Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho sinh viên trường cao đẳng nghề kỹ thuật công nghiệp việt hàn quốc, tỉnh nghệ an hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (658.35 KB, 111 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
________________________

NGÔ THỊ HIÊN

GIÁO DỤC Ý THỨC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ
KỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM - HÀN QUỐC,
TỈNH NGHỆ AN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

NGHỆ AN, 2015


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
________________________

NGÔ THỊ HIÊN

GIÁO DỤC Ý THỨC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ
KỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM - HÀN QUỐC,
TỈNH NGHỆ AN HIỆN NAY


Chuyên ngành:
Lý luận và Phương pháp dạy học bộ môn Giáo dục Chính trị
Mã số: 60140111

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thái Sơn

NGHỆ AN, 2015


3
LỜI CẢM ƠN
Với sự hướng dẫn của Hội đồng Khoa học Khoa Giáo dục Chính trị,
Trường Đại học Vinh, tôi đã chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng giáo dục ý thức
chấp hành pháp luật cho sinh viên Trường Cao đẳng nghề KTCN Việt Nam –
Hàn Quốc, tỉnh Nghệ An hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp Cao học.
Tôi chân thành cảm ơn Khoa sau Đại học Trường Đại học Vinh, Khoa
Giáo dục Chính trị; các giảng viên đã giảng dạy và giúp đỡ tôi trong quá trình
học tập cũng như hoàn thành luận văn. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc
tới PGS.TS. Nguyễn Thái Sơn, người đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn
thành đề tài luận văn.
Tôi chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, Hội đồng giáo dục Trường Cao
đẳng nghề KTCN Việt Nam – Hàn Quốc đã giúp đỡ tôi thực hiện việc khảo sát
và cung cấp số liệu để tôi thực hiện luận văn.
Tôi xin được cảm ơn gia đình, bạn bè và các đồng nghiệp đã động viên,
khích lệ và tạo điều kiện giúp đỡ để tôi hoàn thành luận văn.
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài luận văn, bản thân tôi đã
rất tâm huyết và cố gắng, tuy nhiên cũng không tránh khỏi những hạn chế, thiếu
sót. Tôi kính mong sẽ nhận được sự góp ý, chỉ dẫn từ Hội đồng Khoa học để
việc thực hiện đề tài được hoàn thiện hơn.
Vinh, tháng 10 năm 2015

Tác giả

Ngô Thị Hiên


4
MỤC LỤC


5
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.


ĐH
GV
HS
KTCN
Nxb
SV
UBND
XHCN


:
:
:
:
:
:
:
:
:

Cao đẳng
Đại học
Giáo viên
Học sinh
Kỹ thuật công nghiệp
Nhà xuất bản
Sinh viên
Ủy ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa


6
DANH MỤC CÁC BẢNG


1

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Trong xu thế phát triển của thời đại ngày nay, chúng ta nhận thấy rằng
mỗi nước đều không ngừng tăng cường các mối quan hệ với các quốc gia, dân
tộc khác với mục đích phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Bên cạnh
đó, hệ thống pháp luật cũng không ngừng được hoàn thiện tương thích với
những quan hệ xã hội mới của thời đại.
Pháp luật là một hiện tượng của đời sống xã hội giữ vị trí, vai trò vô
cùng cần thiết và quan trọng. Pháp luật là cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng
cường quyền lực nhà nước; là công cụ hữu hiệu nhất để nhà nước quản lý và
điều hành xã hội, pháp luật là cơ sở pháp lý cho mối quan hệ với các quốc
gia, dân tộc; là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mỗi
người dân Việt Nam. Hệ thống pháp luật chỉ hoàn thiện về mặt thể thức văn
bản hay nội dung pháp lý thôi thì chưa đủ, mà cần thiết hơn nữa đó là cần
phải có sự hiểu biết pháp luật, thái độ tôn trọng và thực thi pháp luật của mỗi
người dân.
Hiện nay, do sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau từ nền kinh tế thị
trường, từ những hiện tượng xã hội dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật có
chiều hướng gia tăng, đặc biệt ở lứa tuổi thanh thiếu niên, trong đó có sinh
viên. Có những giá trị đạo đức bị suy thoái nghiêm trọng, ý thức kỷ luật của
sinh viên có chiều hướng ngày càng kém. Ngược lại, những hành vi thái hóa
biến chất, những thói học đòi ăn chơi, lãng phí có chiều hướng tăng, ý thức
học tập bị xa rời. Sinh viên lười suy nghĩ, ngại học hành. Nghiêm trọng hơn
nữa xuất hiện một số bộ phận sinh viên bất chấp luật pháp sẵn sàng vi phạm
pháp luật. Vậy, trước thực trạng đó làm thế nào để khôi phục lại những giá trị
đạo đức tốt đẹp cũng như rèn ý thức kỷ luật tốt cho sinh viên? Để giải quyết


