Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho thanh niên huyện diễn châu, tỉnh nghệ an trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (494.88 KB, 107 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÊ THỊ THANH THỦY

GIÁO DỤC Ý THỨC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT CHO THANH NIÊN HUYỆN DIỄN
CHÂU, TỈNH NGHỆ AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: LL & PP dạy học bộ môn giáo dục chính trị
Mã số: 60.14.01.11

LUẬN VĂN THAC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Lương Bằng

NGHỆ AN - 2015


2

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài này, ngoài sự nỗ lực
của bản thân, tôi còn nhận được sự hỗ trợ rất lớn từ gia đình, các cơ quan, đơn
vị và cá nhân.
Với tình cảm chân thành nhất, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới Quý thầy
cô khoa Giáo dục Chính trị - Trường Đại học Vinh, khoa Sau đại học của
Trường Đại học Vinh đã truyền đạt những tri thức quý báu, dìu dắt và giúp đỡ
tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ của khóa học.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Nguyễn Lương Bằng đã
tận tình định hướng, quan tâm, góp ý để tôi thực hiện tốt đề tài luận văn tốt


nghiệp này. Xin cảm ơn các cơ quan, đoàn thể đã tạo điều kiện giúp đỡ để tôi
có được những thông tin, số liệu xác đáng. Xin cám ơn gia đình, người thân,
bạn bè đã luôn động viên, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn
thành chương trình học tập của mình.
Vinh, ngày 10 tháng 10 năm 2015
Tác giả

Lê Thị Thanh Thủy


3
MỤC LỤC

BẢNG KÝ HIỆU CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNXH
GDYTCHPL
ĐVTN
YTPL
THPT
CNH – HĐH
PB,GDPL
GD – ĐT
UBND
ATGT

:
:
:
:
:

:
:
:
:
:

Chủ nghĩa xã hội
Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật
Đoàn viên thanh niên
Ý thức pháp luật
Trung học phổ thông
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
Phổ biến, giáo dục pháp luật
Giáo dục – đào tạo
Ủy ban nhân dân
An toàn giao thông


4
DANH MỤC BẢNG BIỂU


5
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong xã hội, thanh niên có một vị trí và vai trò hết sức quan trọng, là thế
hệ kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng, góp phần xây dựng và phát triển đất
nước. Sự phát triển của thanh niên không những quan hệ đến vận mệnh và tồn
tại của quốc gia, mà còn ảnh hưởng đến tương lai của dân tộc. Vì vậy, việc
đào tạo thanh niên phát triển toàn diện có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm

mỹ, nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc là vấn đề có ý
nghĩa lớn. Trong đó, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật, trang bị kiến thức
pháp luật cho thanh niên là nhiệm vụ không thể thiếu.
Công tác giáo dục pháp luật đã và đang ngày càng khẳng định vai trò là
một bộ phận không thể tách rời của quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện
pháp luật. Song song với việc xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống
pháp luật, một trong những vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt là phải đẩy
mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao hiểu biết và ý
thức tuân thủ pháp luật cho mọi người dân, đặc biệt là đối tượng thanh niên.
Đây là yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết, mang tính khách quan và hoàn toàn phù hợp
với mục tiêu giáo dục toàn diện mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra. Hiện nay, sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam đang đi vào chiều sâu và có những bước chuyển
biến căn bản, không ngừng đem lại những khởi sắc trên mọi mặt của đời
sống. Xu thế hội nhập quốc tế và nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay
bên cạnh những mặt tích cực vẫn còn nhiều mặt trái gây ảnh hưởng tiêu cực
đến mọi quan hệ xã hội. Trong đó, đáng lo ngại nhất là tình trạng vi phạm
pháp luật ngày càng gia tăng của lứa tuổi thanh, thiếu niên. Trước thực trạng
đó, yêu cầu bức thiết đối với chúng ta là phải tăng cường công tác giáo dục ý
thức chấp hành pháp luật cho thanh niên. Nhằm giúp thế hệ trẻ hôm nay có
bản lĩnh chính trị vững vàng trước mọi thử thách trong quá trình thực hiện


6
CNH - HĐH đất nước, góp phần thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho thanh niên là vấn đề luôn được
Đảng và Nhà Nước ta quan tâm, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay. Nó đã và
đang đặt ra những yêu cầu hết sức cấp thiết về cả lý luận và thực tiễn, đòi hỏi
cần được nghiên cứu sâu sát, để đưa ra các giải pháp tích cực nhằm nâng cao

ý thức chấp hành pháp luật cho thanh niên, đồng thời góp phần vào việc xây
dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả pháp chế XHCN và
quản lý xã hội. Trước những yêu cầu đó, đã có nhiều nhà nghiên cứu đến vấn
đề này. Thành quả nghiên cứu đó được thể hiện ở nhiều công trình khác nhau,
dưới các hình thức như đề tài khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, sách,
các bài viết trên các báo, tạp chí...
- Nhóm sách, tài liệu liên quan:
Tác giả Đào Ngọc Tuấn (2007) với cuốn“Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh với việc giáo dục ý thức pháp luật cho thanh niên, sinh viên”; Tác
giả Phan Thông (2007) với cuốn “Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật
và các giải pháp của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh”; Trung ương
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (2010) biên soạn “Phổ biến, giáo dục pháp luật
cho thanh niên - thực trạng và giải pháp”. Tác giả Nguyễn Đình Đặng Lục
với tác phẩm: “Vai trò của pháp luật trong quá trình hình thành nhân cách” ;
Tác giả Đặng Cảnh Khanh (2007) với cuốn “Giáo dục pháp luật cho thanh
niên - vấn đề quan trọng của sự ổn định xã hội”...
Nhìn chung, các cuốn sách trên đã nêu được tầm quan trọng của việc
giáo dục pháp luật đối với thanh niên, thực trạng chấp hành pháp luật của giới
trẻ và những nội dung cơ bản về giáo dục pháp luật. Từ đó, các tác giả đề xuất
một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng công tác giáo dục ý thức
chấp hành pháp luật cho thanh niên.
- Nhóm luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ:


