BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
ĐÀO ÁI HÒA
VAI TRÒ CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH NGHỆ AN
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60.31.01.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. Đào Thị Phương Liên
Nghệ An, 2015
i
LỜI CẢM ƠN
Lời cuối cùng, tôi xin kính gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo
đã trực tiếp giảng dạy và góp ý cho đề tài trong thời gian qua, cảm ơn các thầy
cô giáo trong Khoa Kinh tế, ban giám hiệu Trường Đại Học Vinh đã tạo điều
kiện cho bản thân được học tập.
Đặc biệt với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin kính cảm
ơn cô giáo PGS. TS. Đào Thị Phương Liên người đã trực tiếp hướng dẫn tôi
làm luận văn này.
Xin cảm ơn Đảng ủy cơ quan chính quyền huyện Yên Thành và các đồng
nghiệp trong HĐND – UBND huyện Yên Thành, đã tạo mọi điều kiện tốt nhất
cho tôi trong suốt quá trình học tập và làm luận văn.
Với các kết quả thu được như trên, có thể nói đề tài đã đạt được những
mục đích và yêu cầu đề ra. Tuy nhiên, do thời gian có hạn, năng lực chuyên môn
còn hạn chế, tài liệu tham khảo còn ít, vì vậy trong quá trình thực hiện đề tài,
chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự chỉ bảo tận
tình của thầy cô giáo, bạn đồng nghiệp để đề tài được hoàn chỉnh hơn.
ii
LỜI CAM ĐOAN
Đây là luận văn thạc sĩ chuyên ngành Kinh tế chính trị, là công trình
nghiên cứu của tôi. Tôi xin cam đoan những nội dung trong luận văn do tôi thực
hiện. Đây là luận văn chưa được bảo vệ tại bất kỳ hội đồng bảo vệ luận văn nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm trước những lời cam đoan trên
Nghệ An, ngày 15 tháng 9 năm 2015
iii
MỤC LỤC
Có nhiều tiêu chí để phân loại du lịch, tuy nhiên Luận văn tiếp cận về du lịch từ 2 góc độ là
du lịch thiên nhiên và du lịch lịch sử, văn hóa........................................................................9
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ cái viết tắt/ký hiệu
ANTT
APEC
ASEAN
BBC
BVMT
CHDCND
CNN
CSHT
DWT
EXPO
Festval
GDP
Cụm từ đầy đủ
An toàn trật tự
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
Thông tấn xã quốc gia của Vương quốc Liên hiệp Anh
và Bắc Ireland
Bảo vệ môi trường
Cộng hòa dân chủ nhân dân
Mạng truyền hình cáp Hoa Kỳ
Chính sách hạ tầng
Tải trọng tổng cộng
Hội chợ Thương mại Quốc tế Việt Nam
Lễ hội
Tổng sản phẩm nội địa
iv
HĐND
ICAO
ITE
JICA
KT-XH
M.I.C.E
QL
QLNN
Resort
TCVN
TW
UBND
UNESSCO
VHTT&DL
VITM
VOV
VTV
WTO
XHCN
Hội đồng nhân dân
Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế
Hội chợ du lịch quốc tế
Tổ chức Hợp tác quốc tế Nhật Bản
Kinh tế – Xã hội
Loại hình du lịch hội nghị, sự kiện, hội chợ triển lãm
Quốc lộ
Quản lý nhà nước
Khu nghỉ mát
Tiêu chuẩn Việt nam
Trung ương
Ủy ban nhân dân
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên Hợp
Quốc
Văn hóa thể thao và Du lịch
Cơ hội để du lịch Việt Nam ra thế giới
Đài Tiếng nói Việt Nam
Đài truyền hình
Tổ chức Thương mại Thế giới
Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Có nhiều tiêu chí để phân loại du lịch, tuy nhiên Luận văn tiếp cận về du lịch từ 2 góc độ là
du lịch thiên nhiên và du lịch lịch sử, văn hóa........................................................................9
v
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn.
Nghệ An là tỉnh ở trung tâm của vùng Bắc Trung Bộ, có nhiều tiềm năng,
lợi thế để phát triển nhiều loại hình du lịch hấp dẫn, đáp ứng các nhu cầu của du
khách như du lịch văn hóa lịch sử, tâm linh, du lịch nghỉ dưỡng biển, du lịch
sinh thái rừng, du lịch khám phá, mạo hiểm… Trong đó khu vực phía Tây Nghệ
An có nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên khá phong phú gắn liền với các khu
rừng nguyên sinh Pù Mát, Pù Huống, Pù Hoạt thuộc Khu dự trữ sinh quyển thế
giới và các danh thắng tự nhiên như thác Sao Va, thác Khe Kèm, hang Bua…;
phía Đông Nghệ An là 82 km bờ biển với các bãi tắm đẹp trải dài từ Quỳnh
Phương – Quỳnh Lưu đến Diễn Thành – Diễn Châu, Cửa Hiền – Nghi Lộc, đặc
biệt là bãi biển Cửa Lò – một trong những bãi biển đẹp nhất miền Bắc đang
được đầu tư phát triển trở thành một trong 12 đô thị du lịch của cả nước.
Nghệ An là mảnh đất có truyền thống văn hóa lịch sử với hàng ngàn di
tích vẫn còn được lưu giữ đến ngày nay, trong đó có nhiều di tích đã trở thành
điểm đến tham quan hấp dẫn của du khách như: Đền thờ và mộ Vua Mai, Nhà
Lưu niệm cụ Phan Bội Châu, Khu mộ La Sơn phụ tử Nguyễn Thiếp, khu tưởng
niệm liệt sỹ xô viết Nghệ Tĩnh, Khu lưu niệm cố Tổng Bí thư Lê Hồng Phong,
đền Hồng Sơn, Đền thờ Vua Quang Trung, Đền thờ và mộ Ông Hoàng Mười…
Đặc biệt là di tích lịch sử cấp quốc gia đặc biệt – Khu di tích Kim Liên,
nơi lưu giữ những hiện vật và không gian văn hóa lịch sử gắn liền với cuộc sống
thời thơ ấu của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng gia đình, bè bạn hàng xóm láng
giềng. Bên cạnh đó, Nghệ An còn có nhiều công trình văn hóa, di sản văn hóa
phi vật thể về dân ca, dân nhạc, dân vũ, văn hóa ẩm thực, làng nghề truyền thống
với những nét đặc trưng tiêu biểu của Xứ Nghệ, trong đó Dân ca Ví Giặm đang
được trình UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân
loại.