2

vấn đề này đòi hỏi phải có sự chung tay góp sức từ nhiều yếu tố và yếu tố
giáo dục là yếu tố căn bản nhất. Giáo dục là phương thức tác động vào nhận

thức nhằm định hướng cho con người tiến tới những giá trị chuẩn mực của
đạo đức xã hội hướng con người tới cái chân, thiện, mỹ. Để rèn luyện đạo đức
cũng như ý thức kỷ luật thì không thể thiếu đi vai trò của giáo dục pháp luật,
vì vậy giáo dục pháp luật nói chung và giáo dục ý thức chấp hành pháp luật
nói riêng trong trường học là một hoạt động vô cùng quan trọng và có ý nghĩa
thiết thực.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn đặt ra yêu cầu hoàn
thiện thể chế pháp lý, cải cách hệ thống tư pháp, tăng cường pháp luật xã hội
chủ nghĩa, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Để
nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật, Đảng và nhà
nước đặt ra yêu cầu tăng cường công tác giáo dục pháp luật trong nhân dân,
trong đó phải tăng cường giáo dục pháp luật trong các trường dạy nghề thông
qua các chương trình môn học, giáo trình, tài liệu giảng dạy pháp luật, đảm
bảo đúng tinh thần và nội dung Hiến pháp, pháp luật hiện hành.
Hiện nay, sinh viên Trường Cao đẳng nghề kỹ thuật công nghiệp Việt
Nam - Hàn Quốc cũng đang trên đà phát triển chung của cả nước, là sinh viên
của một trường dạy nghề trọng điểm của tỉnh Nghệ An nói riêng và khu vực
miền trung nói chung. Trong quá trình phát triển đó, phần lớn sinh viên có
thái độ ý thức đạo đức cũng như động cơ học tập nghiêm túc đúng đắn, biết
định hướng tương lai. Bên cạnh đó, vẫn còn một số sinh viên có ý thức đạo
đức, kỷ luật và ý thức học tập chưa tốt. Vì vậy, giáo dục pháp luật trong
Trường Cao đẳng nghề kỹ thuật công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc hiện nay
là nội dung quan trọng giúp sinh viên hiểu biết cơ bản đầy đủ về nội dung hệ
thống pháp luật Việt Nam nhằm nâng cao nhận thức pháp luật và bồi dưỡng
phẩm chất đạo đức, rèn luyện ý thức kỷ luật. Điều này đòi hỏi chúng ta không


3

chỉ thấy được thực trạng của giáo dục ý thức chấp hành pháp luật mà còn thấy

được những tồn tại về phẩm chất đạo đức lối sống, ý thức kỷ luật của sinh
viên để từ đó xác định được giải pháp giáo dục pháp luật hiệu quả hơn trong
thời gian tới cho sinh viên Trường Cao đẳng nghề kỹ thuật công nghiệp Việt
Nam - Hàn Quốc.
Xuất phát từ những vấn đề trên tác giả đã chọn: “Giáo dục ý thức chấp
hành pháp luật cho sinh viên Trường Cao đẳng nghề kỹ thuật công nghiệp
Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh Nghệ An hiện nay” làm đề tài nghiên cứu.
Khi nghiên cứu vấn đề giáo dục pháp luật đã có nhiều tác giả với nhiều
bài viết với nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng có thể chia thành một số
nhóm vấn đề sau đây:
- Nhóm thứ nhất, ở cấp độ chỉ đạo Trung ương của Đảng và Nhà nước
có một số văn bản như: Chỉ thị số 32/CT-TW ngày 09 tháng 12 năm 2003 của
Ban Bí Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về tăng cường công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ,
nhân dân; Quyết định số 212/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê
duyệt chương trình hành động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng
cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ
năm 2005 đến năm 2010; Quyết định số 2160/2010/QĐ-TTg ngày 26 tháng
11 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án tăng cường công
tác phổ biến giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho thanh
thiếu niên giai đoạn 2011 - 2015; Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật số
14/2012/QH13 của Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua ngày 20 tháng 06 năm 2012.
Các văn bản nêu trên đã đề cập các vấn đề về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật; chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật; quan điểm và giải pháp nâng


