Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về những chuẩn mực đạo đức con người việt nam và vân dụng tư tưởng đó xây dựng đạo đức con người việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.49 KB, 11 trang )

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN NHĨM 6
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cơ
bản của con người Việt Nam và sự vận dụng tư tưởng đó vào việc
xây dựng đạo đức, đường lối của con người Việt Nam ngày nay.
ĐỀ CƯƠNG
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.
1. Quan điểm về vai trò của đạo đức cách mạng.
2. Những phảm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại
mới.
2.1. Trung với nước, hiếu với dân.
2.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư.
2.3. Thương u con người
2.4. Tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung
3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới.
3.1. Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
3.2. Xây đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi.
3.3. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
II. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức vào việc xây dựng con người
Việt Nam mới hiện nay.
1. Bồi dưỡng thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh.
2. Nêu cao tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có ý thức vươn lên trong lao
động, học tập, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
3. Biết giữ gìn đạo đức, nhân phẩm, lương tâm, danh dự


I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.
1. Quan điểm về vai trò của đạo đức cách mạng
Xuất phát từ những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, chắt lọc tinh hoa đạo đức của
nhân loại, đặc biệt là đạo đức học mácxít và tấm gương đạo đức của V.I.Lê-nin, bước chân vào


con đường cách mạng, Hồ Chí Minh quan tâm hàng đầu việc giáo dục đạo đức cách mạng cho
mọi người. Những bài giảng đầu tiên của Người cho thế hệ thanh niên yêu nước đầu tiên ở Việt
Nam theo con đường cách mạng vô sản là những bài giảng về tư cách của người mạng. Vì sao
Hồ Chí Minh lại đặc biệt quan tâm tới điều này? Vì theo Người con người cần đạo đức, cách
mạng cần đạo đức, rất cần đạo đức. Giá trị nhân đạo là cái gắn bó lồi người thành một khối đồn
kết anh em vững chắc từ buổi bình minh của văn minh. Khẳng định cách mạng Việt Nam là cách
mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vơ sản, Hồ Chí Minh hiểu rõ rằng, cách
mạng muốn thắng lợi, cùng với gíac ngộ chính trị, tăng cường sức mạnh tổ chức, thì nhất định
phải có sức mạnh về đạo đức bằng sự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức. Tư cách của người cách mạng
là cái cần có đầu tiên khi dấn thân vào con đường cách mạng vô sản và để đưa sự nghiệp cách
mạng vô sản đến thắng lợi. Người quan tâm đạo đức cách mạng một cách nhất quán, xuyên suốt
từ những năm hai mươi đến tận cuối đời. Trước lúc vĩnh biệt chúng ta, Người dặn lại trong Di
chúc những điều tâm huyết về Đảng và đạo đức cách mạng. Người viết: trước hết nói về Đảng và
việc cần làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho đảng viên, đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra
sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, tồn tâm tồn ý phục vụ nhân dân. Người nhấn
mạnh Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn đảng ta thật trong sạch,
phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân... Bồi dưỡng thế
hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết. Đảng cần phải chăm lo giáo
dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội
vừa “hồng” vừa “chuyên”. Chúng ta cần hiểu đúng đắn, đầy đủ lời dặn dò trên đây của Bác.
Trước hết nói về Đảng và trước tiên chỉnh đốn lại Đảng vì Đảng là đội tiên phong của giai
cấp cơng nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng ta là một
đảng cầm quyền, mà đảng cầm quyền là vì dân, để cho dân làm chủ. Đảng cầm quyền nhưng lấy
dân là gốc. Đảng cầm quyền thì mọi sai đúng về đường lối, tư tưởng, chủ trương của Đảng, phẩm
chất tốt xấu của đảng viên, cán bộ trở thành tấm gương của xã hội, tác động đến vận nước.
Gương sáng thì dân noi theo, gương mờ thì lịng dân ly tán. Đảng cầm quyền tạo ra một bước
nhảy vọt về chất trong quy luật đi lên của một đảng vô sản, từ chỗ đập tan chế độ cũ đến chỗ xây
dựng chế độ mới. Mà giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền cịn khó hơn. Cũng như vậy,

thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ, thắng nghèo nàn lạc hậu cịn khó hơn nhiều. Cơng
việc xây dựng là một cuộc chiến đấu khổng lồ. Để hoàn thành nhiệm vụ mới, Đảng phải nâng cao
năng lực lãnh đạo, cầm quyền, biểu hiện trong việc đổi mới tư duy, phương pháp, tổ chức lực
lượng, hành vi cách mạng... So với khi chưa cầm quyền, đảng cầm quyền – thông qua việc nắm
quyền để lãnh đạo cách mạng – cán bộ, đảng viên thường mắc nhiều căn bệnh, xuất hiện những
nguy cơ. Đó là óc lãnh tụ, óc hẹp hịi, bệnh “hữu danh vô thực”, kéo bè kéo cánh, bệnh xu nịnh a
dua, bệnh tham ơ, hủ hố, lãng phí xa hoa, tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao tự
đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán chuyên quyền, quan liêu mệnh
lệnh,v.v..
Tại sao khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền lại dễ sinh ra nhiều căn bệnh? Vì Đảng cũng từ
trong xã hội mà ra. Mà xã hội ta trước năm 1945 là một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, nhiều
căn bệnh của xã hội đó, bằng nhiều cách, tiếp tục lây ngấm vào cơ thể Đảng và mỗi cán bộ, đảng
viên. Mặt khác, đảng cầm quyền là có quyền lực, đó là quyền lực chính trị lãnh đạo đất nước,
lãnh đạo xã hội. Cán bộ, đảng viên cũng có quyền, nếu khơng ý thức được mặt tích cực của
quyền lực thì rất dễ bị quyền lực làm hư hỏng, tha hoá, sa vào quan liêu, tham nhũng. Với một
tầm nhìn xa trơng rộng về đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đã có ý thức từ sớm chữa căn bệnh này