7
+ Đào Duy Tấn (2000), “Những đặc điểm của quá trình hình thành ý
thức pháp luật ở Việt Nam hiện nay”, luận án tiến sỹ.
+ Nguyễn Thị Thúy Vân (2001), “Lôgic khách quan của quá trình hình
thành và phát triển ý thức pháp luật ở Việt Nam”, luận án tiến sỹ.
+ Ngô Thị Thanh Nga (2003) “Nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật

cho đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở ở huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà tĩnh trong
giai đoạn hiện nay”, luận văn thạc sỹ khoa học giáo dục.
+ Bùi Văn Hưng (2010), “Nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục ý
thức pháp luật cho người lao động và người sử dụng lao động trong các
doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An”, luận văn thạc sỹ
khoa học giáo dục.
+ Lê Thị Thu Hạnh (2011), “Giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh
thông qua dạy học phần “Công dân với pháp luật” chương trình GDCD lớp
12 ở các trường THPT dân lập trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An”,
luận văn thạc sỹ khoa học giáo dục.
+ Nguyễn Thị Thu Ba (2012), “Nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo
dục pháp luật cho công nhân tại các doanh nghiệp ở tỉnh Đồng Nai giai đoạn
hiện nay”, luận văn thạc sỹ khoa học giáo dục.
Qua nghiên cứu những đề tài đề tài trên, các tác giả đã đi sâu phân tích
vai trò của pháp luật và ý thức pháp luật đối với đời sống xã hội, những ưu
điểm và hạn chế của công tác giáo dục pháp luật ở các địa phương, đơn vị.
Đồng thời, đề ra các giải pháp nhằm tăng cường công tác giáo dục pháp luật
cho nhiều đối tượng khác nhau, trong đó có thanh niên. Tuy nhiên, các giải
pháp đề ra vẫn chưa mang tính toàn diện, còn bó hẹp trong phạm vi thực hiện.
- Nhóm các bài viết trên báo và tạp chí có liên quan:
+ Tác giả Nguyên Nhung (2010) có bài “Nâng cao ý thức pháp luật cho
thanh, thiếu niên” đăng trên Tạp chí Người đại biểu nhân dân, số ra tháng 6/2010.


8
+ Tác giả Phạm Hồng Dương với bài viết “Tăng cường giáo dục pháp
luật và đạo đức trong nhà trường” đăng trên trang mạng của ngành
www.Bentre.edu.vn, số ra thứ 6 ngày 27/12/2010.
+ Tác giả Lê Thị Thúy Mong với bài viết “ Nhà trường và công tác pháp
luật đăng trên báo Tin tức, số ra ngày 15/11/2013.

Các bài viết này đã nêu lên được thực trạng đáng báo động về xu hướng
gia tăng và trẻ hóa các hành vi vi phạm pháp luật của thanh, thiếu niên hiện
nay. Trong bài viết của mình, các tác giả chú trọng đến các giải pháp phát huy
vài trò của gia đình, các tổ chức, cơ quan, đoàn thể và sự phối hợp có hiệu quả
của các lực lượng này trong công tác xã hội hóa thanh niên.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu khoa học của các tác giả đã có
những đóng góp quan trọng về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, các nghiên
cứu này chưa đi sâu đánh giá cụ thể thực trạng công tác này cho từng đối
tượng thanh niên cụ thể, các giải pháp đưa ra còn mang tính chung chung.
Cũng như nhiều địa phương khác, tình hình giáo dục ý thức chấp hành pháp
luật cho thanh niên ở huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An trong những năm gần
đây đã có những bước phát triển đáng kể. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân
mà công tác này chưa đạt hiệu quả cao, chưa đáp ứng được yêu cầu giáo dục
của huyện và cả xã hội. Việc triển khai công tác giáo dục pháp luật cho thanh
niên còn gặp nhiều khó khăn. Việc thực hiện công tác này ở nhiều địa phương
còn mang tính phong trào, chưa đi sâu vào nội dung. Chưa đa dạng và sử
dụng hiệu quả các hình thức giáo dục. Nhiều điều kiện khác như nguồn nhân
lực, kinh phí và cơ sở vật chất chưa còn hạn chế. Tình trạng vi phạm pháp luật
của thanh, thiếu niên ngày càng diễn biết phức tạp, gia tăng về số lượng và
tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Yêu cầu tăng cường công
tác giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho thanh niên trở thành mối quan
tâm lớn trong công tác thanh niên ở nơi đây. Xuất phát từ lý do trên, chúng tôi
lựa chọn vấn đề “Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho thanh niên


9
huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài Luận
văn thạc sỹ chuyên ngành Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn Giáo dục
chính trị. Qua đề tài này, tác giả mong muốn tìm ra những giải pháp thiết
thực nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho thanh niên Diễn Châu

nói riêng và thanh niên cả nước nói chung trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng vấn đề giáo dục ý
thức chấp hành pháp luật cho thanh niên ở huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An,
mục đích của luận văn là nhằm đưa ra các phương hướng và giải pháp giáo
dục ý thức chấp hành pháp luật cho thanh niên ở địa phương này trong giai
đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên thì luận văn phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ các vấn đề lý luận của việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật
cho thanh niên.
- Đánh giá đúng thực trạng của việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật
cho thanh niên ở huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
- Xây dựng một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng công tác giáo dục này trên địa bàn huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về những vấn đề lý luận và thực tiễn của
việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho thanh niên ở huyện Diễn Châu,
tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, chúng tôi chỉ giới hạn ở việc
tìm hiểu, điều tra và khảo sát thực trạng giáo dục ý thức chấp hành pháp luật
cho thanh niên trên địa bàn huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.