Những năm qua, du lịch Nghệ An đã có bước phát triển khá ổn định, góp
phần tạo công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo và nâng cao thu nhập cho người
2
lao động; Tỉnh đã tập trung ưu tiên nguồn lực để đầu tư nâng cấp các cơ sở hạ
tầng phục vụ phát triển du lịch. Cơ sở vật chất đổi thay nhanh chóng, sân bay
Vinh đã được nâng cấp và mở thêm nhiều chuyến bay mới ở trong nước và quốc
tế đáp ứng nhu cầu đi lại và thuận tiện cho du khách… Tuy vậy, tốc độ phát
triển du lịch Nghệ An vẫn còn chậm, chưa tương xứng tiềm năng, lợi thế. Chưa
thu hút được các dự án đầu tư xây dựng khu, điểm du lịch quy mô lớn, chất
lượng cao hấp dẫn du khách. Sản phẩm du lịch còn đơn điệu, chất lượng dịch vụ
chưa cao, nguồn nhân lực du lịch còn thiếu và yếu. Sự phối hợp giữa các cấp,
các ngành và địa phương trong quản lý và hỗ trợ phát triển du lịch còn thiếu chặt
chẽ, chưa đồng bộ. Môi trường tại các điểm du lịch trọng điểm ở Nam Đàn,
Thành phố Vinh, Thị xã Cửa Lò có mặt chưa tốt, chưa tạo được cảnh quan, môi
trường xanh, sạch, đẹp hấp dẫn thu hút du khách. Chính vì vậy, tôi lựa chọn đề
tài: “Vai trò của chính quyền địa phương trong phát triển du lịch tỉnh Nghệ
An” để viết Luận văn thạc sĩ.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về phát triển du lịch ở Việt nam nói chung ở tỉnh Nghệ an
riêng không còn là một đề tài mới mẽ. Trong những năm vừa qua, nhiều công
trình nghiên cứu về du lịch Nghệ An vẫn được tiến hành như đề tài “Vai trò
quản lý nhà nước trong phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật của đô thị du lịch Thị
xã Cửa Lò” của TS Hồ Đức Phớc. Đóng góp quan trọng của luận văn là đã có
những kiến nghị với các cấp về việc tăng cường vai trò nhà nước trong phát
triển CSHT đô thị có ý nghĩa thực tiễn quan trọng. Việc thực hiện nó sẽ góp
phần tăng cường mạnh mẽ vai trò nhà nước trong phát triển CSHT Thị xã Cửa
lò những năm tới, Công trình khoa học luận án “ Đánh giá năng lực cạnh tranh
du lịch biển, đảo của tỉnh Nghệ An và khuyến nghị chính sách” của Tiến sĩ Thái
Thị Kim Oanh. Một trong đóng góp của luận án là: (1) Yếu tố đầu tiên mà bất
cứ quá trình quản lý nhà nước về du lịch nào cũng phải dựa vào chính là tạo ra
một môi trường chính sách ổn định, minh bạch và tôn trọng cạnh tranh; (2) Cần
ưu tiên việc duy trì hợp lý quy mô, mật độ phát triển. Phát triển du lịch bền vững
3
không có nghĩa là thu hút tối đa số du khách hay doanh thu từ du lịch; (3) Quản
lý du lịch hiệu quả cần có một quy hoạch, kế hoạch phát triển phù hợp dựa trên
cơ sở nhiều nghiên cứu, đánh giá, khảo sát nghiêm túc, khoa học, đồng thời kết
hợp với thực thi nghiêm minh các chính sách, quy định pháp luật có liên quan
đến phát triển du lịch. Cũng như luận án “Vai trò của chính quyền địa phương
cấp tỉnh trong phát triển du lịch bền vững tỉnh Ninh Bình” của tiến sĩ Nguyễn
Mạnh Cường. Luận án chứng minh vai trò của Chính quyền địa phương cấp tỉnh
trong phát triển du lịch bền vững trên địa bàn lãnh thổ địa phương trên các
phương diện, giúp tăng cường khả năng cạnh tranh của các công ty địa phương,
tạo ra các cơ hội đầu tư kinh doanh mới. Luận án đã chỉ ra vai trò của chính
quyền địa phương cấp tỉnh trong phát triển du lịch bền vững trên địa bàn lãnh
thổ địa phương được xác định bao gồm: Hoạch định chiến lược, quy hoạch tổng
thể phát triển du lịch của địa phương; tổ chức triển khai thực hiện các chính
sách, pháp luật của nhà nước trong lĩnh vực du lịch; xây dựng tổ chức bộ máy và
quản lý phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh theo tiêu chí phát triển bền vững;
thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động du lịch. Cùng với đó, sự phối hợp chặt chẽ
giữa các cấp chính quyền địa phương, các hiệp hội kinh doanh, các doanh
nghiệp địa phương và những tác nhân khác cũng đóng một vai trò quan trọng.
Luận văn “ Nghiên cứu phát triển du lịch sinh thái cộng đồng tại vườn quốc gia
Pù Mát - Nghệ An” của Thạc sĩ Võ Văn Phong tác giả đề xuất một số giải pháp
cho việc hình thành mô hình phát triển du lịch sinh thái cộng đồng cũng như quy
hoạch chi tiết hơn và đưa du lịch sinh thái cộng đồng đi vào hoạt động một cách
bền vững.
Liên quan đến chủ đề nghiên cứu, có thể chia thành các chủ đề như sau:
Vai trò hỗ trợ của chính quyền địa phương ngày càng trở nên quan trọng.
Chính quyền cũng phải sáng tạo để hỗ trợ, cổ vũ sự sáng tạo của doanh nghiệp.
Đồng thời, các doanh nghiệp lại đặt các vùng vào tình thế cạnh tranh với nhau theo
các tiêu chí như nhân công tại chỗ, dịch vụ cho các doanh nghiệp, cơ sở hạ tầng...
4
Cốt lõi nhất của phát triển bền vững chính là sự phát triển bảo đảm sự bền
vững trên cả ba mặt kinh tế, xã hội và môi trường; thoả mãn được các yêu cầu
của thế hệ hiện nay, mà không làm giảm khả năng đối với các thế hệ mai sau.