4


cao chất lượng công tác phổ biến giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật trong nhà trường. Coi đó là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm tạo tiền đề cho việc tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật.
- Nhóm thứ hai, ở cấp độ chỉ đạo ngành giáo dục có các văn bản như:
Quyết định số 1928/QĐ-TTg ngày ngày 20 tháng 11 năm 2009 của Thủ tướng
Chính phủ về phê duyệt Đề án “Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật trong nhà trường”; Thông tư liên tịch số 30/TTLT - BGDĐT BTP ngày 16 tháng 11 năm 2010 Hướng dẫn việc phối hợp thực hiện công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường; Kế hoạch số 366/KH BGDĐT ngày 28 tháng 06 năm 2010 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về thực
hiện Đề án “Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong
nhà trường”; “Kế hoạch số 143/KH - BGDĐT ngày 29 tháng 03 năm 2011
của Bộ Giáo dục và Đào tạo về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm
2011 của ngành Giáo dục; Quyết định số 366/QĐ - BGDĐT ngày 27 tháng 1
năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành “Chương
trình phổ biến, giáo dục pháp luật ngoại khóa cho học sinh, sinh viên trong
các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp giai đoạn 2013 1016”.
Các văn bản trên đây đã đề cập đến tầm quan trọng, nội dung, kế hoạch
cũng như các giải pháp nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật trong ngành giáo dục nói chung và trong nhà trường nói riêng.
- Nhóm thứ ba, nhóm vấn đề chung về pháp luật luận giải về nguồn
gốc, nội dung của pháp luật được đăng tải ở các giáo trình, tạp chí khác nhau
như: Giáo trình môn học pháp luật; Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp
luật; Giáo trình Pháp luật đại cương; Tạp chí Pháp luật; Tạp chí nghiên cứu lý
luận; Tạp chí Nhà nước và Pháp luậtv.v..


5

- Nhóm thứ tư, gồm các công trình nghiên cứu có hệ thống, tìm hiểu,
nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển pháp luật; vấn đề câng cao chất
lượng giáo dục pháp luật nói chung và giáo dục ý thức pháp luật nói riêng,

điển hình như: Một số hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật (Bộ Tư pháp Vụ phổ biến, giáo dục pháp luật - Nxb Công an Nhân dân); Nguyễn Đặng
Đình Lục (2008), Giáo dục pháp luật trong nhà trường, Nxb Giáo dục, Thành
phố Hồ Chí Minh. Tác phẩm đã tập trung làm rõ những tác động của pháp
luật đối với quá trình hình thành nhân cách, tình hình và giải pháp thực hiện
giáo dục pháp luật cho học sinh; Nguyên Nhung (2010), Nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật cho thanh niên, thiếu niên, Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, 6/2010. Qua bài báo tác giả đã làm rõ tình hình vi phạm pháp luật của
thanh thiếu niên và phân tích nguyên nhân của tình trạng trên; Nguyễn Vi
Tường Thụy (2012), Nâng cao chất lượng phổ biến, giáo dục pháp luật cho
đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục trên địa bàn quận 10, thành phố Hồ Chí
Minh, Luận văn Thạc sĩ khoa học giáo dục; Nguyễn Hòa Thuận (2012), Giáo
dục ý thức chấp hành pháp luật lao động cho học sinh trường trung cấp nghề
Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ khoa
học giáo dục; Nguyễn Thị Việt Hà (2013), Nâng cao chất lượng giáo dục
pháp luật của Hội Liên hiệp phụ nữ Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay, Luận
văn Thạc sĩ khoa học giáo dục. Các tác giả đã làm rõ thực trạng giáo dục pháp
luật tại các cơ sở nghiên cứu và qua đó đã đưa ra các giải pháp để khắc phục
những hạn chế còn tồn tại trong Luận văn của mình.
Như vậy, tính đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về
giáo dục pháp luật ở những góc độ tiếp cận khác nhau nhưng chưa có công
trình nào trực tiếp nghiên cứu về giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho
sinh viên Trường Cao đẳng nghề kỹ thuật công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc,
tỉnh Nghệ An. Vì vậy, tác giả chọn vấn đề này làm công trình nghiên cứu của


6

mình, góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Pháp luật và giáo dục ý
thức chấp hành pháp luật cho sinh viên.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho sinh
viên Trường Cao đẳng nghề kỹ thuật công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc, từng
bước đáp ứng yêu cầu cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc giáo dục ý thức chấp
hành pháp luật của sinh viên các trường Cao đẳng nghề.
- Phân tích, đánh giá thực trạng của công tác giáo dục ý thức chấp hành
pháp luật của sinh viên Trường Cao đẳng nghề kỹ thuật công nghiệp Việt
Nam - Hàn Quốc, tỉnh Nghệ An.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho sinh viên Trường Cao đẳng nghề kỹ
thuật công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh Nghệ An.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc giáo dục ý thức
chấp hành pháp luật cho sinh viên Trường Cao đẳng nghề kỹ thuật công
nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh Nghệ An.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng của việc
giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho sinh viên Trường Cao đẳng nghề kỹ
thuật công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh Nghệ An.


7

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về đào

tạo nghề và phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử cùng với các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ
thể như: phân tích, tổng hợp, thống kê, điều tra, thu thập thông tin để làm
sáng tỏ mục tiêu nghiên cứu đề ra.
5. Giả thuyết khoa học
Đề tài được nghiên cứu với giả thuyết khoa học cho rằng nếu đề xuất
được quan điểm và hệ thống các giải pháp có hiệu quả, có tính khả thi thì sẽ
nâng cao được chất lượng giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho sinh viên
Trường Cao đẳng nghề kỹ thuật công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh
Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
6. Đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
việc xây dựng chương trình, tổ chức các hoạt động giáo dục pháp luật cho
sinh viên ở cấp trường.
Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên và những người
nghiên cứu những vấn đề khoa học có liên quan đến đề tài. Qua đó đề tài sẽ
có những đóng góp nhất định trong việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật
cho sinh viên ở các Trường Cao đẳng nghề nói chung và Trường Cao đẳng
nghề kỹ thuật công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh Nghệ An nói riêng.