bằng cách quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, làm cho Đảng và mỗi cán
bộ, đảng viên xứng đáng là đạo đức, là văn minh.
Đảng ta là đảng cách mạng, đảng vô sản, đảng chân chính, đảng cầm quyền, nên việc thấm
nhuần và tu dưỡng đạo đức là phải thật sự. Tại sao? Vì đối lập với thật sự là giả dối, lừa lọc,
hình thức, giả nhân giả nghĩa, đó là bản chất đạo đức của giai cấp bóc lột. Hồ Chí Minh chỉ ra
rằng, giai cấp phong kiến nói cần, kiệm, liêm, chính nhưng không bao giờ thực hiện, chúng bắt
nhân dân ta thực hiện để phục vụ lợi ích cho chúng. Cịn chúng ta nói cần, kiệm, liêm, chính thì
chúng ta làm và hướng dẫn nhân dân làm để phục vụ lợi ích nhân dân.
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới đạo đức trên hai phương diện lý luận và hành vi. Về lý
luận, Người để lại cho chúng ta một hệ thống chuẩn mực đạo đức toàn diện và sâu sắc. Về hành
vi, Người là tấm gương sáng, mẫu mực về nói đi đơi với làm, nói ít làm nhiều, hoặc khơng nói
mà thể hiện bằng hành vi chứa đựng trong đó những phẩm chất đạo đức sáng ngời.

Hồ Chí Minh luôn giáo dục mọi người tu dưỡng cả đức lẫn tài. Theo Người, con người cần
cả đức và tài, trong đó đức làm gốc. Có đức mà khơng có tài thì giống như ơng bụt trên chùa,
khơng làm hại ai, cũng khơng đem lại lợi ích gì cho mọi người. Có tài mà khơng có đức thì
khơng những khơng đem lại lợi ích gì mà cịn có hại cho nước, cho dân. Là đạo đức mới, đạo đức
cách mạng, nên khơng chỉ có tài có đức, mà tài càng cao thì đức càng phải lớn. Đặc biệt cần hiểu
đạo đức cách mạng là những tính tốt gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Ở đây cần chú ý
trí là “khơng có việc tư túi nó làm mù qng, nên đầu óc trong sạch, sáng suốt. Dễ hiểu lý luận.
Dễ tìm phương hướng. Biết xem người. Biết xét việc. Vì vậy mà biết làm việc có lợi, tránh việc
có hại cho Đảng, biết vì Đảng mà cất nhắc người tốt, đề phịng người gian”. Trí hiểu như vậy là
một biểu hiện của tài. Đây là một nhận thức rất quan trọng khi nói tư tưởng Hồ Chí Minh “lấy
đức làm gốc” thì phải hiểu trong đức có tài.
Sự quan tâm đạo đức của Hồ Chí Minh được thể hiện một cách tồn diện tới mọi tầng lớp
nhân dân, mọi mơi trường, mọi mối quan hệ, trong phạm vi dân tộc và quốc tế. Đạo đức đó thể
hiện sự thống nhất giữa chính trị và đạo đức, đức và tài, tư tưởng và hành vi, đạo đức cách mạng
và đạo đức đời thường.
Điều có ý nghĩa quan trọng là Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh tới vai trị, vị trí của đạo đức
cách mạng. Theo Người, đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng. Người khơng có đạo
đức cũng giống như cây khơng có gốc, sơng khơng có nguồn, người khơng có sức mạnh để gánh
nặng đường xa. Vì vậy, người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy
cũng khơng lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho lồi người
là một cơng việc to tát, mà tự mình khơng có đạo đức, khơng có căn bản, tự mình đã hủ hố, xấu
xa thì cịn làm nổi việc gì? Đạo đức cách mạng làm nên sức mạnh vĩ đại chiến thắng kẻ thù. Đạo
đức cách mạng là thước đo lòng cao thượng của con người theo ý nghĩa: “Ai giữ được đạo đức
thì người đó có lịng cao thượng”.
2. Những phảm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới.
2.1. Trung với nước, hiếu với dân.
Kể từ lúc còn là người dân xứ thuộc địa ra đi tìm đường cứu nước cho đến lúc đã trở thành vị
Chủ tịch đầu tiên của Nhà nước Việt Nam độc lập, trong con người Hồ Chí Minh ln ln
thường trực bốn chữ “Yêu nước, thương dân”. Vì yêu nước, thương dân tha thiết mà ngay từ
những ngày đầu tiên hoạt động trên đất Pháp, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã

lấy tên là Nguyễn Ái Quốc. Yêu nước, thương dân đối với Người, lúc bấy giờ là đấu tranh cho
nước nhà độc lập, tự do, dân ta được giải phóng khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân. Vì
yêu nước, thương dân mà những bài báo của Nguyễn Ái Quốc thời đó đã có sức mạnh to lớn,
khơng chỉ là những bản cáo trạng đanh thép đối với chủ nghĩa thực dân và chế độ thuộc địa mà
còn là lời kêu gọi hùng hồn các dân tộc bị áp bức ở các nước thuộc địa vùng lên đấu tranh cho
độc lập và quyền sống của mình. Vì yêu nước, thương dân mà trong quá trình tìm đường cứu
nước, nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc đã từ chủ nghĩa yêu nước chân chính, tiến lên nắm bắt
những tư tưởng lớn của thời đại, bắt gặp chủ nghĩa xã hội và gắn kết chặt chẽ độc lập dân tộc với