10
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu

khác như: Phương pháp phân tích - tổng hợp; lịch sử - logic; quy nạp - diễn
dịch; thống kê, so sánh...
6. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng và thực hiện đồng bộ các mục tiêu, giải pháp khả thi của
luận văn về giáo dục ý thức chấp hành pháp luật thì sẽ góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục pháp luật, làm giảm thiểu các tai nạn, tệ nạn xã hội xảy ra
đối với thanh, thiếu niên huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.


11

B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC CHẤP HÀNH
PHÁP LUẬT CHO THANH NIÊN
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Khái niệm pháp luật và ý thức pháp luật
- Khái niệm pháp luật
Cùng với quá trình vận động tất yếu của xã hội loài người, lực lượng sản
xuất cũng phát triển, sự phân công lao động xã hội và chế độ tư hữu xuất hiện,
xã hội phân chia thành các giai cấp và có đối kháng giai cấp. Trong điều kiện
lịch sử mới, các tập quán, quy tắc thể hiện ý chí chung của toàn thể thị tộc
không còn phù hợp, xã hội đòi hỏi phải có những quy tắc mới để điều chỉnh,
đảm bảo những xung đột diễn ra trong một “trật tự” nhất định. Đáp ứng nhu
cầu đó, pháp luật đã ra đời. Một mặt, giai cấp thống trị tìm cách giữ lại những
tập quán có lợi, vận dụng và biến đổi sao cho nội dung của chúng phù hợp với
ý chí, nguyện vọng của giai cấp mình và nâng lên thành các quy phạm pháp
luật. Mặt khác, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, của sự phân
công lao động và người lao động ngày càng tăng, trong xã hội xuất hiện nhiều
quan hệ mới phát sinh, đòi hỏi nhà nước phải có những quy phạm pháp luật

mới để điều chỉnh. Vì thế, hoạt động xây dựng pháp luật của các cơ quan nhà
nước được tiến hành.
Pháp luật phát sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp, có Nhà
nước. Bản chất của pháp luật thể hiện ở tính giai cấp của Nhà nước. Tính giai
cấp của pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị. Ý chí đó được thể chế
hóa và bảo đảm thực hiện bởi quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, pháp luật cũng
mang tính xã hội, bởi vì ở mức độ nhất định, nó phải thể hiện và bảo đảm những


12
yêu cầu chung của xã hội về văn hóa, phúc lợi, môi trường sống… Pháp luật ra
đời từ thực tiễn xã hội, phù hợp lợi ích của đa số và được các thành viên trong
xã hội thực hiện. Pháp luật là công cụ nhận thức xã hội, điều chỉnh các quan
hệ xã hội và được thực hiện bằng các biện pháp mang tính cưỡng chế của
Nhà nước. Khi nghiên cứu về pháp luật tư sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đi
đến kết luận: “Pháp luật tư sản chẳng qua chỉ là ý chí của giai cấp tư sản được
đưa lên thành luật, cái ý chí và nội dung của nó là do điều kiện sinh hoạt vật
chất của giai cấp tư sản quyết định” [26, tr.262]. Như vậy, pháp luật thể hiện
ý chí của giai cấp thống trị được đưa lên thành luật lệ chung để bảo vệ lợi ích
của giai cấp đó.
Xét về mặt triết học, pháp luật là bộ phận quan trọng của kiến trúc
thượng tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định, nhưng có tác động trở lại cơ sở hạ
tầng. Nếu pháp luật phản ánh đúng các quy luật vận động và phát triển của xã
hội thì pháp luật sẽ có tác động tích cực đến nền kinh tế - xã hội. Còn ngược
lại thì pháp luật sẽ kìm hãm sự phát triển đó. Trong xã hội, pháp luật trở thành
hình thức tập trung ý chí, mục đích chính trị của giai cấp cầm quyền, đồng
thời trở thành công cụ sắc bén thể hiện quyền lực của Nhà nước đối với mọi
người dân. Như vậy, pháp luật là các quy phạm có tính bắt buộc chung và
được thực hiện lâu dài nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội do nhà nước ban
hành hoặc được thừa nhận, thể hiện ý chí Nhà nước và được Nhà nước, được

đảm bảo thực hiện bằng bộ máy thông qua các biện pháp tổ chức, giáo dục,
thuyết phục và cưỡng chế. Nhà nước và pháp luật đều là sản phẩm của cuộc
đấu tranh giai cấp.
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Pháp luật là những quy phạm hành vi do Nhà
nước ban hành, buộc mọi công dân phải tuân theo, nhằm điều chỉnh các mối
quan hệ xã hội và bảo vệ trật tự xã hội” [47, tr.1029]. Theo Giáo trình lý luận
Nhà nước và pháp luật: “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước


