông dân - nông nghiệp, lại bị chiến tranh tàn
phá nặng nề, mô hình phát triển gắn với cơ chế kế hoạch hoá tập trung có
những khiếm khuyết lớn trong việc giải quyết các nhiệm vụ phát triển,
nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Sau nhiều năm vận động trong cơ chế kế
hoạch hoá tập trung, tuy đất nước có đạt được những thành tựu to lớn,


8

song nhiều vấn đề mấu chốt và thiết yếu nhất của cuộc sống nhân dân

(ăn, mặc, ở) vẫn chưa được giải quyết đầy đủ; đất nước chưa có những
thay đổi sâu sắc và triệt để trong phương thức phát triển; tình trạng mất
cân đối trong nền kinh tế ngày càng trầm trọng; nhiệt tình lao động và
năng lực sáng tạo của nhân dân, tài nguyên và các nguồn lực chưa được
khai thác, phát huy đầy đủ, thậm chí bị xói mòn. Nhìn tổng quát, với cơ
chế kế hoạch hoá tập trung, nền kinh tế Việt Nam vận động thiếu năng
động và kém hiệu quả. Những mất cân đối và nguy cơ bất ổn định tiềm
tàng trong đời sống kinh tế - xã hội bị tích nén lại. Tình trạng thiếu hụt
kinh niên làm gia tăng các căng thẳng trong đời sống xã hội. Lòng tin
của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà
nước giảm sút. Trên thực tế, đến cuối những năm 70, đất nước đã thực sự
lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội. Vấn đề cấp bách đặt ra cho
Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam lúc này là tìm kiếm cách thức
phát triển mới có khả năng đáp ứng các mục tiêu của sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội, trong đó quan trọng nhất là phải tháo gỡ các ràng buộc
về cơ chế và thể chế để giải phóng các nguồn lực phát triển của đất nước.
Cần phải nói rằng ngay khi đất nước mới lâm vào khủng hoảng, trong
nền kinh tế Việt Nam, dưới áp lực của thực tiễn, đã diễn ra hai cuộc thử
nghiệm quan trọng: i) áp dụng chế độ khoán sản phẩm đến hộ gia đình
nông dân trong HTX nông nghiệp và ii) triển khai chế độ "kế hoạch 3
phần " ở các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh. Về nguyên tắc, cả hai
cuộc thử nghiệm này đều diễn ra theo một xu hướng chung: nới lỏng các
ràng buộc của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, mở rộng hơn phạm vi hoạt
động của các quan hệ thị trường, trao nhiều quyền chủ động kinh doanh
hơn cho các chủ thể kinh tế và người lao động. Phong trào lan rộng ra
khắp nền kinh tế và đã nhanh chóng đưa lại những thành tựu nổi bật,


9


trước hết là trên mặt trận nông nghiệp. Tuy nhiên, kết quả của xu hướng
cải cách này còn bị hạn chế do việc thực hiện những cải cách theo hướng
thị trường mới mang tính cục bộ và chỉ dừng lại ở cấp vi mô, trong
khuôn khổ cố gắng bảo tồn cơ chế kế hoạch hoá tập trung ở tầm vĩ mô.
Vì vậy, những cuộc thử nghiệm này tuy đưa đến những thành tựu nổi bật
trong nông nghiệp nhưng vẫn không ngăn cản được cuộc khủng hoảng
ngày càng trở nên trầm trọng. Tình hình đó đã khiến cho đổi mới trở
thành một nhu cầu hết sức bức bách, là đỏi hỏi bức thiết của cuộc sống.
Bộ Ngoại giao Việt Nam (www.mofa.gov.vn)
Nhìn chung trong giai đoạn này Quan hệ sản xuất dựa trên chế độ
công hữu thuần nhất không phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất
 Lực lượng sản xuất bị kìm hãm, sản xuất kém phát triển, khủng hoảng
kinh tế xã hội. Đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, tuy có đất đai nhưng
người nông dân lại không muốn lao động hoặc không làm việc hết mình,
đây là sự lãng phí rất lớn về nguồn lực con người.
II. Giai đoạn từ 1986 đến nay:
Từ sau khi Đảng và Nhà nước tiến hành công cuộc đổi mới, Việt
Nam đã có sự thay đổi to lớn, chúng ta đã đa dạng hóa quan hệ sở hữu và
thành phần kinh tế, thực hiện nhiều nguyên tắc và hình thức phân phối,
đặc biệt là việc chuyển đổi từ cơ chế kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp
thành cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. “Trong cơ chế cũ,
bàn tay vô hình được nhận thức chưa đúng, còn bàn tay hữu hình lại thể
hiện chưa hợp lý. Trong cơ chế kinh tế mới, hai bàn tay được kết hợp
một cách nhịp nhàng.” [3, trang 185]