chủ nghĩa xã hội, mở ra con đường xán lạn cho sự nghiệp cứu nước, cứu dân, đồng thời làm cho
tư tưởng đạo đức yêu nước, thương dân càng thêm sâu sắc và phong phú hơn.
Trong đạo đức Hồ Chí Minh, khơng có sự cắt rời nào giữa hai loại tình cảm yêu nước và
thương dân, hay yêu Tổ quốc và yêu đồng bào. Bởi Tổ quốc và nhân dân (hay dân tộc) là một.
Khơng có Tổ quốc nào khơng có nhân dân. Cũng khơng có nhân dân nào khơng có Tổ quốc của
mình. Tổ quốc có độc lập thì nhân dân mới có tự do, hạnh phúc. Nhân dân có tự do, hạnh phúc
thì độc lập của Tổ quốc mới vững bền. Điều đó đã được biểu thị rõ ràng trong quốc hiệu và tiêu
ngữ của Tổ quốc ta: “Việt Nam dân chủ cộng hòa” nay là “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”, “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Với tiêu ngữ ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng có câu
nói nổi tiếng mà ngày nay và mai sau cịn vang vọng mãi: “Tơi chỉ có một sự ham muốn, ham
muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hồn tồn tự do, đồng
bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Yêu nước, thương dân khơng phải là phẩm chất riêng có trong đạo đức Hồ Chí Minh. Cũng
như vậy, các khái niệm và phạm trù đạo đức về nhân, nghĩa, trí, dũng, về cần, kiệm, liêm, chính,
chí cơng, vơ tư, về lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, về lòng nhân ái và khoan dung,... mà chúng
ta từng đề cập trong đạo đức Hồ Chí Minh, đều là những giá trị đạo đức đã có trong nền văn hóa
phương Đơng từ hàng nghìn năm nay, trong Nho giáo và trong các đạo giáo khác,... Qua các thời
đại lịch sử, các giá trị ấy đã trở thành tài sản chung của nhân loại, nhưng nội dung đã có nhiều
thay đổi.
Ơng cha ta, qua nhiều triều đại phong kiến nối tiếp, nhờ tiếp thu có chọn lọc và phát huy các

giá trị đạo đức ấy, kết hợp chặt chẽ với truyền thống dân tộc mà đã góp phần tạo nên nhiều thời
kỳ thịnh trị. Trong tư tưởng đạo đức của mình, Hồ Chí Minh đã sử dụng nhiều khái niệm và
phạm trù đạo đức từng quen thuộc với dân tộc Việt Nam từ lâu đời, nhưng biết chắt lọc tinh hoa,
đồng thời gạt bỏ những gì hạn chế và đã lỗi thời, đưa vào đấy những nhân tố tích cực, những nội
dung mới, bổ sung những khái niệm và phạm trù đạo đức của thời đại mới. Chính vì vậy mà
những giá trị đạo đức ấy đã hòa nhập với những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, tạo nên
một nền đạo đức mới - đạo đức cách mạng - làm cho mỗi người Việt Nam đều cảm thấy gần gũi
và dễ tiếp thu.
Vào thời kỳ đất nước đã giành lại được độc lập, tự do, nhân dân trở thành người chủ của đất
nước, Đảng ta trở thành đảng cầm quyền thì đối với cán bộ, đảng viên, yêu nước, thương dân
cũng có sự phát triển mới về chất. Từ yêu thương trở thành trung, hiếu - trung với nước, hiếu với
dân. Trước kia, theo quan niệm cũ, trung là trung quân, là trung thành với vua; trung thành với
vua cũng có nghĩa là trung thành với nước, vì vua với nước là một, vua là nước, nước là của vua.
Vua xử quan chết, quan khơng chết là khơng trung. Cịn hiếu thì chỉ thu hẹp trong phạm vi gia
đình, là con cái phải hiếu thảo với cha mẹ. Ngày nay, theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thì
trung phải là trung với nước, hiếu phải là hiếu với dân. Trung với nước là trung thành với sự
nghiệp giữ nước và dựng nước, trung thành với lợi ích tối cao của Tổ quốc. Nước ở đây là nước
của dân, còn dân lại là chủ nhân của đất nước. Bác Hồ nói:
“Nước ta là nước dân chủ, Bao nhiêu lợi ích đều vì dân,Bao nhiêu quyền hạn đều của
dân...Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Như vậy, nước không đồng nhất với người đứng đầu đất nước, mặc dù người đứng đầu ấy là
do dân bầu ra, và là một nhân vật tiêu biểu. Dân không phải là người để nhà cầm quyền sai khiến
và chỉ bảo mà là người chủ của đất nước, tức là người trực tiếp hay gián tiếp bầu ra các cơ quan
lãnh đạo và người lãnh đạo của các cấp để thay mặt mình quản lý cơng việc chung, đồng thời
chịu sự kiểm tra và giám sát của mình. Cán bộ, đảng viên phải là “người đầy tớ” của nhân dân,
tức là người phục vụ nhân dân, tuyệt đối không phải là “quan nhân dân để đè đầu cưỡi cổ nhân
dân”. Tư tưởng “hiếu với dân” khơng cịn dừng lại ở chỗ thương dân với tính chất là đối tượng
cần phải dạy bảo, dẫn dắt, ban ơn mà là đối tượng phải phục vụ hết lịng. Bác nói: “Đã phụng sự
nhân dân, thì phải phụng sự cho ra trị. Nghĩa là việc gì lợi cho dân, thì phải làm cho kỳ được.
Việc gì hại cho dân, thì phải hết sức tránh”. So với trước, quan niệm về nước và về dân trong tư

tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đã hồn tồn đổi khác.