Tập trung vào các ngành nghề kinh doanh du lịch và phát triển ngành du
lịch để du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia hoặc địa phương;
các bài viết trên mới chỉ nghiên cứu một số khía cạnh, đưa ra hướng giải quyết
từng phần về tour, tuyến, điểm du lịch.
Với tiềm năng, thế mạnh và lợi thế cạnh tranh vượt trội, chủ trương phát
triển du lịch nhanh, bền vững và sớm trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh
Nghệ An là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu
kinh tế chung của thế giới và Việt Nam. Trong thời gian tới, Chính quyền tỉnh
Nghệ An cần tiếp tục ban hành và thực hiện tốt các chủ trương, chính sách nhằm
nâng cao nhận thức cho cán bộ và nhân dân, huy động sức mạnh vật chất và tinh
thần của toàn xã hội để phát triển bền vững du lịch Nghệ An .
Để góp phần giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra, luận văn đã đi sâu
nghiên cứu và đạt được một số kết quả sau:
Hệ thống hoá và đóng góp bổ sung những vấn đề lý luận cơ bản về phát
triển du lịch, vai trò của chính quyền địa phương cấp Tỉnh trong phát triển du
lịch; nghiên cứu những kinh nghiệm trong nước về nâng cao vai trò của chính
quyền địa phương trong phát triển du lịch, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho
chính quyền Tỉnh Nghệ An trong phát triển du lịch bền vững trên địa bàn Tỉnh;
Đánh giá vai trò của chính quyền cấp tỉnh trong phát triển du lịch tỉnh
Nghệ An giai đoạn 2005-2013. đưa ra các quan điểm, mục tiêu nhằm nâng cao
vai trò của Chính quyền Tỉnh Nghệ An trong phát triển du lịch trên địa bàn Tỉnh
và đề xuất hệ thống giải pháp cụ thể để thực sự đưa du lịch Nghệ An phát triển
trong những giai đoạn tiếp theo.
3. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn
Qua đó các tác giả hiểu rõ hơn về các kiến thức mới vai trò của chính
quyền trong phát triển du lịch, và dịch vụ du lịch. Đồng thời đưa ra các định
hướng phát triển du lịch tỉnh Nghệ An.
5
- Lợi thế của tỉnh Nghệ An đối với sự phát triển du lịch.
- Luận giải những vấn đề lý luận về vai trò của chính quyền địa phương
trong phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh.
- Đánh giá thực trạng vai trò của chính quyền địa phương Tỉnh Nghệ An
trong phát triển Du lịch.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao vai trò của chính quyền
địa phương trong phát triển du lịch tỉnh Nghệ An.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: Du lịch và một nghành kinh tế tổng hợp, có tính
liên nghành, liên vùng và xã hội hóa cao. Tuy nhiên luận văn này chỉ nghiên cứu
vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong phát triển Du lịch cụ thể tại
tỉnh Nghệ An.
- Về phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ phân tích vai trò của chính quyền
địa phương cấp Tỉnh trong phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Nghệ an từ năm
2011-2015, Qua đó nêu lên định hướng, xây dựng và phát triển du lịch trên địa
bàn tỉnh Nghệ An đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Trên cơ sở những tài nguyên có liên quan để tổng hợp, phân tích, xử lí từ
đó rút ra những kêt luận hợp lí, xác đáng để đánh giá đối tượng.
- Phương pháp thu thập và tổng hợp tài liệu: Đây là phương pháp truyền
thống được sử dụng trong các nghiên cứu nói chung và nghiên cứu phát triển du
lịch nói riêng. Các nguồn tài liệu được thu thập rất đa dạng, phong phú và được
tổng hợp, xử lí các thông tin liên quan đến đề tài.
- Phương pháp biểu đồ: Là phương pháp đặc thù để nghiên cứu khoa học
địa lý. Với phương pháp này sẽ làm cho các ứng dụng khoa học, các kết quả
nghiên cứu được trực quan cụ thể và có tính thuyết phục hơn
- Phương pháp so sánh: Được sử dụng trong qúa trình nghiên cứu phân
tích, tổng hợp để nhận xét đánh giá các tiềm năng du lịch cũng như hiệu quả
6
hoạt động kinh doanh du lịch và những ảnh hưởng của chính quyền địa phương
tỉnh Nghệ An so với phạm vi đất nước, khu vực.
- Phương pháp dự báo: Đề tài căn cứ vào những lợi thế về du lịch tự
nhiên, du lịch nhân văn, các giá trị và không gian văn hóa truyền thống của cộng
động các dân tộc thiểu số...định hướng, chiến lược phát triển du lịch của địa
phương. Qua đó đề tài đưa ra một số định hướng phát triển du lịch của khu vực
đầy tiềm năng và triển vọng.
6. Những đóng góp của Luận văn.
Về lý luận: Với cách tiếp cận hệ thống, đề tài sẽ góp phần đem lại những
phương pháp phân tích tổng thể để nhận diện và phân tích vai trò của chính
quyền địa phương cấp tỉnh trong phát triển du lịch trên địa bàn.
Về thực tiễn: Đánh giá thực trạng vai trò của chính quyền Tỉnh Nghệ An
trong phát triển du lịch trên cả 2 mặt: thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của
những hạn chế. Từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao vai trò của
chính quyền địa phương trong phát triển du lịch tỉnh Nghệ An.
7. Kết cấu luận văn.
Ngoài phần mở bài, phần kết luận, báo cáo gồm có hai chương.
Chương 1. Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về vai trò của chính
quyền địa phương trong phát triển du lịch tỉnh Nghệ An.
Chương 2. Thực trạng vai trò của chính quyền địa phương trong phát
triển du lịch tỉnh Nghệ An
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai
trò của chính quyền địa phương trong phát triển du lịch tỉnh Nghệ An
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ CỦA
CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH
NGHỆ AN
1.1. Những vấn đề cơ bản về du lịch phát triển du lịch.
1.1.1. Du lịch.
Du lịch có từ xa xưa gắn với sự ước mơ của con người vì căn tính cơ bản
của con người là vừa thích quen, vừa thích lạ, vừa muốn đi tìm hiểu làm quen
với cái lạ để thưởng thức cảnh đẹp của thiên nhiên, của các nền văn hoá khác
nhau mà ở quê hương mình không hoặc chưa có - qua đó mà tăng thêm tri thức,
tình cảm và bồi dưỡng sức khoẻ. Ngày nay, du lịch đã gắn liền với cuộc sống
của hàng triệu người, nó đã trở thành một ngành kinh tế quan trọng và chủ yếu
không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển. Tuy nhiên,
cho đến nay, nhận thức của mọi người đối với ngành du lịch vẫn chưa thống
nhất.