8

7. Kết cấu của đề tài
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo. Đề tài được kết
cấu thành 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận của việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật
cho sinh viên các Trường Cao đẳng nghề.

Chương 2. Thực trạng giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho sinh
viên Trường Cao đẳng nghề kỹ thuật công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh
Nghệ An.
Chương 3. Phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho sinh viên Trường Cao đẳng
nghề kỹ thuật công nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc, tỉnh Nghệ An trong giai
đoạn hiện nay.


9

B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC
CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN
CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Pháp luật
Khoa học pháp lý (luật học) được xem là một trong những khoa học cổ
xưa nhất, có lịch sử lâu đời, được thể hiện trong các tư tưởng, học thuyết
chính trị - pháp lý của nhân loại. Luật học là sản phẩm của quá trình phát triển
kinh tế, xã hội. Bất kỳ một xã hội nào cũng đều cần đến trật tự, ổn định để tồn
tại và phát triển. Trật tự này được thiết lập nhờ vào hệ thống các quy tắc xã
hội có tính bắt buộc chung, đó là pháp luật.
Pháp luật là một hiện tượng xã hội khách quan, đặc biệt quan trọng
nhưng cũng vô cùng phức tạp, do đó từ xưa đến nay đã có không ít những
cách quan niệm, nhận thức khác nhau về pháp luật. Cicero (106 - 43 tr.CN),
một triết gia và luật gia thời La Mã cổ đại đã khẳng định, pháp luật là sự phân
biệt giữa những thứ công bằng và bất công. Jonh Locke (1632 - 1704), thì
quan niệm pháp luật là đường phân ranh giới tự do giữa người và người,

đường ranh giới mà nếu vượt qua nó, thì tự do của người này sẽ xâm phạm tới
tự do của người khác và hệ quả là con người sẽ không còn tự do. Và theo
Jonh Loke, mục đích tối hậu của pháp lật là để tạo lập, bảo vệ và mở rộng tự
do cá nhân của con người. Ở phương Đông, tiêu biểu là trong tư tưởng Trung
Quốc cổ đại, “Pháp” là một phạm trù triết học được hiểu theo hai nghĩa: theo
nghĩa rộng, “Pháp” là thể chế quốc gia, là chế độ chính trị xã hội của đất


10

nước; theo nghĩa hẹp, “Pháp” là những điều luật, luật lệ mang tính nguyên tắc
và khuôn mẫu.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, pháp luật là một hình thái
ý thức xã hội, nó phản ánh tồn tại xã hội. Pháp luật ra đời gắn liền với sự tồn
tại của nhà nước. Là một trong những công cụ cốt yếu để duy trì trật tự, ổn
định xã hội; đồng thời là tiêu chí để đánh giá sự văn minh và tiến bộ của nhân
loại. Xã hội phải lấy pháp luật làm cơ sở, là sự biểu hiện của lợi ích và nhu
cầu chung của xã hội.
Trên tinh thần kế thừa chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định pháp luật xã hội chủ nghĩa phải thể hiện ý chí của giai cấp công
nhân nhằm bảo vệ Tổ quốc, thực hiện quyền lợi của nhân dân lao động, phải
thực sự dân chủ nhằm chống quan liêu, mệnh lệnh và sự tùy tiện của cá nhân
và nhân dân lao động. Pháp luật phải bảo vệ quyền con người, để xây dựng
con người mới xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, có thể thấy sự nhận thức khác nhau trong quan niệm của các
nhà tư tưởng về pháp luật. Tuy nhiên, phổ quát nhất, pháp luật được định
nghĩa như sau:
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do nhà
nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị trên
cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của toàn xã hội được đảm bảo thực hiện

bằng nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn
định xã hội vì sự phát triển bền vững của xã hội.
Đây là định nghĩa thể hiện được những thuộc tính đặc trưng nhất của
pháp luật và mục đích điều chỉnh của pháp luật. Trong lý luận pháp luật hiện
đại người ta còn đề xuất những cách định nghĩa, cách tiếp cận khác nhau về
pháp luật theo hướng mở rộng và phù hợp với tư duy pháp lý quốc tế hơn.
Mỗi cách tiếp cận pháp luật đều có tính hợp lý nhất định, nhưng dù có được