Với tư tưởng trung với nước, hiếu với dân, Bác Hồ căn dặn cán bộ, đảng viên phải suốt đời
hy sinh phấn đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, nhiệm vụ nào cũng
hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Bác nói “điều chủ chốt
nhất” của đạo đức cách mạng là “quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”, là
“tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”, là trung với nước, hiếu với dân, hơn nữa là “tận
trung, tận hiếu” thì mới xứng đáng “vừa là người lãnh đạo vừa là đày tớ thật trung thành của
nhân dân”.
Bản thân Bác Hồ là một tấm gương trong suốt về trọn đời vì nước, vì dân.
Tháng 8-1950, trong thư gửi họ Nguyễn Sinh, khi cụ Nguyễn Sinh Khiêm qua đời, Bác viết:
“Nghe tin Anh cả mất, lịng tơi rất buồn rầu. Vì việc nước nặng nhiều, đường sá xa cách, lúc
anh đau yếu tôi không thể trông nom, lúc anh tạ thế tôi không thể lo liệu.
Than ôi! Tôi chịu tội bất đệ trước linh hồn anh và xin bà con nguyên lượng cho một người
con đã hy sinh tình nhà vì phải lo việc nước”.
Năm 1969, trong Di chúc để lại trước lúc đi xa, Bác viết: “Suốt đời tơi hết lịng hết sức phục
vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tơi khơng có
điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
Sự thật là, với tư tưởng Hồ Chí Minh và tấm gương đạo đức của Người, di sản vô giá mà
Người để lại cho muôn đời con cháu, Bác Hồ vẫn đang và sẽ tiếp tục là người phục vụ đắc lực
nhất cho Tổ quốc, cho cách mạng và cho nhân dân.
2.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư.
Nâng cao đạo đức cách mạng là nâng cao các đức tính cần kiệm liêm chính, nhân nghĩa trí
dũng, chí cơng vơ tư. Đó là những phẩm chất lấy mình làm đối tượng để giải quyết vấn đề đạo
đức.
Cần được hiểu là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai.
Kiệm là tiết kiệm, khơng xa xỉ, khơng hoang phí, khơng bừa bãi. Tiết kiệm không phải là bủn
xỉn.
Liêm là trong sạch, khơng tham danh, địa vị, quyền hành, vật chất.

Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn.
Cần, kiệm, liêm, chính trước hết là thước đo trình độ “Người”, chất người của một con
người, là thước đo đạo đức cơng dân. Điều đó giống như 4 mùa của trời, 4 phương của đất“thiếu một mùa thì khơng thành trời, thiếu một phương thì khơng thành đất, thiếu một đức thì
khơng thành người”.
Cần kiệm, liêm, chính lại càng cần thiết, quan trọng hơn đối với cán bộ, đảng viên. Vì sao?
Vì cán bộ, đảng viên được hiểu như “hai con người trong một con người”. Trước hết, đó là một
cơng dân, và cùng với cơng dân, con người đó là cán bộ, đảng viên. Mà cán bộ, đảng viên, tất
nhiên, có vai trị, vị trí, sứ mệnh nặng nề hơn người dân thường. Là cán bộ, đảng viên, lại là cán
bộ, đảng viên có chức có quyền, hơn nữa lại quyền to, chức lớn, nếu mắc sai lầm, khuyết điểm
thì khơng chỉ ảnh hưởng tới cá nhân, mà cịn ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, đến sự nghiệp cách
mạng. Mặt khác, “cán bộ các cơ quan, đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù
to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công
vi tư”. Vấn đề mấu chốt cần nhận thức ở đây, đã là người trong các công sở thì đều có nhiều hoặc
ít quyền hành. Khi đã có quyền hành và vì có quyền hành, nếu khơng giữ đúng cần kiệm liêm
chính, thì như Hồ Chí Minh đã chỉ ra, “dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”. Như vậy,
gốc rễ của tham nhũng là quyền lực và tham nhũng chủ yếu và trước hết cũng là tham nhũng
quyền lực. Hồ Chí Minh nhấn mạnh nội dung đầu tiên của chữ liêm là không tham danh, địa vị,
quyền hành. Vì dựa vào địa vị, quyền hành mới tham nhũng được lợi ích vật chất. Người dùng
chữ nhũng lạm theo nghiã như vậy, tức là lạm dụng quyền lực để tham nhũng. Thực tiễn cho
thấy, một người dân thường vẫn có lịng tham (vì đã là con người thì có tốt xấu, thiện ác trong
lịng), nhưng vì khơng có địa vị, quyền hành, nên khơng thể tham nhũng, đục khoét người khác
và cũng không ai hối lộ cho. Tư tưởng Hồ Chí Minh cho thấy quyền lực có hai cách sử dụng.


Một là, người có đạo đức thì dùng quyền lực phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng và không
tham quyền cố vị, không màng tới danh lợi bản thân. Đó là mẫu người theo phong cách, tấm
gương Hồ Chí Minh. Hai là, người khơng có đạo đức, bị quyền lực làm tha hố (xa rời lý tưởng),
thì dùng quyền lực để mưu cầu cho lợi ích cá nhân. Đó là hạng người cậy quyền, lợi dụng quyền
lực, lạm dụng quyền lực, say mê quyền lực, chạy theo quyền lực, tranh giành quyền lực, tham
quyền cố vị. Vì vậy, muốn chữa tham nhũng, phải chữa nơi quyền lực.