13
ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã
hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội” [15, tr.66].
Ở Việt Nam, pháp luật XHCN là hệ thống các quy phạm do Nhà Nước
Việt Nam ban hành, đại diện cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động thể
hiện ý chí và nguyện vọng của toàn dân tộc, có tính chất bắt buộc chung nhằm
điều chỉnh các quan hệ xã hội trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
Cũng như mọi Nhà nước khác, bản chất, đặc điểm pháp luật của Nhà nước ta
phù hợp với bản chất, đặc điểm của Nhà nước, do bản chất, đặc điểm và
những nhiệm vụ của Nhà nước ta trong từng thời kỳ cách mạng quyết định.
Hiến pháp 1992 (sửa đổi) xác định Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Nhà
nước đó đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đại bỉểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Vì lẽ đó, pháp luật của Nhà nước ta về bản chất là pháp luật xã
hội chủ nghĩa, nó thể hiện ý chí của giai cấp công nhân, đồng thời phản ánh,
thể hiện ý chí, lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động khác và của cả dân
tộc. Có sự thống nhất đó là do trong xã hội ta hiện nay có sự thống nhất về cơ

bản, lâu dài giữa lợi ích của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí
thức với lợi ích của cả dân tộc. Đó là mục đích bảo đảm không ngừng phát
huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.


14
- Khái niệm ý thức pháp luật
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan. Nó là hình thức cao của sự phản ánh thực tại khách quan vào
trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo. Theo C.Mác: Ý thức
“Chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào đầu óc con người và được
cải biến trong đó” [27, tr.35]. Tác động của ý thức đối với con người là vô
cùng to lớn. Nó không những là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn mà còn
là động lực của thực tiễn, cải tạo thực tiễn. Ý thức pháp luật là tổng thể những
học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm hình thành trong xã hội, thể hiện
mối quan hệ của con người đối với pháp luật hiện hành. Ý thức pháp luật của
mỗi người có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện pháp luật và bảo vệ
pháp luật.
Ý thức pháp luật được cấu thành từ hai bộ phận: Tư tưởng pháp luật và
tâm lý pháp luật. Tư tưởng pháp luật là tổng thể những tư tưởng, quan điểm,
phạm trù, khái niệm, học thuyết về pháp luật. Tâm lý pháp luật được thể hiện
qua thái độ, tình cảm, tâm trạng, xúc cảm đối với pháp luật và các hiện tượng
pháp lý khác được hình thành một cách tự phát thông qua giao tiếp với các
văn bản pháp luật, hiện tượng pháp luật.Có thể hiểu ý thức pháp luật là tổng
thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm hình thành trong xã
hội, thể hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật hiện hành. Ý thức
pháp luật của mỗi người có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện pháp
luật và bảo vệ pháp luật.

Ý thức pháp luật và pháp luật là hai hiện tượng khác nhau nhưng có mối
quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Những nguyên lý và cơ sơ để xây
dựng và thực hiện pháp luật đồng thời cũng là những cơ sở và nguyên lý để
hình thành và phát triển ý thức pháp luật. Mối quan hệ giữa ý thức pháp luật
với pháp luật được biểu hiện ở những điểm sau:


15
Thứ nhất, ý thức pháp luật là tiền đề tư tưởng trực tiếp để xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật. Pháp luật là sự biểu hiện của ý thức pháp luật,
bất cứ một hệ thống pháp luật nào cũng được xây dựng thể hiện ý chí và lợi
ích của giai cấp thống trị. Những thay đổi khách quan trong đời sống xã hội
trước hết được phản ánh trong ý thức pháp luật, rồi sau đó mới thể hiện thành
các quy phạm pháp luật. Ý thức pháp luật cũng như toàn bộ hệ tư tưởng của
giai cấp thống trị là tiền đề tư tưởng trực tiếp để xây dựng một hệ thống pháp
luật phù hợp với những điều kiện xã hội, củng cố nền pháp chế, phát huy hiệu
lực Nhà nước và pháp luật trong việc quản lý các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Không có ý thức pháp luật phù hợp với bản chất và những điều kiện cụ
thể trong từng giai đoạn phát triển của xã hội thì cũng không thể xây dựng
được hệ thống pháp luật đồng bộ và hiệu quả.
Thứ hai, pháp luật là cơ sở để củng cố, phát triển và nâng cao ý thức
pháp luật. Trong mối liên hệ và tác động qua lại lẫn nhau, ý thức pháp luật
thúc đẩy sự hình thành và hoàn thiện của pháp luật, củng cố pháp chế. Mặt
khác, pháp luật là cơ sở để nhận thức, phổ biến, giáo dục, nâng cao ý thức
pháp luật của nhân dân, tình cảm và thái độ tôn trọng của họ đối với các quy
phạm pháp luật. Việc giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức chấp hành
pháp luật sẽ là điều kiện quan trọng để góp phần xây dựng một hệ thống pháp
luật hoàn chỉnh và tổ chức thực hiện pháp luật có hiệu quả.
Như vậy, để nâng cao YTCHPL thì việc quan trọng đầu tiên là phải tiến
hành giáo dục ý thức chấp hành pháp luật bởi vì giáo dục ý thức chấp hành

pháp luật là con đường trực tiếp, con đường ngắn nhất và gần như hiệu quả
nhất để trang bị tri thức pháp luật một cách đầy đủ và hệ thống. Đây là một
nhân tố chủ quan và đóng vai trò chủ đạo trong quá trình hình thành ý thức
pháp luật. Chất lượng giáo dục pháp luật càng cao, tính hiệu quả càng lớn thì
ý thức chấp hành pháp luật của cá nhân và xã hội càng phát triển và một khi ý