10

Trong một bài viết đăng trên trang web Tạp chí cộng sản
(www.tapchicongsan.org.vn), tác giả Hà Đăng đã có những nhận xét sâu

sắc về cơ chế thị trường theo định hướng XHCN:
Bước I: Thừa nhận cơ chế thị trường nhưng không coi nền kinh tế
của ta là kinh tế thị trường. Nói cơ chế thị trường là chỉ nói về mặt cơ
chế quản lý chứ không phải nói về toàn bộ đặc điểm, tính chất và nội
dung của nền kinh tế. Do đó, trong khi phê phán nghiêm khắc cơ chế
quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp và đề ra chủ trương đổi mới quản lý
kinh tế (một bộ phận của đường lối đổi mới toàn diện), Đại hội VI khẳng
định: “thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch
hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ”. Phát triển thêm một bước, Đại hội VII
(qua Cương lĩnh) đã xác định nền kinh tế của ta là “nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước”.
Bước II: Coi kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ
nghĩa tư bản, không đối lập với chủ nghĩa xã hội. Hội nghị đại biểu toàn
quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1/1994) nhận định: Cơ cấu kinh tế
nhiều thành phầ đang hình thành. Và cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang trở thành cơ chế vận
hành của nền kinh tế. Có nghĩa là nền kinh tế của ta là nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, còn có chế vận
hành của nền kinh tế đó là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Gần cuối nhiệm kỳ Đại hội VII, tại một nghị quyết của Bộ Chính
trị về công tác lý luận đã nhận định: “Thị trường và kinh tế thị trường


11

không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu chung
của văn minh nhân loại”. Theo nhận định này, thị trường, kinh tế thị
trường đã từng tồn tại và phát triển qua những phương thức sản xuất

khác nhau. Nó có trước chủ nghĩa tư bản, trong chủ nghĩa tư bản và cả
sau chủ nghĩa tư bản. Nếu trước chủ nghĩa tư bản nó vận động và phát
triển ở mức khởi phát, manh nha, còn ở trình độ thấp thì trong xã hội tư
bản chủ nghĩa, nó đạt tới đỉnh cao đến mức chi phối toàn bộ cuộc sống
của con người trong xã hội đó, làm cho người ta nghĩa rằng nó chính là
chủ nghĩa tư bản. Như vậy, trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị trường còn tồn tại là tất yếu. Vấn đề ở đây là
liệu kinh tế thị trường có đối lập với chủ nghĩa xã hội không, và liệu việc
xây dựng chủ nghĩa xã hội có đi đến phủ định kinh tế thị trường để rồi
tạo nên một nền kinh tế hoàn toàn khác về chất là kinh tế xã hội chủ
nghĩa, nền kinh tế vận động theo các quy luậtd dặc thù của chủ nghĩa xã
hội hay không? Câu trả lời là không. Quan điểm này cũng chính là quan
điểm của Đại hội VIII (1996) khi Đại hội chủ trương: “Xây dựng nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường đi
đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng, xã hội
chủ nghĩa”.
Bước III: Coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ. Đại hội IX
của Đảng (2001) ghi rõ: Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất
quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng


12

xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để
xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời
sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây

dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và
phân phối.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc. Theo Nghị quyết của Đại hội IX, các thành phần kinh tế kinh
doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần đó bao gồm
cả kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản
tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Bước IV: Gắn kinh tế thị trường của nước ta với nền kinh tế thị
trương toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và đầy đủ
hơn. Đại hội X của Đảng chủ trương: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Bốn nội dung quan trọng
nhất là: nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế nước
ta, nâng cao vai trò và hoàn thiện quản lý của Nhà nước, phát triển đồng
bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ
chế cạnh tranh lành mạnh, phát triển mạnh các thành phần kinh tế và các
loại hình sản xuất, kinh doanh.