Cần, kiệm, liêm, chính cịn được hiểu là thước đo sự giàu có về vật chất, văn minh tiến bộ
của một dân tộc. Bởi vì, “một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm là một dân tộc giàu về vật chất,
mạnh về tinh thần, một dân tộc văn minh tiến bộ”. Cần, kiệm, liêm, chính , vì vậy, là “nền tảng
của đời sống mới, của Thi đua ái quốc”; là cái cần thiết để “làm việc, làm người, làm cán bộ,
phụng sự đoàn thể, giai cấp, nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”. Với ý nghĩa sâu xa, rộng lớn như
vậy, “cần kiệm liêm chính là đặc điểm của xã hội hưng thịnh. Những điều trái lại là đặc điểm của
xã hội suy vong” như Phạm Văn Đồng nhận xét.
Thực hành chữ cần đi liền với chữ kiệm. Cần mà khơng kiệm thì như một cái thùng khơng có
đáy. Đồng thời phải chun, chống lười biếng, chống làm việc thiếu kế hoạch, thiếu phân công.
Phân công phải nhằm vào hai điều: công việc và nhân tài. Về nhân tài, người nào có năng lực làm
việc gì thì đặt vào việc ấy. Nếu dùng khơng đúng, người giỏi nghề thợ mộc thì giao cho việc thợ
rèn, người giỏi nghề rèn thì giao cho việc thợ mộc, như thế thì hai người đều thất bại cả hai.
Thực hành chữ kiệm thì phải đi liền với chữ cần. Kiệm mà khơng cần thì khơng tăng thêm,
khơng phát triển được. Đã khơng tiến tức là thối. Thời gìơ cũng cần phải tiết kiệm như của cải,
vì “một tấc bóng là một thước vàng”, “thời giờ tức là tiền bạc”. Ai đưa thời giờ vứt đi là người
ngu dại. Tiết kiệm phải kiên quyết không xa xỉ, chống lãng phí, phải biết tổ chức thì mới tiết
kiệm được sức lực, thời giờ và vật liệu.
Thực hành chữ liêm cũng phải đi đơi với chữ kiệm. Vì xa xỉ mà sinh tham lam. Phải chống
bất liêm. Có nhiều biểu hiện bất liêm: Tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng là bất liêm.
Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là đạo vị (đạo là trộm), là trái với chữ liêm.
Bất liêm tức là trộm cắp. “Người mà không liêm không bằng súc vật” (Khổng Tử). “Ai cũng
tham lợi thì nước sẽ nguy” (Mạnh Tử).
Thực hành chữ chính phải dựa trên nền tảng, gốc rễ của cần, kiệm, liêm. Đó mới là người
hồn tồn. Thực hành chữ chính đi liền với chống tà, ác như lười biếng, xa xỉ, tham lam. Thực
hành chữ chính trên ba mặt. Một là, đối với mình thì chớ tự kiêu, tự đại, luôn cầu tiến bộ, luôn tự
kiểm điểm, tự phê bình và hoan nghênh người khác phê bình mình. “Mình có đứng đắn, mới tề
được gia, trị được quốc, bình được thiên hạ” (Khổng Tử). Hai là, đối với người thì phải u q,
kính trọng, giúp đỡ. Chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh người dưới. Phải học người và giúp
người tiến tới. Ba là, đối với việc thì phải để việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà. Việc
thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh. Bất kỳ việc to, việc nhỏ, phải

có sáng kiến, kế hoạch, cẩn thận, quyết tâm.
Chí cơng vơ tư là khơng nghĩ đến mình trước, hưởng thụ đi sau, là “lịng mình chỉ biết vì
Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào”. Đó chính là nội dung của chủ nghĩa tập thể, trái ngược với chủ
nghĩa cá nhân. Vì vậy, thực hành chí công vô tư là phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa
cá nhân là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt, nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Nó là một
thứ vi trùng rất độc, đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: tham ơ, lãng phí, hủ hố, xa hoa, tham danh trục
lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán
chuyên quyền, quan liêu mệnh lệnh,v.v.. Chủ nghĩa cá nhân trong mọi dịp thất bại hoặc thắng lợi
đều có thể ngóc đầu dậy. Nó là một kẻ địch nguy hiểm, đồng minh của các kẻ địch khác. Muốn
chống các kẻ địch khác, trước hết phải chống chủ nghĩa cá nhân, phải thắng giặc trong lòng. Chủ
nghĩa cá nhân không chỉ nguy hại cho cá nhân , mà còn nguy hại cho Đảng và dân tộc: “Một dân
tộc, một Đảng và mỗi con người ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, khơng nhất định
hơm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi nếu lịng dạ khơng trong sáng
nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Tóm lại, “chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của
cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”.


2.3. Thương yêu con người
Hồ Chí Minh thương yêu con người với một tình cảm sâu sắc, vừa bao la rộng lớn, vừa gần
gũi thân thương đối với một từng đối tượng con người. Hồ Chí Minh ln sống giữa cuộc đời và
khơng có cái gì thuộc về con người đối với Hồ Chí Minh lại là xa lạ. Người quan tâm đến tư
tưởng, công tác, đời sống của từng người, việc ăn, việc mặc, việc ở, học hành, giải trí của mỗi
người dân, khơng qn, khơng sót một ai, từ người những người bạn thuở hàn vi, đến những
người quen mới. Tình u thương con người của Hồ Chí Minh luôn gắn liền với hành động cụ
thể, phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do hạnh phúc của con người.
2.4. Tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung
“Bốn phương vơ sản đều là anh em”, đó là nhận định của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tinh thần
quốc tế vô sản. Tinh thần này bao gồm tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với các dân tộc
bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, với những người tiến bộ trên thế giới vì hịa bình,