16
thức pháp luật được nâng lên, sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát huy tính hiệu
quả của công tác giáo dục pháp luật.
1.1.2. Khái niệm tuyên truyền pháp luật, thực hiện pháp luật và giáo
dục ý thức chấp hành pháp luật
- Tuyên truyền pháp luật
Tuyên truyền pháp luật là việc công bố, giới thiệu rộng rãi nội dung của
pháp luật để mọi người biết. Qua đó, động viên, thuyết phục, để mọi người tin
tưởng và thực hiện đúng pháp luật. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, tuyên
truyền, giáo dục pháp luật là một “công đoạn” trong toàn bộ quy trình xây
dựng - thông qua, ban hành - thực hiện, giám sát - sửa đổi, điều chỉnh pháp
luật. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Công bố đạo luật này chưa phải đã là mọi việc đều
xong, mà còn phải tuyên truyền, giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt”
[25, tr.267].
- Thực hiện pháp luật
Pháp luật được ban hành để hướng dẫn hành vi, điều chỉnh cách xử sự
của mỗi cá nhân, tổ chức theo các quy tắc phù hợp với yêu cầu của Nhà nước.
Điều đó có nghĩa là, pháp luật chỉ thực sự đi vào đời sống nếu mỗi cá nhân, tổ
chức khi tham gia vào các quan hệ xã hội cụ thể, trong các điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể đều lựa chọn cách xử sự phù hợp với quy định của pháp luật. Như
vậy, “Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích, nhằm hiện thực hóa các
quy định của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành những
hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật” [15, tr.468]

- Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật
Pháp luật là một vấn đề phức tạp, vừa có mối quan hệ chặt chẽ với các
vấn đề xã hội khác, lại vừa có tính độc lập. Vì vậy giáo dục pháp luật có sự
khác biệt so với các dạng giáo dục khác.
Giáo dục được hiểu một cách chung nhất đó là hoạt động có ý thức, có
mục đích, có kế hoạch của chủ thể giáo dục tác động lên khách thể giáo dục,


17
nhằm đạt được các mục tiêu nhất định. Giáo dục pháp luật có mục đích riêng
của nó. Đó là việc nhằm trang bị kiến thức, tri thức về pháp luật cho công dân
thông qua các phương pháp, hình thức khác nhau tác động lên đối tượng một
cách có hệ thống nhằm hình thành tri thức pháp luật, ý thức, tình cảm và niềm
tin pháp luật, từ đó tạo ra hành vi pháp luật đúng đắn, phù hợp với quy định
của pháp luật. So với các dạng giáo dục khác thì giáo dục pháp luật là quá
trình tác động thường xuyên, liên tục, lâu dài đến đối tượng chứ không phải
một, hai lần. Phương pháp giáo dục pháp luật thường gắn liền với thực tiễn
như tuyên truyền, phổ biến, nêu gương…chứ không đơn thuần chỉ là lý
thuyết. Nội dung của việc giáo dục pháp luật đó là sự tác động có định hướng
để chuyển tải nội dung pháp luật (nội dung, nguyên tắc, giá trị và quy phạm
pháp luật) đến đối tượng được giáo dục. Xét về vai trò và vị trí của giáo dục
pháp luật thì giáo dục pháp luật có vai trò chi phối rất lớn đế các dạng giáo
dục chính trị xã hội khác, thậm chí trong nhiều trường hợp sẽ là yếu tố hỗ trợ
mạnh mẽ cho các dạng giáo dục khác như giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo
dục thẩm mỹ, giáo dục đạo đức, tâm lý… Như vậy, “Giáo dục pháp luật là sự
tác động một cách có hệ thống, có mục đích và thường xuyên tới nhận thức
của con người nhận thức của con người nhằm trang bị cho mỗi người một
trình độ kiến thức pháp lý nhất định để từ đó có ý thức đúng đắn về pháp luật,
tôn trọng và tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật”. [15, tr.431]. Pháp luật
cũng như đạo đức, tư tưởng, chính trị, khoa học, nghệ thuật… Mặc dù, có

chịu ảnh hưởng của nhiều lĩnh vực nhưng bản thân pháp luật cũng có đời sống
riêng, hình thức, phương thức vận hành và vai trò nhất định trong xã hội. Vì
vậy, công tác giáo dục pháp luật không thể xem nhẹ hơn so với việc giáo dục
các loại hình thức ý thức xã hội khác.
Pháp luật là công cụ, phương tiện để nhà nước quản lý và điều chỉnh các
quan hệ xã hội nhằm ổn định mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị. Để pháp luật
phát huy được vai trò và hiệu lực của nó, Nhà nước sẽ phải đưa ra một hệ


18
thống các bộ luật và luật phản ánh đầy đủ mọi lĩnh vực của cuộc sống, bảo vệ
quyền lợi, sự công bằng cho mọi người, đồng thời bắt buộc mọi công dân phải
tuân theo. Ý thức chấp hành pháp luật bao gồm quan điểm, tư tưởng, niềm tin,
thái độ tôn trọng pháp luật và không khoan dung đối với hiện tượng vi phạm
pháp luật, thói quen xử sự phù hợp với quy định của pháp luật. Ý thức chấp
hành pháp luật là cơ sở, tiền đề trực tiếp cho việc thực hiện pháp luật. Ý thức
chấp hành pháp luật càng được nâng cao thì tinh thần tôn trọng, thái độ tự
giác tuân theo yêu cầu của pháp luật càng được đảm bảo. Ý thức chấp hành
pháp luật của con người được hình thành bởi sự thống nhất giữa điều kiện chủ
quan và khách quan. Nó vừa là sản phẩm của điều kiện khách quan lẫn sự tác
động định hướng của nhân tố chủ quan. Trong đó, điều kiện khách quan là
nhân tố ảnh hưởng mang tính chất tự phát như tác động từ môi trường, tác
động của truyền thống, phong tục tập quán, lệ làng, tác động từ nền kinh tế thị
trường còn nhân tố chủ quan lại ý thức của một cá nhân, mà hoạt động giáo
dục định hướng, có tổ chức của các cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức
xã hội là yếu tố hàng đầu.
Từ sự phân tích ở trên, chúng ta có thể rút ra khái niệm giáo dục ý thức
chấp hành pháp luật như sau: Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật là hoạt
động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục, tác động
lên đối tượng giáo dục nhằm mục đích hình thành ở họ sự hiểu biết, thái độ và