13

Đây là một số biều đồ và số liệu thống kê về tình hình kinh tế
nước ta trong những năm gần đây:

Trên đây là biểu đồ cơ cấu về lao động lấy số liệu từ trang web Tổng cục
thống kê (www.gso.gov.vn), từ biểu đồ ta có thể thấy được tuy chỉ trải qua
một khoảng thời gian rất ngắn nhưng cơ cấu trên đã có sự thay đổi đáng kể và
đầy tích cực: tỷ trọng lao động trong nông nghiệp đã giảm xuống và chuyển

sang những ngành khác.

Nguồn: số liệu trích từ [4, trang 68]


14

CHƯƠNG III
CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT Ở NƯỚC TA
I. Về lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất phát triển là điều kiện tiên quyết để xây dựng
quan hệ sản xuất mới. Trong lĩnh vực nông nghiệp, những yếu tố lực
lượng sản xuất có ý nghĩa quan trọng là khoa học – công nghệ, nguồn
lực con người và cơ sở hạ tầng - giao thông.
1. Khoa học – công nghệ:
- Cơ giới hóa: Các hoạt động sản xuất ở nông thôn chủ yếu dựa
vào lao động thủ công, kỹ thuật lạc hậu, do đó năng suất lao động và
chất lượng sản phẩm rất thấp. Cơ giới hóa, trước hết là cơ giới hóa
sản xuất nông nghiệp vừa giảm nhẹ lao động của con người; vừa
nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả. Tuy nhiên, cơ giới hóa phải
đặc biệt chú ý những đặc điểm riêng của sản xuất nông nghiệp, nông
thôn.
Cơ giới hóa nông nghiệp phải tập trung vào những khâu
lao động nặng nhọc (chẳng hạn như làm đất) và những khâu trực
tiếp ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất, kinh
doanh (chế biến).
- Thủy lợi hóa: Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào
tự nhiên. Việt Nam là nước nông nghiệp nhiệt đới, nắng lắm, mưa
nhiều, do đó, hạn hán và úng lụt thường xuyên xảy ra. Để hạn chế

tác động tiêu cực của thiên nhiên, việc xây dựng hệ thống thủy lợi
để chủ động tưới tiêu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
- Điện khí hóa: Điện khí hóa vứa nâng cao khả năng của con
người trong việc chế ngự thiên nhiên, nâng cao năng suất lao động


15

và hiệu quả kinh tế, vừa tạo điều kiện cho cư dân nông thôn tiếp cận
với văn minh nhân loại, phát tiển văn hóa – xã hội ở nông thôn. Do
đó, điện khí hóa là điều kiện hàng đầu để phát triển nông nghiệp,
nông thôn.
- Phát triển công nghệ sinh học: Đây là lĩnh vực khoa học
và công nghệ mới bao gồm nhiều ngành khoa học kỹ thuật mả trước
hết là vi sinh học, di truyền học, hóa sinh học…Công nghệ sinh học
là “mọi kỹ thuật sử dụng những cơ chế hay quá tình sống để tạo ra
hay thay đổi sản phẩm, để tăng chất lượng cây hay con, hay phát
triển những vi sinh vật cho những ứng dụng đạc biệt” [1, trang 39].
Trong những năm gần đây, công nghệ sinh học đã đạt dược những
thành tựu to lớn: những nông phẩm biến đổi gien có năng suất và
chất lượng rất cao; lai tạo được những cây trồng có khả năng kháng
virus, sâu bệnh. Tự tổng hợp Nitơ tự nhiên thành phân đạm, sinh sản
vô tính…Những thành tựu của công nghệ sinh học đã đem lại lợi ích
to lớn, không chỉ tạo ra những sản phẩm mới, làm cho năng suất sản
xuất cao hơn và chất lượng tốt hơn, mà còn tiết kiệm tài nguyên và
bảo vệ môi trường. Phát triển công nghệ sinh học là đòi hỏi tất yếu
của một nền nông nghiệp hiện đại.
Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ vào
nông nghiệp, nông thôn chịu sự tác động mạnh mẽ của các nhân tố
thị trường: giá cả và các yếu tố đầu vào, đầu ra; vốn liếng, thông