11

tiếp cận dưới góc độ nào, thì pháp luật vẫn là phương tiện để xác định, thiết
lập trật tự xã hội có hiệu lực bắt buộc và được kiểm soát, đảm bảo, bảo vệ bởi
quyền lực nhà nước.
Pháp luật là một hiện tượng xã hội có vị trí đặc biệt quan trọng trong xã
hội có giai cấp. Học thuyết Mác khẳng định pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và
phát triển trong xã hội có giai cấp, có nhà nước. Pháp luật không phải là sản
phẩm thuần túy do con người tạo ra bằng ý chí chủ quan mà pháp luật còn là
sản phẩm tất yếu khách quan vốn có của quá trình hình thành và phát triển xã
hội loài người tức là pháp luật mang trong mình tính lịch sử - tự nhiên.
Pháp luật là một lĩnh vực của đời sống xã hội, thuộc phạm trù kiến trúc
thượng tầng, giữ vị trí vai trò hết sức quan trọng. Pháp luật được sinh ra từ cơ
sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định tức là do yếu tố kinh tế - xã hội sinh ra
và quyết định nhưng pháp luật có vai trò rất quan trọng đối với cơ sở hạ tầng.
Nếu pháp luật phản ánh đúng đắn các quy luật vận động và phát triển của xã
hội thì nó sẽ tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Ngược lại,
pháp luật sẽ kìm hãm, cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, muốn phát
triển kinh tế - xã hội đòi hỏi nhà nước cần phải có một hệ thống pháp luật
hoàn bị về hình thức và nội dung bắt kịp với tiến trình phát triển của xã hội.
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và bảo

đảm thực hiện, pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội,
pháp luật được xây dựng nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật với
nhà nước, nhà nước với pháp luật là hai nhân tố khác nhau nhưng không thể
tách rời nhau, làm tiền đề cơ sở cho nhau tồn tại và phát triển hay nói cách
khác là giữa nhà nước và pháp luật, vừa có tính độc lập vừa có tính phụ thuộc
vào nhau. Mối quan hệ này được thể hiện trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước và trong xây dựng và thực thi pháp luật. Sự tác động của pháp
luật đối với nhà nước và ngược lại nhà nước đối với pháp luật có thể là tích


12

cực hoặc tiêu cực ở mức độ này hay mức độ khác. Chẳng hạn sự vi phạm
pháp luật của các cán bộ nhà nước có chức quyền sẽ có ảnh hưởng tiêu cực
đến đời sống pháp luật của xã hội như giảm niềm tin vào pháp luật, công lý,
tạo điều kiện cho những ý nghĩ và hành vi vi phạm pháp luật.
Nhà nước không thể quản lý xã hội nếu thiếu pháp luật và ngược lại,
pháp luật phải được nhà nước đảm bảo thực hiện. Trong thực tiễn, việc chăm
lo xây dựng, hoàn thiện bộ máy nhà nước phải thực hiện song song, đồng bộ
với việc hoàn thiện pháp luật, tổ chức thực thi pháp luật. Trong quản lý xã
hội, nhà nước sử dụng nhiều hình thức, biện pháp khác nhau song pháp luật
được sử dụng với vai trò là công cụ sắc bén nhất. Thông qua pháp luật, các
chính sách của nhà nước được triển khai một cách thống nhất, đồng bộ trên
phạm vi cả nước. Theo đó, pháp luật luôn có tính quy phạm phổ biến, tính
khách quan, tính hệ thống, tính ổn định và đặc thù nhất là pháp luật có tính
cưỡng chế được bảo đảm bằng sức mạnh của nhà nước.
1.1.2. Ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là một hình thái của ý thức xã hội thuộc thượng tầng
kiến trúc xã hội chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Đồng thời, ý thức pháp
luật cũng chịu chi phối của các yếu tố khác như ý thức kinh tế, ý thức chính

trị, ý thức đạo đức.
Qua niệm về ý thức pháp luật có những quan điểm khác nhau, khi nó
được tiếp cận dưới góc độ của các ngành khoa học khác nhau, như triết học,
luật học hay xã hội học pháp luật.
Dưới góc độ triết học, ý thức pháp luật được tiếp cận với tư cách một
trong những hình thái ý thức xã hội. Ý thức pháp luật là một bộ phận của ý
thức xã hội ra đời từ thực tiễn đời sống xã hội và phản ánh tồn tại xã hội. Ý
thức pháp luật xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước, phản ánh trực tiếp
các quan hệ kinh tế - xã hội mà trước hết, là những quan hệ sản xuất được thể


13

hiện trong các luật lệ nhà nước. Ý thức pháp luật xuất hiện cùng với sự xuất
hiện của pháp luật. Nó là sản phẩm của quá trình phát triển xã hội, chịu ảnh
hưởng sâu sắc bởi các hệ tư tưởng, quan điểm, quan niệm trong xã hội. “Ý
thức pháp quyền là toàn bộ các tư tưởng, quan điểm của một giai cấp về bản
chất và vai trò của pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của nhà nước, các tổ chức
xã hội và công dân, về tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi con
người trong xã hội” [26, tr. 588].
Dưới góc độ tiếp cận của triết học, ý thức pháp luật là toàn bộ những
học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm của một giai cấp về bản chất và
vai trò của pháp luật; mang lại cái nhìn sâu sắc và khái quát về bản chất và vai
trò của ý thức pháp luật trong ý thức xã hội nói chung.
Dưới góc độ tiếp cận luật học, nhiều quan niệm về ý thức pháp luật đã
được các nhà luật học đưa ra. Chẳng hạn, “Ý thức pháp luật – đó là trình độ
hiểu biết của các tầng lớp nhân dân về pháp luật…, là thái độ đối với pháp
luật, ý thức tôn trọng hay coi thường pháp luật, đó là thái độ đối với hành vi
vi phạm pháp luật và phạm tội” [43, tr. 609].
Bên cạnh đó, ý thức pháp luật còn được xem xét đánh giá trên nhiều