sự đánh giá về pháp luật, về quyền lợi và nghĩa vụ của con người trong xã hội,
về hành vi hợp pháp hay không hợp pháp của cá nhân, các cơ quan Nhà nước,
các tổ chức trong xã hội. Qua đó, hình thành ở đối tượng giáo dục thói quen
xử sự đúng với những quy định của pháp luật.
1.2. Nội dung, phương pháp và hình thức giáo dục ý thức chấp hành
pháp luật cho thanh niên hiện nay
1.2.1. Nội dung giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho thanh niên


19
Nội dung giáo dục ý thức chấp hành pháp luật là yếu tố quan trọng của
quá trình giáo dục ý thức chấp hành pháp luật. Việc xác định đúng nội dung là
điều kiện cần thiết đảm bảo công tác giáo dục này đi đúng hướng, phù hợp
với từng loại đối tượng nhất định, thuận lợi cho việc lựa chọn phương pháp và
hình thức giáo dục. Nội dung của giáo dục ý thức chấp hành pháp luật được
xác định căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ và đồng thời xuất phát từ nhu cầu,
đặc điểm của đối tượng giáo dục. Điều 10 - Luật phổ biến, GDPL được Quốc
hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày
20 tháng 6 năm 2012 đã xác định rõ nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật
như sau:
1. Quy định của Hiến pháp và văn bản quy phạm pháp luật, trọng tâm là

các quy định của pháp luật về dân sự, hình sự, hành chính, hôn nhân và gia
đình, bình đẳng giới, đất đai, xây dựng, bảo vệ môi trường, lao động, giáo
dục, y tế, quốc phòng, an ninh, giao thông, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân…
2. Các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành

viên, các thỏa thuận quốc tế.
3. Ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; ý thức bảo vệ pháp luật; lợi


ích của việc chấp hành pháp luật; gương người tốt, việc tốt trong thực hiện
pháp luật” [36].
Như vậy, có nhiều nội dung để giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho
thanh niên. Thực tiễn đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu và áp dụng hợp lý với
các hình thức, phương tiện, phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm từng đối tượng
được giáo dục. Thanh niên bao gồm nhiều thành phần dân tộc, ở nhiều ngành
nghề, địa bàn cư trú, môi trường học tập và lao động khác nhau. Tuy nhiên,
họ đều chịu sự tác động của luật pháp luật trong quá trình sinh sống và làm
việc. Thanh niên cần phải được trang bị các kiến thức pháp luật cần thiết, đặc
biệt là liên quan gần gũi đến cuộc sống sinh hoạt và công việc của mình; gắn


20
với giáo dục đạo đức, lối sống, nhân cách… Đối với thanh niên cần giáo dục,
phổ biến pháp luật theo các nội dung chủ yếu sau:
- Pháp luật về quyền dân chủ của công dân: Luật dân sự, tố tụng dân sự;
Luật khiếu nại, tố cáo, Luật nghĩa vụ quân sự, Luật Bầu cử đại biểu hội đồng
nhân dân, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật Đảm bảo quyền tự do
thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân
dân…
-

Pháp luật về an ninh, trật tự: Luật Hình sự, tố tụng hình sự, Luật giao

thông, Luật biên giới quốc gia, Luật Phòng, chống ma túy, Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính, Luật An ninh quốc gia, Luật Bảo vệ và phát triển rừng,
Luật nghĩa vụ quân sự…
- Pháp luật về văn hoá - xã hội: Luật Giáo dục, Luật Bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Luật Bình đẳng giới, Luật

Giáo dục, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật thanh niên, Luật Bảo vệ môi
trường…
- Pháp luật về phòng, chống tham nhũng, lãng phí: Luật Phòng, chống
tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí…
- Pháp luật về kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế: Luật lao động, Luật
hợp tác xã, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại, các quy định
liên quan đến việc Việt Nam gia nhập WTO...
1.2.2. Phương pháp và hình thức giáo dục ý thức chấp hành pháp luật
cho thanh niên
1.2.2.1. Phương pháp giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho thanh niên
Phương pháp là hệ thống các biện pháp hoạt động, cách thức tổ chức trong
quá trình thực hiện. Phương pháp giáo dục ý thức chấp hành pháp luật được
quy định bởi nội dung, mục đích giáo dục ý thức chấp hành pháp luật, đặc
điểm tâm sinh lý lứa tuổi đối tượng, gắn liền với thực tiễn xã hội. Có nhiều
phương pháp mà chúng ta có thể lựa chọn, tùy thuộc vào đối tượng cụ thể và