cơng lý và tiến bộ xã hội. Tinh thần này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh dày cơng vun đắp bằng
các hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc.
Theo Bác Hồ, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Nếu tinh thần u
nước khơng chân chính và tinh thần quốc tế khơng trong sáng thì có thể dẫn đến chủ nghĩa dân
tộc hẹp hịi, chủ nghĩa sơvanh, biệt lập, kỳ thị chủng tộc, hoặc chủ nghĩa bành trướng, bá quyền.
Tất cả những khuynh hướng lệch lạc ấy có thể dẫn đến sự đổ vỡ của một quốc gia dân tộc hay
một liên bang đa quốc gia dân tộc, phá vỡ tình đồn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chung...
Tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm chất, là yêu cầu đạo đức nhằm vào mối quan hệ rộng lớn.
Không phải đối với bất cứ ai, vào bất cứ lúc nào cũng thấy được tinh thần quốc tế có hay khơng,
trong sáng hay không trong sáng. Nhưng việc giáo dục của Đảng và việc rèn luyện của cá nhân
mỗi người về tinh thần quốc tế lại không thể coi nhẹ.
Đường lối lãnh đạo của Đảng và những chủ trương, chính sách cụ thể của Nhà nước có ý nghĩa
định hướng đúng đắn cho việc bồi dưỡng tinh thần quốc tế ở mỗi người. Học tập và làm theo tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về chủ nghĩa quốc tế vơ sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước là thiết
thực góp phần đưa Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới.
3.1. Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức đầy đủ ý nghĩa của việc “nói thì phải làm”,
xem đây là một tiêu chí để đánh giá phẩm chất, tư cách của con người, đặc biệt là đối với người
làm cách mạng. Trong tác phẩm “Đường Cách Mệnh” được Bác viết năm 1927, có một mục “Tư
cách người cách mạng”. Trong 23 điều của “Tư cách người cách mạng”, ở điều thứ 10, Bác ghi
rõ “Nói thì phải làm”.
“Nói thì phải làm” hoặc “Nói đi đơi với làm” là một truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân
tộc ta, và là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để trở thành con người trung thực, dũng cảm,
đáng tin cậy. Kế thừa truyền thống đạo đức của dân tộc, Bác Hồ đã nâng lên thành quan điểm
đạo đức của người cách mạng, tư cách của người cán bộ, đảng viên. “Nói thì phải làm” đối lập
với nói mà khơng làm hoặc “nói một đằng làm một nẻo” của những kẻ hứa suông qua chuyện,
những kẻ cơ hội, không đáng tin cậy. Đây là căn bệnh nguy hiểm trong đội ngũ cán bộ, đảng
viên, là nguy cơ gây mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng mà Bác đã cảnh báo. Bác dạy:
“Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “Cộng sản” mà ta được họ yêu mến.

Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình
phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. Người cán bộ, đảng viên chỉ khi nói được, làm


được, mới được nhân dân tin yêu và đi theo. Do đó “nói thì phải làm” là một chuẩn mực đạo đức,
là tư cách của mỗi người cán bộ, đảng viên.
Bác Hồ của chúng ta là một tấm gương tiêu biểu về đức tính “nói thì phải làm” và khi làm
là làm đến nơi, đến chốn, Bác khuyên cán bộ, đảng viên phải cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ
tư, thì cuộc đời của Người là tấm gương sáng mẫu mực, tuyệt vời về đức tính đó. Người phát
động nhân dân lập hũ gạo cứu đói, thì Người gương mẫu và nghiêm túc thực hiện mười ngày
nhịn ăn một bữa để đem gạo đó biếu dân nghèo. Người phát động “Tết trồng cây” để lấy gỗ làm
nhà và cải thiện mơi trường, thì vào Tết Ngun đán hàng năm Người đều tham gia trồng cây đều
đặn. Người phát động nhân dân chống hạn, chống úng, thì chính Người trực tiếp tham gia cùng
nhân dân tát nước chống hạn ở Hà Đông và chống lụt ở Hải Dương; Người khuyên cán bộ, đảng
viên phải thường xuyên học tập, học ở mọi nơi, mọi lúc, học ở mọi người, học suốt đời “học để
làm việc, làm người, làm cán bộ”, thì chính Người là một tấm gương tiêu biểu, trong những ngày
cuối đời mặc dù nằm trên giường bệnh nhưng Bác vẫn cịn học tiếng Tây Ban Nha v.v… Đó
khơng phải là đức tính của một anh hùng giải phóng dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, mà
theo Bác đó là một đức tính cần có đối với mỗi người cán bộ, đảng viên.
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, chúng ta khơng nên nghĩ học tập và
làm theo Người những việc làm to lớn, cao xa của bậc vĩ nhân của nhân loại, mà chúng ta nên bắt
đầu học tập và làm theo từ những việc làm nhỏ bé, bình thường, cụ thể trong đời sống sinh hoạt
và làm việc thường nhật của chúng ta, mà “nói thì phải làm” là việc khơng khó đối với tất cả mọi
người. Mỗi cán bộ, đảng viên hãy nghiêm túc tự kiểm điểm lại mình đã thực hiện tốt việc “nói thì
phải làm” chưa, để từ đó có biện pháp và quyết tâm sửa chữa.
Nói đi đơi với làm và làm có hiệu quả, vì lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc là một nội dung
trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi cơ quan, đơn vị muốn nói đi đơi với
làm và làm có hiệu quả thì ngồi tấm lịng trung thực, dũng cảm, còn phải kết hợp giữa chủ
trương, biện pháp đúng đắn và đầy đủ với ý chí phấn đấu, quyết tâm thực hiện cao độ, chứ không
chỉ đọng ở lời nói. Dù chủ trương có tốt đến mấy, biện pháp hay đến mấy, nhưng khơng thực