phạm vi khác nhau, đó có thể là ý thức của từng cá nhân, có thể là ý thức của
nhóm, bộ phận dân cư trong xã hội, có thể là ý thức của toàn xã hội, thậm chí
nó còn được xem xét, đánh giá trên khu vực địa lý vượt khỏi phạm vi quốc
gia. Vì vậy, ý thức pháp luật luôn được tiếp cận trên cả bình diện ý thức xã
hội và ý thức cá nhân.
Trên bình diện ý thức cá nhân, ý thức pháp luật thể hiện sự hiểu biết
pháp luật cũng như ý chí, xúc cảm, tình cảm, tâm trạng, thái độ của họ đối với
pháp luật và các hiện tượng pháp lý khác.
Trên bình diện xã hội, ý thức pháp luật được hiểu là tổng thể quan
niệm, quan điểm, tư tưởng, thái độ, sự đánh giá của xã hội đó về pháp luật.


14

Tuy có thể tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau, song xét một cách khái
quát, phổ biến nhất, ý thức pháp luật có thể định nghĩa như sau:
Ý thức pháp luật là tổng thể những tư tưởng, học thuyết, quan điểm,
thái độ, tình cảm, sự đánh giá của con người về pháp luật trên các khía cạnh
khác nhau của pháp luật như vai trò, chức năng của pháp luật, được thể hiện
trong quá khứ, hiện tại và tương lai về những hành vi của con người và hoạt
động của các cơ quan, tổ chức trong xã hội trong việc thực hiện pháp luật.
Ý thức pháp luật là một trong những bộ phận cấu thành của đời sống
pháp luật. Bất kỳ một văn bản quy phạm pháp luật nào cũng đều thể hiện
quan điểm, tư tưởng, tâm lý của con người về pháp luật.
Ý thức pháp luật được hình thành từ những quan niệm của con người
về sự cần thiết của các quy tắc xử sự mà nhà nước cần đảm bảo thực hiện về
tính hợp pháp hay không hợp pháp của các thiết chế, chế định pháp lý. Nếu
như pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật, thì ý thức pháp luật là
những quan niệm về pháp luật, là tâm lý, tình cảm của con người về pháp luật
và các vấn đề pháp lý nói chung.

Ý thức pháp luật được biểu hiện rất phong phú, đa dạng, thường xuyên
biến đổi do sự tác động của cơ sở hạ tầng nhưng đồng thời cũng rất lạc hậu
trong một số trường hợp cụ thể nhất định.
Ý thức pháp luật là một dạng của ý thức xã hội do đó, ý thức pháp luật
có mối quan hệ chặt chẽ với các hiện tượng xã hội khác như kinh tế, chính trị,
văn hóa - xã hội, đặc biệt là mối quan hệ với nhà nước và pháp luật.
Ý thức pháp luật được nảy sinh từ sự tồn tại xã hội, chịu sự quy định
của tồn tại xã hội. Sự nhận thức, tình cảm, thái độ, quan niệm, mong muốn
của con người về pháp luật, về nhà nước, xét cho cùng là do những điều kiện
xã hội khách quan quy định, chi phối. Các Mác khẳng định “Không phải ý


15

thức của con người quyết định sự tồn tại xã hội của họ, trái lại, chính sự tồn
tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ” [29, tr.15].
Ý thức pháp luật ở hình thái kinh tế xã hội nào chịu sự quy định của
hình thái kinh tế xã hội đó. Ví dụ như ý thức pháp luật của người dân trong xã
hội phong kiến chịu sự quy định, chi phối của tính chất, đặc điểm và những
điều kiện của nền kinh tế phong kiến. Đồng thời chịu sự chi phối của các yếu
tố khác như tư tưởng, đạo đức, tập quán, chính trị nên người dân thường có
thái độ lạnh nhạt, coi thường, chống đối pháp luật, ứng xử chủ yếu theo tập
quán, phong tục địa phương.
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
con người được tự do kinh doanh trên cơ sở hợp pháp, làm giàu chính đáng
được xã hội thừa nhận, tôn vinh và khuyến khích đã tác động mạnh đến ý
thức pháp luật của mỗi cá nhân. Con người tôn trọng pháp luật, chấp hành
pháp luật và luôn mong muốn có một nền pháp chế công bằng, nghiêm minh.
Mặt khác cũng do sự tác động trái chiều của nền kinh tế thị trường, một bộ
phận dân cư có thái độ coi thường, bất chấp pháp luật, lách luật, vi phạm pháp