21
mục đích hoạt động chương trình. Trong đó nổi bật lên một số phương pháp
như: Phương pháp tổ chức thực hiện; Phương pháp giải quyết vấn đề; Phương
pháp tâm lý, thuyết phục; Phương pháp nêu gương (Thông qua biểu dương,
khen ngợi các tấm gương sáng, các điển hình tiên tiến có sự am hiểu và ý thức
tuân thủ pháp luật tốt trong xã hội); Phương pháp đóng vai (Thông qua các
tiểu phẩm, vở kịch, câu chuyện, tình huống pháp luật, các hội thi, hội diễn văn
nghệ, các lớp bồi dưỡng kỹ năng sống); Phương pháp trực quan (Thông qua
hình ảnh, băng rôn, tờ rơi, khẩu hiệu, tiểu phẩm, hội diễn, thông qua báo chí,
truyền hình, truyền thanh, mạng xã hội...); Phương pháp thuyết trình, giảng
giải, phân tích, thống kê, so sánh (Thông qua diễn đàn, hội nghị, các lớp tập
huấn, sinh hoạt câu lạc bộ, các cuộc phỏng vấn, điều tra). Đối với thanh niên
là đối tượng học sinh, sinh viên, giáo viên và nhà trường cần đổi mới phương

pháp dạy và học pháp luật theo hướng tăng thực hành, phát huy tính tích cực,
chủ động của học sinh, áp dụng phương pháp có sử dụng công nghệ thông tin
như máy chiếu, máy tính, các dụng cụ trực quan khác, nhằm phục vụ tốt hơn
cho bài giảng. Tổ chức cho các em tham gia các câu lạc bộ pháp luật, các
cuộc thi tìm hiểu pháp luật, tham gia các diễn đàn học sinh với pháp luật...
1.2.2.2. Hình thức giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho thanh niên
Mục đích và nội dung giáo dục pháp luật không thể tự bản thân nó đi vào
nhận thức của đối tượng được mà thông qua các kênh thông tin, là các dạng
hoạt động cụ thể để tổ chức quá trình giáo dục ý thức chấp hành pháp luật.
Hình thức giáo dục ý thức chấp hành pháp luật là các dạng hoạt động cụ thể
để tổ chức quá trình giáo dục này, nhằm để thể hiện nội dung của nó. Hình
thức giáo dục pháp luật được quy định cụ thể ở điều 11, Luật Phổ biến và giáo
dục pháp luật năm 2012:
1. Họp báo, thông cáo báo chí.
2. Phổ biến pháp luật trực tiếp; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật;

cung cấp thông tin, tài liệu pháp luật.


22
3. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, loa truyền thanh,

internet, pa-nô, áp-phích, tranh cổ động; đăng tải trên Công báo; đăng tải
thông tin pháp luật trên trang thông tin điện tử; niêm yết tại trụ sở, bảng tin
của cơ quan, tổ chức, khu dân cư.
4. Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật.
5. Thông qua công tác xét xử, xử lý vi phạm hành chính, hoạt động tiếp

công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hoạt động khác của các
cơ quan trong bộ máy nhà nước; thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý, hòa

giải ở cơ sở.
6. Lồng ghép trong hoạt động văn hóa, văn nghệ, sinh hoạt của tổ chức

chính trị và các đoàn thể, câu lạc bộ, tủ sách pháp luật và các thiết chế văn
hóa khác ở cơ sở.
7. Thông qua chương trình giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục

của hệ thống giáo dục quốc dân.
8. Các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật khác phù hợp với từng đối

tượng cụ thể mà các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có thể áp dụng
để bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đem lại hiệu quả.[36]
Tuy nhiên, tùy vào mục đích và đối tượng giáo dục pháp luật mà chúng
ta lựa chọn những hình thức phù hợp. Đối với việc giáo dục ý thức chấp hành
pháp luật cho đối tượng thanh niên thì tựu chung có những hình thức giáo dục
pháp luật cơ bản sau:
Thứ nhất: Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật thông qua tuyên truyền
bằng miệng.
Hình thức tuyên truyền miệng là người nói trực tiếp nói với người nghe
về lĩnh vực pháp luật nào đó nhằm nâng cao hiểu biết và nhận thức cho người
nghe về vấn đề quan tâm. Tuyên truyền miệng chủ yếu được thực hiện thông
qua các hội nghị, hội thảo, tập huấn, các diễn đàn giao lưu, sinh hoạt câu lạc
bộ... Đây là hình thức có nhiều ưu thế, linh hoạt với khối lượng người lớn, đòi


23
hỏi báo cáo viên, tuyên truyền viên phải chuẩn bị chu đáo nội dung và có một
kĩ năng thuyết trình tốt.
Thứ hai: Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho thanh niên thông qua
các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí (Báo in, báo nói, báo hình,

báo điện tử), sóng truyền hình, loa truyền thanh, mạng internet, các băng rôn,
khẩu hiệu, tranh ảnh... Đây là công cụ, phương tiện có sức lan tỏa rộng, tác
động một cách mạnh mẽ đến thanh niên bởi nó dễ dàng tiếp thu, nắm bắt. Các
kênh thông tin truyền thông này góp phần phản ánh sinh động thực tiễn cuộc
sống, hướng dẫn dư luận xã hội biểu dương, khen ngợi hành vi tốt và lên án,
phê phán những hành động đi ngược lại lợi ích cộng đồng, tạo niềm tin pháp
luật vào nhân dân. Hình thức này có thể biểu hiện bởi các tin, bài, tọa đàm,
truyện ngắn, tiểu phẩm, phim truyện, phim tài liệu, các chuyên mục.. đi kèm
với các hình ảnh trực quan thiết thực, sinh động.
Thứ ba: Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho thanh niên thông qua
tư vấn pháp luật.
Tư vấn pháp luật là việc giải đáp pháp luật, tư vấn, cung cấp dịch vụ
pháp lý giúp cá nhân, tổ chức biết thực hiện và bảo vệ quyền lợi, lợi ích chính
đáng của mình. Có thể tư vấn bằng miệng, bằng văn bản, qua thư tín, điện
thoại... Đây là hình thức mà thanh niên có thể dễ dàng tìm đến thông qua các
văn phòng đại diện.
Thứ tư: Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho thanh niên thông qua
các cuộc thi tìm hiểu pháp luật. Ưu điểm của hình thức này là có thể mở rộng
phạm vi đối tượng tuyên truyền và nội dung pháp luật. Phát huy được tính
tích cực, chủ động của đối tượng dự thi, giúp họ có thể tra cứu, tìm hiểu và
nhận thức sâu sắc hơn nội dung pháp luật, với một số hình thức cụ thể như:
Thi trắc nghiệm, thi viết, thi qua mạng internet...
Thứ năm: Từ việc lồng ghép trong các chương trình hoạt động văn hóa,
văn nghệ, thể dục thể thao, sinh hoạt của các tổ chức chính trị, đoàn thể; các