Xuất phát từ góc độ của nhà kinh doanh du lịch - người khai phá ngành du
lịch cận đại, Thomas Cook đã nêu ra định nghĩa ngành du lịch tức là: “Để khách
du lịch thu được hứng thú tình cảm xã hội lớn nhất, tổ chức sự nghiệp để người
ta đưa hết trách nhiệm lớn nhất”. Người Nhật Bản cho rằng ngành du lịch là
“Công nghiệp tin tức” có thể phản ánh tình hình chính trị, nếp sống xã hội và sự
thay đổi tài chính. Người Anh đặc biệt nhấn mạnh sự giao lưu giữa người với
người trong du lịch, coi trọng tiếp đãi nhiệt tình, nên gọi ngành du lịch là
“Ngành tiếp đãi hữu hảo nhiệt tình”. Người Mỹ cho rằng rối loạn chính trị,
khủng hoảng kinh tế và thiên tai địch hoạ đều sẽ dẫn đến sự tuột dốc của du lịch,
vì thế gọi ngành du lịch là “Ngành nghề béo bệu”. Người Nam Tư gọi ngành du
lịch là “Hộ chiếu đi tới hoà bình thế giới”. Các cách nêu trên chỉ là sự giải thích
đơn giản dễ hiểu đối với một số đặc điểm và tác dụng của ngành du lịch chứ
chưa vạch rõ đặc trưng bản chất của ngành du lịch.
8
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng
của ngành du lịch thế giới, việc nghiên cứu của mọi người đối với ngành du lịch
cũng không ngừng đi sâu và đã có rất nhiều quan điểm có tính chất gợi mở. Các
học giả Mỹ, Mathieson và Wall cho rằng: “Du lịch là ngành nghề có hàng loạt
mối liên quan lẫn nhau để phục vụ khách du lịch trong và ngoài nước. Du lịch
liên quan đến du khách, hình thức lữ hành, cung cấp ăn, ở, thiết bị và các vật
dụng khác, nó cấu thành một khái niệm tổng hợp không ngừng biến đổi theo
thời gian và hoàn cảnh, một khái niệm đang hình thành và đang thống nhất”.
Cùng quan điểm này, các tác giả khác của Mỹ là McIntosh, Charles R.Goeldner,
J. R. Brent Ritchie phát biểu: “Du lịch như là tổng thể các hiện tượng và mối
quan hệ nảy sinh từ tác động qua lại giữa du khách, nhà cung ứng, chính quyền
và cộng đồng chủ nhà trong quá trình thu hút và đón tiếp khách”.
Ở Việt Nam, theo du lịch Luật Du lịch ngày 14/6/2005, thì “Du lịch là
các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú
thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí,
nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định” (Mục 1, điều 4, trang 2).
Như vây, có thể hiểu, du lịch là tổng hoà các mối quan hệ, hiện tượng và các
hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay
tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước với mục đích
hoà bình.
Ngành du lich, theo Học giả Nhật Bản, Tiền Điền Dũng trong Khái luận
về Du lịch cho rằng: “ngành du lịch là hoạt động kinh doanh đa dạng, do rất
nhiều bộ môn du lịch độc lập khác nhau triển khai nhằm thích ứng với nhu cầu
của khách du lịch”. Học giả Mêxicô trong cuốn Ngành Du lịch là môi giới giao
lưu của loài người luận bàn rằng: “ngành du lịch có thể được xem là tổng các
mối quan hệ được hình thành nên nhằm cung cấp dịch vụ và các tiện lợi khác
cho khách du lịch”.
Như vậy, các khái niệm và các định nghĩa về du lịch và ngành du lịch trên
đây tuy không thật giống nhau, nhưng đều có hai chỗ tương đồng. Thứ nhất,
9
ngành du lịch là một ngành kinh tế có tính tổng hợp do hàng loạt ngành liên
quan cùng tổ hợp thành; Thứ hai, nhiệm vụ của ngành du lịch là cung cấp sản
phẩm và dịch vụ cho khách. Do đó, có thể hiểu: Ngành du lịch là ngành kinh tế
có tính tổng hợp lấy khách du lịch làm đối tượng, cung cấp sản phẩm cần thiết
và dịch vụ cho khách du lịch, tạo điều kiện tiện lợi cho hoạt động du lịch của họ.
Trong thực tế, sự phát triển du lịch của mỗi quốc gia thường bao gồm các
mục tiêu như: kinh tế, chính trị và xã hội,.... Nhà nước thúc đẩy du lịch phát
triển có thể lấy một trong các mục tiêu đó làm chính và có thể xem xét tới các
mục tiêu còn lại, hoặc cũng có thể coi trọng và xác định nhiều mục tiêu khác
nhau. Điều này phụ thuộc hoàn toàn vào điều kiện và tình hình cụ thể của nước
đó, tuy nhiên cùng với sự thay đổi theo thời gian thì mục tiêu phát triển du lịch
cũng thay đổi tương ứng. Phát triển du lịch không phải chỉ lấy phát triển kinh tế
làm mục tiêu duy nhất - ngành du lịch là ngành mà mục tiêu cơ bản của nó là ở
chỗ thông qua thúc đẩy, xúc tiến, cung cấp hàng hoá và dịch vụ du lịch để tạo ra
thu nhập và đóng góp vào thu nhập của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, cấu tạo
chủ yếu của ngành du lịch là các doanh nghiệp du lịch, các doanh nghiệp này
thực hiện các hoạt động kinh doanh du lịch, do đó mục tiêu cuối cùng là tối đa
hoá lợi nhuận. Vì vậy, ngành du lịch cũng phải tiến hành hạch toán kinh tế. Với
quan niệm này, về cơ bản ngành du lịch phải là ngành mang rõ nét tính kinh tế.
1.1.2. Phân loại du lịch
Có nhiều tiêu chí để phân loại du lịch, tuy nhiên Luận văn tiếp cận về du lịch từ
2 góc độ là du lịch thiên nhiên và du lịch lịch sử, văn hóa
- Du lịch thiên nhiên: là loại hình du lịch được phát triển gắn với việc khai
thác các tiềm năng tự nhiên: địa hình, phong cảnh tự nhiên, khí hậu, nguồn
nước, các tiềm năng về động thực vật cảu địa phương ...