hiện thì cũng vơ nghĩa. Do đó, Người dạy “chủ trương 1, biện pháp 10, quyết tâm 20”, nghĩa là
chủ trương đúng là rất quan trọng nhưng chưa đủ, phải có những biện pháp cụ thể và quyết tâm
tổ chức thực hiện để nói và làm có hiệu quả. Vì từ lời nói tới việc làm bao giờ cũng phải trải qua
những chặng đường gian nan, khơng có quyết tâm cao tổ chức thực hiện thì khơng thể biến chủ
trương đúng thành hiện thực. Đây là mục tiêu mà Đảng, Nhà nước ta quyết tâm thực hiện để lấy
lại niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước ta
trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Xây đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi.
Xuất phát từ những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, chắt lọc tinh hoa đạo đức của
nhân loại, đặc biệt là đạo đức học mácxít và tấm gương đạo đức của V.I.Lê-nin, bước chân vào
con đường cách mạng, Hồ Chí Minh quan tâm hàng đầu việc giáo dục đạo đức cách mạng cho
mọi người. Những bài giảng đầu tiên của Người cho thế hệ thanh niên yêu nước đầu tiên ở Việt
Nam theo con đường cách mạng vô sản là những bài giảng về tư cách của người mạng. Vì sao
Hồ Chí Minh lại đặc biệt quan tâm tới điều này? Vì theo Người con người cần đạo đức, cách
mạng cần đạo đức, rất cần đạo đức. Giá trị nhân đạo là cái gắn bó lồi người thành một khối đồn
kết anh em vững chắc từ buổi bình minh của văn minh. Khẳng định cách mạng Việt Nam là cách
mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vơ sản, Hồ Chí Minh hiểu rõ rằng, cách
mạng muốn thắng lợi, cùng với gíac ngộ chính trị, tăng cường sức mạnh tổ chức, thì nhất định
phải có sức mạnh về đạo đức bằng sự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức. Tư cách của người cách mạng
là cái cần có đầu tiên khi dấn thân vào con đường cách mạng vô sản và để đưa sự nghiệp cách
mạng vô sản đến thắng lợi. Người quan tâm đạo đức cách mạng một cách nhất quán, xuyên suốt


từ những năm hai mươi đến tận cuối đời. Trước lúc vĩnh biệt chúng ta, Người dặn lại trong Di
chúc những điều tâm huyết về Đảng và đạo đức cách mạng. Người viết: trước hết nói về Đảng và
việc cần làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho đảng viên, đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra
sức làm trịn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, tồn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Người nhấn
mạnh Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn đảng ta thật trong sạch,
phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân... Bồi dưỡng thế

hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết. Đảng cần phải chăm lo giáo
dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội
vừa “hồng” vừa “chuyên”. Chúng ta cần hiểu đúng đắn, đầy đủ lời dặn dị trên đây của Bác.
Trước hết nói về Đảng và trước tiên chỉnh đốn lại Đảng vì Đảng là đội tiên phong của giai
cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng ta là một
đảng cầm quyền, mà đảng cầm quyền là vì dân, để cho dân làm chủ. Đảng cầm quyền nhưng lấy
dân là gốc. Đảng cầm quyền thì mọi sai đúng về đường lối, tư tưởng, chủ trương của Đảng, phẩm
chất tốt xấu của đảng viên, cán bộ trở thành tấm gương của xã hội, tác động đến vận nước.
Gương sáng thì dân noi theo, gương mờ thì lòng dân ly tán. Đảng cầm quyền tạo ra một bước
nhảy vọt về chất trong quy luật đi lên của một đảng vô sản, từ chỗ đập tan chế độ cũ đến chỗ xây
dựng chế độ mới. Mà giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền cịn khó hơn. Cũng như vậy,
thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ, thắng nghèo nàn lạc hậu cịn khó hơn nhiều. Công
việc xây dựng là một cuộc chiến đấu khổng lồ. Để hoàn thành nhiệm vụ mới, Đảng phải nâng cao
năng lực lãnh đạo, cầm quyền, biểu hiện trong việc đổi mới tư duy, phương pháp, tổ chức lực
lượng, hành vi cách mạng... So với khi chưa cầm quyền, đảng cầm quyền – thông qua việc nắm
quyền để lãnh đạo cách mạng – cán bộ, đảng viên thường mắc nhiều căn bệnh, xuất hiện những
nguy cơ. Đó là óc lãnh tụ, óc hẹp hịi, bệnh “hữu danh vơ thực”, kéo bè kéo cánh, bệnh xu nịnh a
dua, bệnh tham ô, hủ hố, lãng phí xa hoa, tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao tự
đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán chuyên quyền, quan liêu mệnh
lệnh,v.v..
Tại sao khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền lại dễ sinh ra nhiều căn bệnh? Vì Đảng cũng
từ trong xã hội mà ra. Mà xã hội ta trước năm 1945 là một xã hội thuộc địa nửa phong kiến,
nhiều căn bệnh của xã hội đó, bằng nhiều cách, tiếp tục lây ngấm vào cơ thể Đảng và mỗi cán bộ,
đảng viên. Mặt khác, đảng cầm quyền là có quyền lực, đó là quyền lực chính trị lãnh đạo đất
nước, lãnh đạo xã hội. Cán bộ, đảng viên cũng có quyền, nếu khơng ý thức được mặt tích cực của
quyền lực thì rất dễ bị quyền lực làm hư hỏng, tha hoá, sa vào quan liêu, tham nhũng. Với một
tầm nhìn xa trơng rộng về đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đã có ý thức từ sớm chữa căn bệnh này
bằng cách quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, làm cho Đảng và mỗi cán
bộ, đảng viên xứng đáng là đạo đức, là văn minh.

Đảng ta là đảng cách mạng, đảng vô sản, đảng chân chính, đảng cầm quyền, nên việc thấm
nhuần và tu dưỡng đạo đức là phải thật sự. Tại sao? Vì đối lập với thật sự là giả dối, lừa lọc,
hình thức, giả nhân giả nghĩa, đó là bản chất đạo đức của giai cấp bóc lột. Hồ Chí Minh chỉ ra
rằng, giai cấp phong kiến nói cần, kiệm, liêm, chính nhưng khơng bao giờ thực hiện, chúng bắt
nhân dân ta thực hiện để phục vụ lợi ích cho chúng. Cịn chúng ta nói cần, kiệm, liêm, chính thì
chúng ta làm và hướng dẫn nhân dân làm để phục vụ lợi ích nhân dân.
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới đạo đức trên hai phương diện lý luận và hành vi. Về lý
luận, Người để lại cho chúng ta một hệ thống chuẩn mực đạo đức toàn diện và sâu sắc. Về hành
vi, Người là tấm gương sáng, mẫu mực về nói đi đơi với làm, nói ít làm nhiều, hoặc khơng nói
mà thể hiện bằng hành vi chứa đựng trong đó những phẩm chất đạo đức sáng ngời.
Hồ Chí Minh ln giáo dục mọi người tu dưỡng cả đức lẫn tài. Theo Người, con người cần
cả đức và tài, trong đó đức làm gốc. Có đức mà khơng có tài thì giống như ơng bụt trên chùa,
khơng làm hại ai, cũng khơng đem lại lợi ích gì cho mọi người. Có tài mà khơng có đức thì
khơng những khơng đem lại lợi ích gì mà cịn có hại cho nước, cho dân. Là đạo đức mới, đạo đức
cách mạng, nên khơng chỉ có tài có đức, mà tài càng cao thì đức càng phải lớn. Đặc biệt cần hiểu