luật vì mục tiêu lợi nhuận kinh tế. Những biểu hiện tiêu cực, những quan
niệm lệch lạc về pháp luật cũng là một trong nhiều tác nhân của hiện tượng
hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự diễn ra trong thực tiễn.
Ý thức pháp luật là một dạng phản ánh tồn tại xã hội, ý thức pháp luật
chịu sự quy định của tồn tại xã hội nhưng bên cạnh đó ý thức pháp có tính độc
lập tương đối so với tồn tại xã hội. Ý thức pháp luật tác động mạnh mẽ đến
tồn tại xã hội trên nhiều phương diện theo xu hướng tích cực hoặc hạn chế,
phụ thuộc vào trạng thái, tính chất đặc điểm của ý thức pháp luật. Quan điểm,
tư tưởng, thái độ đúng đắn phù hợp với tiến bộ xã hội, sự tôn trọng và ý thức
chấp hành pháp luật có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa,
đạo đức của xã hội. Ngược lại, những tư tưởng, quan điểm lý luận sai lệch,


16

thái độ coi thường pháp luật, hành vi phạm pháp luật có tác động tiêu cực,
hạn chế đến sự phát triển xã hội, đến môi trường văn hóa pháp lý và văn hóa
đạo đức. Ý thức pháp luật còn tác động mạnh mẽ đến các hình thái ý thức xã
hội khác như đạo đức, khoa học, chính trị. Ý thức pháp luật góp phần rèn
luyện nâng cao ý thức đạo đức và thực hành đạo đức của các cá nhân nhất là
trong nền kinh tế thị trường, hội nhập như hiện nay. Do đó, cần kết hợp công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức mới có thể xây dựng ý
thức pháp luật đúng đắn, góp phần giữ gìn và nâng cao đạo đức trong các
quan hệ xã hội ngày càng phức tạp, đa dạng như hiện nay.
Ý thức pháp luật cùng với pháp luật và các hiện tượng pháp lý khác cấu
thành kiến trúc thượng tầng pháp lý xã hội. Là hai hiện tượng pháp lý khác
nhau nhưng có quan hệ biện chứng với nhau. Ý thức pháp luật có vai trò là
tiền đề, cơ sở trực tiếp để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; ý thức
pháp luật có vai trò là cơ sở đảm bảo cho việc áp dụng đúng đắn các quy định
của pháp luật. Trên cơ sở có ý thức pháp luật, con người có thái độ chấp hành

pháp luật.
1.1.3. Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật
Ý thức chấp hành pháp luật là dạng ý thức xã hội của con người, là sản
phẩm của quá trình lao động, sáng tạo và hình thành ngôn ngữ. Ý thức chấp
hành pháp luật là nhân tố đóng vai trò quyết định trong đời sống pháp lý. Sự
tồn tại và phát triển của pháp luật do nhiều yếu tố quy định trong đó phải kể
đến sự hiểu biết, tôn trọng và thực thi chấp hành pháp luật của mỗi người
trong xã hội. Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật trở thành hoạt động có ý
nghĩa thiết thực đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Trên tinh thần đó, Đảng đã nêu rõ quan điểm: “Tăng cường giáo
dục ý thức pháp luật, nâng cao hiểu biết và ý thức tôn trọng pháp luật, sống và


17

làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thi hành
một cách nghiêm minh, thống nhất và công bằng” [15, tr. 57].
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học “chấp hành” là làm
theo điều tổ chức định ra [42, tr.131]; “ý thức” là khả năng con người phản
ánh và tái hiện vào trong tư duy; sự hiểu biết trực tiếp những việc bản thân
mình làm [42, tr. 1075]. Ý thức chấp hành pháp luật là sự nhận thức của con
người về trách nhiệm phải làm theo những quy phạm pháp luật.
Ý thức pháp luật là một dạng của ý thức pháp luật thông thường bao
gồm những quan niệm, nhận thức, tri thức, tình cảm, thái độ của con người
đối với việc thực thi pháp luật. Ý thức pháp luật được hình thành trên cơ sở
của sự am hiểu biết pháp luật của chủ thể pháp luật. Thông qua ý thức pháp
luật, con người có tri thức kinh nghiệm phong phú, gần gũi với cuộc sống
sinh động của ý thức pháp luật thông thường, có vai trò rất quan trọng là tiền
đề cho sự hình thành các ý tưởng khoa học, các lý thuyết khoa học về pháp
luật. Ý thức pháp luật là cơ sở cho sự hình thành thái độ tôn trọng pháp luật

và ý thức chấp hành pháp luật.
Ý thức chấp hành pháp luật biểu hiện ra bên ngoài thông qua những
quan điểm, tư tưởng, học thuyết và hành vi của con người thể hiện thái độ tôn
trọng, thực thi và bảo vệ pháp luật. Người có ý thức chấp hành pháp luật là
người nghiêm túc thực hiện những quy định của pháp luật. Đồng thời biết phê
phán, tố giác những hành vi vi phạm pháp luật để bảo vệ tính nghiêm minh
của pháp luật.
Theo đó, ý thức chấp hành pháp luật là tổng thể những quan điểm, tư
tưởng thể hiện sự nhận thức của con người về trách nhiệm phải làm theo
những quy định của pháp luật hiện hành.
Như vậy, ý thức chấp hành pháp luật và ý thức pháp luật có những sự
khác biệt cơ bản như sau:


18

Thứ nhất, thông qua những quan điểm, tư tưởng, học thuyết ý thức
pháp luật thể hiện sự xem xét tính đúng đắn hay không đúng đắn của pháp
luật. Ý thức chấp hành pháp luật thể hiện sự chấp hành pháp luật một cách thụ
động, không xem xét tính đúng đắn của pháp luật, chấp hành pháp luật không
điều kiện.
Thứ hai, ý thức pháp luật xem xét tính quá khứ và tương lai của luật.
Nghĩa là, chủ thể có sự xem xét, so sánh, đánh giá những quy định của luật
trong quá khứ, hiện tại và có những dự đoán trong tương lai. Đối với ý thức
chấp hành pháp luật thì chủ thể chỉ quan tâm tìm hiểu, thực hiện những quy
định của luật hiện tại.
Ý thức pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Trên cơ sở có ý thức pháp luật, chủ thể khi tham gia vào các
quan hệ xã hội sẽ tự giác chấp hành pháp luật. Do đó, có thể nói rằng ý thức
pháp luật góp phần thúc đẩy đời sống kinh tế phát triển, bởi lẽ ý thức pháp

luật là tiền đề trực tiếp để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhà
nước. Hệ thống pháp luật nhà nước nếu phản ánh đúng quy luật phát triển
kinh tế, phản ánh đúng nhu cầu và xu hướng phát triển của một chế độ kinh tế
- xã hội trong giai đoạn lịch sử nhất định thì mới có tác dụng thúc đẩy và tạo
điều kiện cho các quan hệ kinh tế - xã hội phát triển. Theo đó, nhà nước với
tư cách là người trực tiếp sáng tạo pháp luật trước hết phải nhận thức được
những đòi hỏi khách quan của đời sống kinh tế - xã hội thực tiễn, những yêu
cầu đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội để phản ánh kịp thời vào
hệ thống pháp luật, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật tới người dân
làm hình thành ý thức pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật về kinh tế - xã
hội cho người dân.
Trên phương diện kinh tế, pháp luật là công cụ quản lý kinh tế của đất
nước thông qua việc thể chế hóa các chính sách, kế hoạch phát triển thành hệ


19

thống các quy phạm phap luật, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động kinh
tế đạt hiệu quả, nên việc nâng cao ý thức chấp hành pháp luật sẽ góp phần vào
việc hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành nhằm điều chỉnh phù hợp các
quan hệ kinh tế.
Trên phương diện chính trị, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền, pháp luật có vị trí tối thượng; ý thức pháp luật cũng giữ vị trí quan
trọng, là bộ phận ý thức xã hội chủ đạo trong hệ thống ý thức xã hội. Ý thức
pháp luật giúp con người có khả năng nhận thức, đánh giá về đời sống pháp
luật với các vấn đề, như thực trạng của đời sống pháp luật hiện hành, tình
trạng pháp chế, hoạt động thực hiện pháp luật của các tổ chức xã hội, thái độ
và hành vi của các tầng lớp nhân dân với pháp luật. Từ sự nhận thức pháp luật
đầy đủ, chính xác sẽ định hướng cho con người thực thi pháp luật, chấp hành
pháp luật.

Trong đời sống văn hóa – tư tưởng, ý thức pháp luật luôn có ảnh hưởng
mạnh mẽ tới các hình thái ý thức xã hội khác. Những quan điểm, tư tưởng
pháp luật khoa học, tiến bộ góp phần củng cố, phát huy những nhân tố tích
cực ở các hình thái ý thức xã hội khác; đồng thời khắc phục những quan niệm
không phù hợp, ảnh hưởng xấu đến lợi ích của các giai cấp, đến đời sống
cộng đồng và tiến bộ xã hội.
Ý thức pháp luật quyết định hiệu quả của việc thực hiện pháp luật, đưa
pháp luật vào cuộc sống. Ý thức pháp luật cao là cơ sở cho những ứng xử có
văn hóa của con người khi con người có ý thức tôn trọng nhau thông qua việc
nghiêm chỉnh chấp hành, tuân thủ pháp luật.
Ý thức pháp luật được xem là điều kiện quan trọng, tiền đề tư tưởng
trực tiếp cho việc xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đồng
thời là điều kiện, tiền đề của ý thức chấp hành pháp luật của mỗi người.


×