+ Địa hình: là sản phẩm của các quá trình địa chất lâu dài (nội sinh, ngoại
sinh). Đối với hoạt động du lịch, điều quan trọng nhất là đặc điểm hình thái địa
hình, nghĩa là các dấu hiệu bên ngoài của địa hình và các dạng đặc biệt của địa
hình có sức hấp dẫn khai thác cho du lịch. Các đơn vị hình thái chính của địa
10
hình là núi đồi và đồng bằng, chúng được phân biệt bởi độ chênh của địa hình.
Khách du lịch thường ưa thích những nơi có phong cảnh đẹp và đa dạng, những
vùng có nhiều đồi núi và thường tránh những nơi bằng phẳng mà họ cho là tẻ
nhạt, không thích hợp với du lịch. Ngoài các dạng địa hình chính với các ý nghĩa
phục vụ du lịch khác nhau, cần chú ý đến các kiểu địa hình đặc biệt có giá trị rất
lớn cho tổ chức du lịch - kiểu địa hình Karstơ (đá vôi) và kiểu địa hình bờ bãi
biển.
+ Khí hậu: Khí hậu là thành phần quan trọng của môi trường tự nhiên đối
với hoạt động du lịch. Nó thu hút người tham gia và người tổ chức du lịch qua
khí hậu sinh học. Trong các chỉ tiêu khí hậu, đáng chú ý là hai chỉ tiêu chính:
nhiệt độ không khí và độ ẩm không khí. Ngoài ra còn có một số yếu tố khác như
gió, lượng mưa, thành phần lý hoá của không khí, áp suất của khí quyển, ánh
nắng mặt trời và các hiện tượng thời tiết đặc biệt.
+ Nguồn nước: Tiềm năng nước bao gồm nước chảy trên mặt đất (nước
măt) và nước ngầm. Đối với du lịch thì nguồn nước mặt có ý nghĩa rất lớn. Nó
bao gồm đại dương, biển, hồ, sông, hồ chứa nước nhân tạo, suối, Karstơ, thác
nước, suối phun... Nước được dùng chủ yếu cho các nhà tắm (thiên nhiên hay có
mái che). Tuỳ theo thành phần lý hoá của nước người ta phân ra nước ngọt (lục
địa) và nước mặn (biển, một số hồ nội địa). Trong tiềm năng nước, cần phải nói
đến tiềm năng nước khoáng. Đây là nguồn tiềm năng có giá trị du lịch an dưỡng
và chữa bệnh.
+ Thực, động vật: Hiện nay, khi mức sống của con người ngày càng nâng
cao thì nhu cầu nghỉ ngơi tham quan du lịch và giải trí trở thành nhu cầu cấp
thiết. Thị hiếu về du lịch cũng ngày càng đa dạng và phong phú. Ngoài một số
hình thức truyền thống như tham quan phong cảnh, các di tích văn hoá - lịch sử
của loài người, đã xuất hiện một hình thức mới, với sức hấp dẫn rất lớn khách du
lịch, đó là du lịch các khu bảo tồn thiên nhiên với đối tượng là các loại động thực vật, việc tham quan du lịch trong thế giới động thực vật sống động, hài hoà
trong thiên nhiên làm cho con người tăng thêm lòng yêu cuộc sống.
11
- Du lịch lịch sử và văn hóa.: là loại hình du lịch được phát triển gắn với
việc khai thác các tiềm năng về lịch sử, văn hoá, xã hội, con người tại địa
phương.
+ Các di tích lịch sử - văn hoá, kiến trúc: Các di sản văn hoá thế giới với
di tích lịch sử - văn hoá được coi là một trong những nguồn tiềm năng du lịch
quan trọng. Đây là nguồn lực để phát triển và mở rộng hoạt động du lịch. Các di
sản văn hoá thế giới và di tích lịch sử, văn hoá gắn liền với môi trường xung
quanh... bảo đảm sự sinh động của quá khứ đã nhào nặn nên chúng và bảo đảm
cho khung cảnh cuộc sống sự đa dạng của xã hội. Qua các thời đại, những di sản
văn hoá thế giới và di tích lịch sử văn hoá đã minh chứng cho những sáng tạo to
lớn về văn hoá, tôn giáo và xã hội loài người. Việc bảo vệ, khôi phục và tôn tạo
những vết tích hoạt động của loài người trong các thời kỳ lịch sử, những thành
tựu văn hoá, nghệ thuật... không chỉ là nhiệm vụ lớn của nhân loại trong thời kỳ
hiện đại, mà còn giá trị rất lớn với mục đích du lịch.
+ Các lễ hội: Lễ hội là loại hình sinh hoạt văn hoá tổng hợp hết sức đa
dạng và phong phú, là một kiểu sinh hoạt tập thể của nhân dân sau thời gian lao
động mệt nhọc, hoặc là một dịp để con người hướng về một sự kiện lịch sử trọng
đại; ngưỡng mộ tổ tiên, ôn lại truyền thống, hoặc là để giải quyết những nỗi lo
âu, những khao khát, ước mơ mà cuộc sống thực tại chưa giải quyết được.
+ Các đối tượng du lịch gắn với dân tộc học: Các đối tượng du lịch gắn
với dân tộc học có ý nghĩa với du lịch là các tập tục lạ về cư trú, về tổ chức xã
hội, về thói quen ăn uống sinh hoạt, về kiến trúc cổ, các nét truyền thống trong
quy hoạch cư trú và xây dựng, trang phục dân tộc... Việt Nam với 54 dân tộc
còn giữ gìn nguyên vẹn những phong tục tập quán, hoạt động văn hoá - văn
nghệ đặc sắc, nhiều kỹ năng độc đáo. Ở Việt Nam còn có hàng trăm làng nghề
truyền thống với những sản phẩm nổi tiếng mang tính nghệ thuật cao, đặc biệt
các nghề chạm khắc, đúc đồng, dệt tơ lụa, sơn mài, gốm sành sứ... Các món ăn
dân tộc độc đáo với nghệ thuật chế biến và nấu nướng cao.
12
+ Các đối tượng văn hoá - thể thao và hoạt động nhận thức khác: Các đối
tượng văn hoá cũng thu hút khách du lịch với mục đích tham quan, nghiên cứu.