tin…Do vậy, rất cần sự hỗ trợ của nhà nước.
2. Nguồn nhân lực:

Trong tất cả các lĩnh vực hoạt động, nhân tố con người luôn
giữ vai trò quyết định. Sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn
cũng không phải là ngoại lệ. Nguồn nhân lực ở nông thôn có đặc


16

điểm là trình độ học vấn rất thấp và phần lớn người lao động không
qua đào tạo. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó: nghèo
đói, kinh tế khép kín, chủ nghĩa kinh nghiệm…Trình độ dân trí thấp
là trở ngại không nhỏ đối với sự phát triển của nông thôn, trước hết
là đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn hiện nay. Bởi vậy, đào tạo nguồn nhân lực cho nông
nghiệp, nông thôn trở thành nội dung quan trọng trong việc phát
triển nông nghiệp, nông thôn.
Do khả năng kinh tế và nhận thức của cư dân nông thôn có
hạn, việc đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn phải
có sự trợ giúp của nhà nước. Nhà nước phải có chính sách giáo dục,
đào tạo riêng cho nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt cho vùng sâu,
vùng xa, biên giới, hải đảo…Chính sáchh giáo dục đào tạo không
chỉ phải tính đến trình độ đầu vào, ưu đãi về tài chính cho khu vực
nông nghiệp, nông thôn… mà còn phải tính tới nhu cầu về số lượng,
chất lượng, cơ cấu lao động được đào tạo trong hiện tại và tương
lai…
3. Xây dựng cơ sở hạ tầng:
Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội ở nông thôn bao gồm: hệ thống
đường sá, hệ thống thông tin, hệ thống thủy lợi, đường dây, trạm

biến thế, trạm giống, trường học, nhà văn hóa… hết sức cần thiết
cho sự phát triển nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, việc xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội trên đây vượt quá xa so với khả năng
của cư dân nông thôn. Đầu tư của nhà nước cho cơ sở hạ tầng kinh
tế-xã hội ở nông thôn là hết sức cần thiết để hỗ trợ nông thôn phát
triển.
II. Về quan hệ sản xuất:
Để xây dựng quan hệ sản xuất mới chúng ta cần tiến hành thay
đổi về nhiều mặt, trong đó việc chú ý xây dựng nền kinh tế nhiều
thành phần cần phải được chú trọng đặc biệt.


17

- Kinh tế hộ nông dân (kinh tế cá thể, tiểu chủ) là hình thức
kinh tế phổ biến ở nông thôn trong các làng nghề, trong các hoạt
động dịch vụ và trong sản xuất nông nghiệp. Trong giai đoạn đầu
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng sản xuất còn thấp
kém, kinh tế hộ nông dân có vai trò to lớn trong việc khai thác các
tiềm năng của đất đai, vốn, sức lao động, kinh nghiệm sản xuất của
dân dư…Do đó, kinh tế hộ gia đình nông dân có tác dụng lớn trong
việc phát triển lực lượng sản xuất và tốn tại lâu dài trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp ở nông thôn.
Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế
hộ, kinh tế trang trại phát triển sản xuất hàng hóa với quy mô ngày
càng lớn.
- Kinh tế nhà nước: Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất
nhiếu vào tự nhiên, do đó, tình hình tổ chức xản xuất trong nông
nghiệp có đặc điểm riêng không giống trong công nghiệp. Nhìn
chung, khi lực lượng sản xuất trong nông nghiệp còn thấp kém, kinh