đạo đức cách mạng là những tính tốt gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Ở đây cần chú ý
trí là “khơng có việc tư túi nó làm mù quáng, nên đầu óc trong sạch, sáng suốt. Dễ hiểu lý luận.
Dễ tìm phương hướng. Biết xem người. Biết xét việc. Vì vậy mà biết làm việc có lợi, tránh việc
có hại cho Đảng, biết vì Đảng mà cất nhắc người tốt, đề phịng người gian”. Trí hiểu như vậy là
một biểu hiện của tài. Đây là một nhận thức rất quan trọng khi nói tư tưởng Hồ Chí Minh “lấy
đức làm gốc” thì phải hiểu trong đức có tài.
Sự quan tâm đạo đức của Hồ Chí Minh được thể hiện một cách toàn diện tới mọi tầng lớp
nhân dân, mọi môi trường, mọi mối quan hệ, trong phạm vi dân tộc và quốc tế. Đạo đức đó thể
hiện sự thống nhất giữa chính trị và đạo đức, đức và tài, tư tưởng và hành vi, đạo đức cách mạng
và đạo đức đời thường.
Điều có ý nghĩa quan trọng là Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh tới vai trị, vị trí của đạo
đức cách mạng. Theo Người, đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng. Người khơng có
đạo đức cũng giống như cây khơng có gốc, sơng khơng có nguồn, người khơng có sức mạnh để

gánh nặng đường xa. Vì vậy, người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi
mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho lồi
người là một cơng việc to tát, mà tự mình khơng có đạo đức, khơng có căn bản, tự mình đã hủ
hố, xấu xa thì cịn làm nổi việc gì? Đạo đức cách mạng làm nên sức mạnh vĩ đại chiến thắng kẻ
thù. Đạo đức cách mạng là thước đo lòng cao thượng của con người theo ý nghĩa: “Ai giữ được
đạo đức thì người đó có lịng cao thượng”.
3.3. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời, kiên trì, bền bỉ, hàng ngày, bởi vì “đạo đức cách mạng khơng
phải trên trới sa xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển củng cố. Cũng
như ngọc càng ngày càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Hồ Chí Minh cũng chỉ ra một hiện
tượng mà đến nay chúng ta càng thấm thía vì tính thời sự của nó, đó là có những người trong lúc
đấu tranh thì trung thành khơng sợ nguy hiểm cực khổ…có cơng với cách mạng, xong đến khi có
“ít quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ơ, lãng phí, quan liêu…mà
biến thành người có tội với cách mạng.

II. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức vào việc xây dựng con người
Việt Nam mới hiện nay.
1. Bồi dưỡng thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh.
khi vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, cần nhận thức đó là một hệ thống quan điểm toàn
diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cần vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh vào
cơng tác hàng ngày của mỗi tổ chức và cá nhân.
2. Nêu cao tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có ý thức vươn lên trong lao động, học
tập, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định: dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là sức
mạnh vơ địch để chiến thắng lũ cướp nước và lũ bán nước. Chủ nghĩa yêu nước là giá trị truyền
thống ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Yêu quê hương, xứ sở, xóm làng, gắn bó và cố kết cộng
đồng, hướng về dân, lấy dân làm gốc, tự hào lịch sử văn hố ơng cha…
Đảng ta nhấn mạnh: “đi vào kinh tế thị Đảng ta xác định: “tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa

trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá làm cho thế giới quan Mác – LêNin và tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội”.
Nắm vững phương pháp luận biện chứng duy vật giúp con người khi xem xét sự vật, hiện tượng
khách quan một cách đúng đắn, tránh cho ta mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí, tuỳ tiện trong
hoạt động thực tiễn. Yêu cầu trường, hiện đại hoá đất nước mà xa rời những giá trị truyền thống
sẽ làm mất bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình…”
Hiện nay yêu nước với yêu chủ nghĩa xã hội là một; kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội;
đồng thời biết tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng tiên tiến của thời đại.


3. Biết giữ gìn đạo đức, nhân phẩm, lương tâm, danh dự
Hồ Chí Minh coi đạo đức cách mạng là gốc; đức gắn với tài. Chỉ có như vậy mới phục vụ
được nhiệm vụ chính trị mới đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đến thắng lợi
Nâng cao trí tuệ, trước hết phải nắm vững và vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; những thành tựu của thời đại và thế giới vào thực tiễn cách mạng Việt Nam,
tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới đất nước.
Giữ gìn đạo đức trong tình hình mới, trước hết phải quán triệt tư tưởng và tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh. Phải thấy được mối quan hệ giữa đạo đức với kinh tế trong đó quan điểm phát
triển kinh tế là điều kiện thiết yếu, là cơ sở để xây dựng một xã hội văn minh phát triển văn hoá
đạo đức. Phải thấy được đặc điểm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay vừa có hội nhập, hợp tác, vừa có đấu tranh



×