Đó là các trung tâm của các viện khoa học, các trường đại học, các thư viện lớn
và nổi tiếng, các thành phố có triển lãm nghệ thuật, các trung tâm thường xuyên
tổ chức liên hoan âm nhạc, sân khấu, điện ảnh, các cuộc thi đấu thể thao quốc tế,
biểu diễn ba lê, các cuộc thi hoa hậu, thi giọng hát hay...
1.1.3. Phát triển du lịch
1.1.3.1. Mục tiêu phát triển du lịch:
Phát triển du lịch là quá trình con người gia tăng việc khai thác các tiềm
năng du lịch cả về số lượng và chất lượng nhằm thỏa mãn các nhu cầu ngày
càng tăng lên của khách du lịch. Xét về phương diện ngành, sự phát triển của
ngành du lịch sẽ làm tăng doanh thu của ngành và do vậy sẽ tăng phần đóng
góp của ngành cho sự phát triển Kinh tế - Xã hội.
Trong xu thế chung của toàn cầu hiện nay thì có nhiều tài nguyên tự nhiên
cũng như tài nguyên nhân văn được đưa vào sử dụng cho mục đích du lịch và
cùng với những tài nguyên có từ trước đó thì chúng được khai thác một cách
triệt để, tối đa. Chính sự khai thác đến cạn kiệt đó đã gây ra những ảnh hưởng
không nhỏ cho xã hội và môi trường. Một yêu cầu cần thiết đặt ra cho xã hội
hiện nay là làm thế nào để phát triển du lịch bền vững.
- Mục tiêu về kinh tế: là sự tăng trưởng và phát triển ổn định, chắc chắn
và lâu dài của du lịch. Muốn đạt được như vậy thì du lịch phải luôn luôn tạo
được nguồn thu ổn định cho các cá nhân, tổ chức hoạt động trong ngành du lịch
nói riêng và cho cả xã hội nói chung.
Mặt khác, phải góp phần tích cực vào sự tăng trưởng KT-XH, đem lại lợi
ích cho cộng đồng dân cư địa phương, là những người trực tiếp quản lý những
tài nguyên đó vì họ thực sự am hiểu sâu sắc về tài nguyên và môi trường xung
quanh, họ cũng chính là người có tác động trực tiếp và mạnh mẽ nhất đến tài
nguyên và môi trường đó.
13
- Mục tiêu về bảo tồn tài nguyên và môi trường: là việc sử dụng các tài
nguyên không vượt quá khả năng tự phục hồi của nó, sao cho vừa đảm bảo sự
tăng trưởng về doanh thu của du lịch, lại vừa không làm suy yếu khả năng tái
tạo trong tương lai.
- Mục tiêu về văn hoá xã hội: là việc khai thác đáp ứng các nhu cầu phát
triển du lịch hiện tại không làm tổn hại, suy thoái các giá trị văn hoá truyền
thống để lại cho các thế hệ tiếp sau. Đó là những giá trị văn hoá đích thực được
thể hiện trong lối sống, trong sinh hoạt hàng ngày của người dân địa phương nơi
có điểm du lịch. Đây chính là những điều mà du khách muốn khám phá khi đi
du lịch vì nó sống động, thú vị và hấp dẫn hơn là những mô hình hay hiện vật
được trưng bày trong các viện bảo tàng. Phong tục tập quán, truyền thống, lối
sống, phương thức sản xuất, môi trường, không gian sống của người dân là yếu
tố quan trọng góp phần tạo nên sự khác biệt trong các sản phẩm du lịch, là yếu
tố hấp dẫn bậc nhất đối với khách du lịch.
Tuy nhiên cùng với sự phát triển KT-XH là sự suy giảm, mất dần các giá
trị văn hoá truyền thống; làm cho một số nét văn hoá bị pha trộn, thay đổi. Để
giữ gìn các truyền thống văn hoá đó thì nhà nước phải thực hiện các dự án bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hoá đó để vừa phục vụ cho việc khai thác du lịch
vừa để nghiên cứu đánh giá các tác động của du lịch đến giá trị văn hoá truyền
thống.
1.1.3.2. Nguyên tắc phát triển du lịch:
Phát triển du lịch phải tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc sau:
- Khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên một cách hợp lý: Mọi hoạt
động phát triển kinh tế đều liên quan đến việc sử dụng các nguồn tài nguyên tự
nhiên và nhân văn. Nhiều nguồn tài nguyên trong số đó không thể tái tạo hay
thay thế được hoặc khả năng tái tạo phải trải qua một thời gian rất dài hàng triệu
năm. Chính vì vậy đối với các ngành kinh tế nói chung và du lịch nói riêng, việc
khai thác sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên là nguyên tắc quan trọng hàng
đầu mặc dù phần lớn các tài nguyên du lịch được xem là tài nguyên có khả năng
14
tái tạo hoặc ít biến đổi. Việc khai thác này phải tuân thủ sức chứa (là giới hạn
mà điểm du lịch có thể chấp nhận được). Bao gồm:
+ Sức chứa sinh học: Là giới hạn mà nếu sự phá hủy về môi trường diễn
ra tới mức độ này thì không thể chấp nhận được.
+ Sức chứa tâm lý: Là giới hạn mà khách du lịch cảm thấy chất lượng sự
trải nghiệm của mình bị phá bởi số lượng quá tải khách du lịch hay những hành
vi của họ.
+ Sức chứa xã hội: Là giới hạn mà các dân cư địa phương cảm thấy rất
phiền toái và phải chịu đựng du lịch.
+ Sức chứa vật lý: Là giới hạn số lượng khách thực tế mà điểm du lịch có
thể chứa được.
- Giảm thiểu chất thải ra môi trường, hạn chế việc tiêu thụ quá mức: Việc
không kiểm soát được lượng chất thải từ hoạt động du lịch và khai thác, tiêu thụ
quá mức tài nguyên sẽ góp phần dẫn đến sự suy thoái môi trường mà hậu quả
của nó là sự phát triển không bền vững của du lịch nói riêng và KT-XH nói
chung.
Đối với một số loại tài nguyên như nước, rừng… hoạt động du lịch đòi
hỏi nhu cầu cao.