24
câu lạc bộ, các diễn đàn, hội nghị, chuyên đề thanh niên với pháp luật có thể
thu hút đông đảo ĐVTN tham gia và hưởng ứng nhiệt tình. Hình thức này vừa
phổ biến nội dung pháp luật, vừa tạo ra được sân chơi bổ ích, lành mạnh để

thanh, thiếu niên thể hiện và phát huy các kỹ năng của mình.
Thứ năm: Xây dựng, quản lý và khai thác tủ sách pháp luật.
Tủ sách pháp luật là một loại hình tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật tại Việt Nam. Tủ sách pháp luật là nơi lưu giữ, khai thác và sử
dụng sách, báo, tài liệu pháp luật để phục vụ nhu cầu công tác, nghiên cứu,
tìm hiểu của người đọc theo Quyết định số 06/2010/QĐ-TTg ngày 25/01/2010
của Thủ tướng Chính phủ. Tủ sách pháp luật được xây dựng, khai thác
từ UBND cấp xã đến các cơ quan hành chính nhà nước, tổ chức kinh tế, đơn
vị sự nghiệp, vũ trang nhân dân, nhà trường và cơ sở giáo dục khác của hệ
thống giáo dục quốc dân, của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội. Tủ
sách pháp luật là một kênh thông tin pháp luật quan trọng. Việc khai thác Tủ
sách pháp luật là một hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
hiệu quả để thanh niên tìm đọc và nâng cao sự hiểu biết của bản thân đến
vấn đề pháp luật và chính sách liên quan.
Ngoài ra, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho thanh niên còn thông
qua chương trình giáo dục pháp luật trong nhà trường như hình thức lên lớp,
giáo dục qua giờ sinh hoạt ngoại khóa, giáo dục qua tiết chào cờ đầu tuần, các
hội diễn văn nghệ. Thông qua hoạt động quản lý, đánh giá, xếp loại hành vi
và hạnh kiểm của đối tượng thanh niên là học sinh ở các trường THPT. Đối
tượng thanh niên tự do, thanh niên là cán bộ công chức, viên chức, thanh niên
làm việc trong các doanh nghiệp.. thì thông qua các lớp đào tạo, bồi dưỡng
kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng về pháp luật ở các trung tâm chính
trị của Huyện, Tỉnh; các câu lạc bộ, các đội, nhóm tuyên truyền, phổ biến giáo
dục pháp luật...


25
Như vậy, có rất nhiều hình thức để chúng ta áp dụng trong hoạt động
giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho thanh niên. Mỗi hình thức có những
đặc điểm riêng nhưng đều chung mục đích nâng cao nhận thức và ý thức tuân

thủ pháp luật cho thế hệ trẻ. Tùy vào đối tượng thanh niên mà chủ thể pháp
luật sẽ chọn các phương pháp và hình thức giáo dục ý thức chấp hành pháp
luật khác nhau, phù hợp với từng đối tượng cụ thể, khả năng và các điều kiện
khách quan khác.
1.3. Tính tất yếu của việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho
thanh niên
1.3.1. Đặc điểm nhận thức, tâm lý lứa tuổi và vị trí, vai trò của thanh niên
1.3.1.1. Đặc điểm nhận thức, tâm lý lứa tuổi thanh niên
Thanh niên là một khái niệm dùng để chỉ một nhóm người với một độ
tuổi xác định, với những đặc điểm tâm sinh lý đặc thù và có một vị trí nhất
định trong các lĩnh vực xã hội. Khái niệm thanh niên được xây dựng trên sự
phát triển về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hóa bằng
các giới hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia.
Về độ tuổi, thông thường lứa tuổi thanh niên được tính từ 16 đến 35. Tuy
nhiên cách xác định độ tuổi ở các quốc gia cũng khác nhau. Theo hướng dẫn
của Liên Hợp Quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên ngày
14/12/1990 thì trẻ em là người dưới 18 tuổi, người chưa thành niên là người
từ 15 đến 18 tuổi, thanh niên là người từ 15 đến 24 tuổi, người trẻ tuổi bao
gồm cả trẻ em, chưa thành niên và thanh niên. Ở Việt Nam, theo điều 1, Luật
Thanh niên quy định: “Thanh niên quy định là công dân Việt Nam từ đủ mười
sáu tuổi đến ba mươi tuổi”. [37]. Thanh niên là lớp người đang trưởng thành
và dần hoàn thiện về năng lực, thể chất, tinh thần và nhân cách. Họ cần được
hướng dẫn, dìu dắt và giáo dục để đủ năng lực đảm đương vai trò, trách
nhiệm của người công dân trưởng thành. Ở lứa tuổi này, sự phát triển về sinh
lý được thể hiện ở sự biến đổi nhanh chóng và hoàn thiện về cơ thể cũng như


×