tế hộ gia đình là hình thức tổ chức sản xuất có nhiều ưu thế hơn so
với các hình thức khác. Bởi vậy, kinh tế nhà nước trong nông
nghiệp dưới hình thức nông trường quốc doanh rất cần được cân
nhắc. Nhưng kinh tế hộ cũng có nhiều nhược đuểm cố hữu, khó có
thể tự khắc phục. Do quy mô nhỏ, kinh tế hộ gặp nhiều khó khăn
trong việc tiêu thụ sản phẩm đầu ra và giải quyết yếu tố đầu vào nhu
giống, thủy lợi, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ…Trong khi
đó các doanh nghiệp nhà nước lại có nhiếu ưu thế trong những lĩnh
vực này. Do đó, kinh tế nhà nước ở nông thôn trong lĩnh vực dịch
vụ với các hình thức: trạm giống, công ty bảo vệ thực vật, công ty
thủy lợi, công ty thương mại… là hết sức cần thiết đối với nông


18

nghiệp, nông thôn. Hơn nữa, đây là những vị trí then chốt trong kinh
tế nông nghiệp, nông thôn, do đó, nếu kinh tế nhà nước nắm giữ
những vị trí này sẽ giữ vai trò chủ đạo, định hướng phát triển nông
nghiệp, nông thôn lên chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, phát triển kinh tế nhà nước ở nông nghiệp, nông
thôn là hết sức cần thiết nhưng cũng cần cân nhắc trong từng câu,
từng lĩnh vực cụ thể.
Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng mà
nòng cốt là hợp tác xã, dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu
tập thể, liên kết rộng rãi những lao động, các hộ sản xuất, kinh
doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các thành phần kinh tế.
Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi
ích của các thành viên và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích
xã hội của các thành viên, góp phần xóa đói giảm nghèo, tiến lên
làm giàu cho các thành viên, phát triển cộng đồng.

Hoạt động của kinh tế tập thể theo nguyên tắc tự chủ, tự
chịu trách nhiệm.
Phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp, nông thôn
phải trên cơ sở đảm bảo quyền tự chủ của kinh tế hộ, trang trại phát
triển, gắn với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
và xây dựng nông thôn mới; không ngừng phát triển sức sản xuất,
nâng cao hiệu quả, năng suất và sức cạnh tranh trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
Phát triển kinh tế tập thể theo phương châm tích cực
nhưng vững chắc, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, đi từ thấp đến cao,
đạt hiệu quả thiết thực, vì sự phát triển của sản xuất.


19

Kinh tế tư nhân là lực lượng quan trọng và năng động
trong cơ chế thị trường, có khả năng về vốn liếng, về tổ chức quản
lý, về kinh nghiệm sản xuất, về khả năng khả năng ứng dụng tiến bộ
khoa học, kỹ thuật, kinh doanh ngành nghề đa dạng, tăng cường chế
biến, tiêu thụ nông sản, làm dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống ở
nông thôn. Nhà nước có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện để kinh tế
tư nhân trong nông nghiệp phát triển.
III. Ý kiến cá nhân:
Nhìn chung những giải pháp trên là toàn diện và có tính khả
thi, tuy nhiên khi phát triển nông nghiệp nông thôn chúng ta cũng
cần chú ý giải quyết vấn đề thị trường tiêu thụ nông sản cho người
nông dân, thực hiện cơ chế lưu thông thật sự thông thoáng trên thị
trường trong nước. Khắc phục tình trạng thả nổi thị trường nông
thôn gây thiệt hại đến lợi ích nông dân. Tạo cho được một số hàng
nông sản xuất khẩu chủ lực có sức cạnh tranh trên thị trường khu

vực và thế giới. Xây dựng các quỹ bảo hiểm sản xuất dưới nhiều
hình thức để đảm bảo lợi ích thường xuyên của nông dân. Kinh tế
hợp tác xã và kinh tế nhà nước là nền tảng của kinh tế nông thôn.



×