- Phát triển phải gắn liền với nỗ lực bảo tồn tính đa dạng: Tính đa dạng
về thiên nhiên, về văn hóa và xã hội là nhân tố đặc biệt quan trọng tạo nên sự
hấp dẫn của du lịch, làm thỏa mãn nhu cầu đa dạng của khách du lịch, tăng
cường sự phong phú về sản phẩm du lịch. Nơi nào có tính đa dạng cao về tự
nhiên, văn hóa và xã hội, nơi đó sẽ có khả năng cạnh tranh cao về du lịch và có
sức hấp dẫn lớn, đảm bảo cho sự phát triển. Chính vì vậy việc duy trì và tăng
cường tính đa dạng thiên nhiên, văn hóa và xã hội là hết sức quan trọng cho sự
phát triển bền vững lâu dài của du lịch và cũng là chỗ dựa sinh tồn của ngành du
lịch.
- Quy hoạch phát triển du lịch phải phù hợp với quy hoạch tổng thể KTXH của địa phương: Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên
15
vùng cao. Vì vậy mọi phương án khai thác tài nguyên để phát triển phải phù hợp
với các quy hoạch chuyên ngành nói riêng và quy hoạch tổng thể KT-XH nói
chung ở phạm vi quốc gia, vùng và địa phương. Điều này sẽ góp phần đảm bảo
cho sự phát triển bền vững của du lịch trong mối quan hệ với các ngành kinh tế
khác cũng như với việc sử dụng có hiệu quả tài nguyên.
- Chú trọng việc chia sẻ lợi ích với cộng đồng địa phương trong quá trình
phát triển: Để phát triển KT-XH nói chung và từng ngành kinh tế nói riêng thì
việc khai thác các tiềm năng tài nguyên là điều tất yếu. Tuy nhiên, thực tế cho
thấy trên một địa bàn lãnh thổ nếu mỗi ngành chỉ biết đến lợi ích của mình
không có sự hỗ trợ đối với sự phát triển kinh tế và chia sẻ quyền lợi với cộng
đồng địa phương thì sẽ làm cho kinh tế và cuộc sống của người dân địa phương
gặp nhiều khó khăn, kém phát triển. Điều này buộc cộng đồng địa phương phải
khai thác tối đa các tiềm năng tài nguyên của mình làm đẩy nhanh quá trình cạn
kiệt tài nguyên và tổn hại đến môi trường sinh thái. Kết quả các quá trình đó sẽ
gây những tác động tiêu cực đến sự phát triển bền vững của ngành du lịch nói
riêng và KT-XH nói chung. Chính vì vậy việc chia sẻ lợi ích với cộng đồng địa
phương là một nguyên tắc quan trọng trong phát triển bền vững.
- Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng địa phương vào các hoạt động
phát triển du lịch:
Việc tham gia của cộng đồng địa phương vào hoạt động du lịch không chỉ
giúp họ tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống mà còn làm cho họ có trách
nhiệm hơn với tài nguyên, môi trường du lịch, cùng ngành du lịch chăm lo đến
việc nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch. Điều này có ý nghĩa rất lớn, góp
phần quan trọng đối với sự phát triển bền vững của du lịch.
Kinh nghiệm thực tế về phát triển du lịch ở nhiều nước cho thấy sự tham
gia của địa phương là cần thiết bởi bản thân người dân địa phương, nền văn hóa,
môi trường, lối sống và truyền thống của họ là những nhân tố quan trọng thu hút
khách du lịch.
16
- Thường xuyên trao đổi tham khảo ý kiến với cộng đồng địa phương và
các đối tượng có liên quan trong quá trình phát triển du lịch: Trao đổi tham
khảo ý kiến quần chúng là một quá trình nhằm dung hòa giữa phát triển kinh tế
với những mối quan tâm lớn hơn của cộng đồng địa phương, với những tác động
tiềm ẩn của sự phát triển lên môi trường tự nhiên, văn hóa - xã hội. Sự tham
khảo ý kiến của các ngành kinh tế với cộng đồng địa phương là cần thiết để có
thể đánh giá được tính khả thi của một dự án phát triển, các biện pháp để giảm
thiểu các tác động tiêu cực và tối đa hóa sự đóng góp tích cực của quần chúng
địa phương.
Thực tế cho thấy, ở những mức độ khác nhau luôn tồn tại những mâu
thuẫn xung đột về quyền lợi trong khai thác tài nguyên phục vụ sự phát triển
giữa du lịch với cộng đồng địa phương, giữa du lịch với các ngành kinh tế khác.
Kết quả là sự thiếu trách nhiệm với tài nguyên, môi trường và sự phát triển thiếu
tính bền vững đối với KT-XH của địa phương cũng như đối với mỗi ngành kinh
tế trong đó có du lịch. Chính vì vậy, việc thường xuyên trao đổi ý kiến với cộng
đồng địa phương và các đối tượng có liên quan để cùng nhau giải quyết các mâu
thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển là hết sức cần thiết. Điều này sẽ đảm
bảo sự gắn kết và có trách nhiệm hơn giữa các ngành kinh tế với địa phương và
giữa các ngành với nhau, góp phần tích cực cho sự phát triển bền vững của mỗi
ngành, trong đó có du lịch.
- Tăng cường tính trách nhiệm trong hoạt động xúc tiến du lịch: Hoạt
động quảng cáo, tiếp thị thiếu trách nhiệm sẽ tạo cho khách những hy vọng
không thực tế do thông tin không đầy đủ và thiếu chính xác dẫn đến sự thất vọng
của du khách về các sản phẩm du lịch được quảng cáo. Kết quả của hoạt động
này sẽ là thái độ tẩy chay của du khách đối với cộng đồng và những sản phẩm
du lịch của địa phương ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài của du lịch. Việc
quảng cáo, tiếp thị cung cấp cho khách du lịch những thông tin đầy đủ và có
trách nhiệm sẽ nâng cao sự tôn trọng của du khách đối với môi trường thiên
nhiên, văn hóa - xã hội và các giá trị nhân văn nơi tham quan; đồng thời sẽ làm
17
tăng đáng kể sự thỏa mãn của khách đối với các sản phẩm du lịch. Điều này sẽ
góp phần làm giảm những tác động tiêu cực từ hoạt động thu hút khách, đảm
bảo cho tính bền vững trong phát triển du lịch.
1.2. Vai trò của chính quyền địa phương trong phát triển du lịch trên
địa bàn Tỉnh
1.2.1. Chính quyền địa phương:
a. Khái niệm.
Từ góc độ của 1 quốc gia, địa phương là một không gian địa lý chính trị
gồm các yếu tố văn hóa, lịch sử và dân cư; có cơ cấu kinh tế, bộ máy hành chính
quản lý chịu chi phối về chính sách chung của chính quyền Trung ương.
Ở Việt Nam, trong hệ thống quản lý nhà nước có sự phân cấp giữa chính
quyền Trung ương và chính quyền địa phương (tỉnh, huyện, xã) khá rõ nét. Sự
phân cấp này tạo nên vai trò và những ràng buộc trách nhiệm nhất định trong
hoạt động của chính quyền địa phương.
Trong hệ thống chính quyền địa phương, chính quyền cấp tỉnh là cấp hành
chính cao nhất trong 3 cấp chính quyền (tỉnh, huyện, xã). Chính quyền cấp tỉnh
có nhiệm vụ xây dựng quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển KT-XH của
địa phương làm cơ sở cho hoạt động của chính quyền cấp huyện, cấp xã dựa trên
cơ sở chiến lược phát triển KT-XH chung của cả nước và điều kiện thực tiễn của
mỗi địa phương. Quy hoạch, kế hoạch, chính sách mà chính quyền cấp tỉnh
quyết định sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển nói chung của cả tỉnh, và sẽ
góp phần phát huy, tận dụng những tiềm năng sẵn có, hạn chế những yếu kém
và tồn tại của địa phương. Trong khi đó, chính quyền TW ban hành những chủ
trương, chính sách, biện pháp ở tầm vĩ mô, khó có thể điều tiết ở tầm vi mô đối
với các tỉnh. Vì vậy, những quy hoạch, kế hoạch, chính sách này sẽ góp phần
phát huy, tận dụng được những thế mạnh, tiềm năng sẵn có và hạn chế, khắc
phục những yếu kém, tồn tại của địa phương.
Với 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, chính quyền cấp tỉnh ngày
càng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của mình trong bộ máy chính quyền
18
địa phương nói riêng và bộ máy nhà nước nói chung. Chính quyền cấp tỉnh bao
gồm HĐND tỉnh, UBND tỉnh và các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh.
HĐND tỉnh là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện ý chí
và quyền làm chủ của nhân dân trong tỉnh, chịu trách nhiệm trước nhân dân
trong tỉnh và cấp trên. Đây là nơi quyết định quy hoạch, kế hoạch, chủ trương,
biện pháp nhằm triển khai thực hiện các văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước
cấp trên và phát triển địa phương.
UBND tỉnh là cơ quan chấp hành của HĐND tỉnh, cơ quan hành chính
nhà nước trong tỉnh. UBND tỉnh có nhiệm vụ xây dựng quy hoạch, kế hoạch
phát triển KT-XH của tỉnh, chỉ đạo thực hiện, kiểm tra và quản lý mọi lĩnh vực
tại địa phương.
Hệ thống các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh là các cơ quan tham
mưu, giúp UBND tỉnh triển khai thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo ngành,
lĩnh vực ở địa phương và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự ủy
quyền của ƯBND tỉnh và theo quy định của pháp luật. Các cơ quan này hoạt
động theo cơ chế trên nguyên tắc “song trùng trực thuộc”, có ý nghĩa là chịu sự
quản lý đồng thời của hai cơ quan cấp trên trực tiếp: (1) theo sự quản lý của
ngành dọc (Bộ, ngành TW); (2) theo sự quản lý của lãnh thổ theo chiều ngang
(UBND tỉnh).
Các cơ quan quản lý nhà nước trên có mối quan hệ với nhau, tạo thành hệ
thống chính quyền cấp tỉnh, điều hành, tổ chức thực hiện các chức năng, nhiệm
vụ ở các lĩnh vực khác nhau tại địa phương.
b. Vai trò của chính quyền địa phương.
Chính quyền tỉnh có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội
ở địa phương, trên cơ sở chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước, chính quyền địa phương giữ trọng trách đưa ra những biện
pháp phù hợp nhằm phát huy những thế mạnh của địa phương, đồng thời khắc
phục những hạn chế, yếu kém. Sự phát triển kinh tế của các tỉnh là bằng chứng
xác thực nhất cho năng lực và hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương.
19
Rõ ràng khi đánh giá về tốc độ phát triển kinh tể của các tỉnh, vai trò của chính
quyền cấp tỉnh, nhất là đội ngũ lãnh đạo tỉnh được tập trung chú ý nhiều hơn.
Chính quyền cấp tỉnh đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tiến bộ
và công bằng xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội, phát triển nguồn nhân lực vì
mục tiêu phát triển con người. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
vai trò của chính quyền cấp tỉnh được thể hiện ở hai nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, Chính quyền cấp tỉnh là cấp quan trọng trong hệ thống chính
quyền địa phương trong việc triển khai thực hiện chính sách, pháp luật của TW
về phát triển kinh tế ở địa phương. Vai trò đó thể hiện trên một số khía cạnh: 1Chính quyền cấp tỉnh xây dựng khung pháp lý thuận lợi, minh bạch cho các chủ
thế kinh tế trên cơ sở chính sách, pháp luật của TW và điều kiện cụ thể của địa
phương; 2- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện các quy hoạch, kế hoạch, giải pháp
phát triển KT-XH của địa phương; 3- Cải cách thủ tục hành chính và áp dụng hệ
thống quản lý chất lượng theo TCVN ISO 9001:2008 vào hoạt động của địa
phương; 4- Đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong việc phát triển KTXH; 5- Tham gia hợp tác kinh tể (liên kết vùng, họp tác thương mại quốc tế.. .).
Thứ hai, Chính quyền cấp tỉnh là cấp quan trọng trong việc khắc phục
những hạn chế yếu kém của nền kinh tế tại địa phương. Chính quyền địa phương
trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh đã trở thành quan trọng, thể
hiện ở phạm vi quyền hạn được mở rộng, trách nhiệm được nâng cao. Với vai
trò đó, giữa các tỉnh đã có sự ganh đua nhau để thu hút vốn đầu tư nhằm phục vụ
mục tiêu phát triến KT-XH nhanh và bền vững. Chính sự ganh đua ấy được thể
hiện thông qua nỗ lực của chính quyền cấp tỉnh đưa ra các giải pháp điều hành
kinh tế và tạo môi trường thuận lợi để nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh.
Vai trò của chính quyền địa phương được thể hiện như bảng mô tả sau: