Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Phân tích nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí hành chính nhà nước và đánh giá việc vận dụng nguyên tắc này trong quản lí hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.6 KB, 14 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

MÔN LUẬT HÀNH CHÍNH VIỆT NAM
Đề 1: Phân tích nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí hành
chính nhà nước và đánh giá việc vận dụng nguyên tắc này trong quản lí hành chính
nhà nước ở nước ta hiện nay.

Họ và tên: Nguyễn Thái Sơn
Mã số sinh viên: 371028
Lớp 3710

Hà Nội, 2012

1


Đề 2: Phân tích nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí hành
chính nhà nước và đánh giá việc vận dụng nguyên tắc này trong quản lí hành chính
nhà nước ở nước ta hiện nay.
MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ……………………………………………………………….Tr 1
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ…………………………………………………….Tr 2
I. NGUYÊN TẮC NHÂN DÂN LAO ĐỘNG THAM GIA ĐÔNG ĐẢO VÀO
QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC………………………………………..Tr 2
1. Cơ sở của nguyên tắc…………………………………………………...Tr 2
2. Biểu hiện của nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí
hành chính nhà nước…………………………………………………………….Tr 3


II.VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC NHÂN DÂN LAO ĐỘNG THAM GIA ĐÔNG
ĐẢO VÀO QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC…………………………...Tr 5
1. Mặt tích cực…………………………………………………………….Tr 5
2. Mặt hạn chế……………………………………………………………..Tr 7
III. NGUYÊN NHÂN DẪN TỚI HẠN CHẾ TRONG VẬN DỤNG NGUYÊN
TẮC NHÂN DÂN LAO ĐỘNG THAM GIA ĐÔNG ĐẢO VÀO QUẢN LÍ HÀNH
CHÍNH NHÀ NƯỚC………………………………………………………..…..Tr 8
IV. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM ĐẢM BẢO VẬN DỤNG HIỆU QUẢ CỦA
NGUYÊN TẮC NÀY VÀO QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC………….Tr 9
C.KẾT LUẬN………………………………………………………………..…Tr 10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

2


A.ĐẶT VẤN ĐỀ

Quản lí nhà nước trong lĩnh vực hành pháp là quản lí hành chính nhà nước. Quản
lí hành chính nhà nước là một hình thức hoạt động của nhà nước, có nội dung là đảm
bảo sự chấp hành luật, pháp lệnh nghị quyết của các cơ quan quyền lực nhà nước,
nhằm tổ chức và chỉ đạo trực tiếp và thường xuyên công việc xây dựng kinh tế văn
hóa xã hội và hành chính nhà nước. Quản lí hành chính nhà nước phải được tiến hành
trên những nguyên tắc nhất định. Một trong những nguyên tắc cơ bản trong quản lí
hành chính nhà nước là “ nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản
lí hành chính nhà nước”. Nguyên tắc này cụ thể hóa nguyên tắc tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân được nhà nước ta ghi nhận và đảm bảo trong Điều 2 và Điều
3 Hiến Pháp 1992 ( sửa đổi, bổ sung năm 2001). Đây là sự thừa nhận của nhà nước
về tầm quan trọng của quyền này trong đời sống chính trị của công dân, là cơ sở pháp
lí để công dân phát huy tính tích cực của mình ở nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó
có quản lí nhà nước trong lĩnh vực hành pháp hay quản lí hành chính nhà nước, và là

cơ sở pháp lí cho nguyên tắc nhân dân lao động tham gia vào quản lí hành chính nhà
nước. Để tìm hiểu sâu hơn nguyên tắc này cũng như việc vận dụng nguyên tắc này
trong quản lí hành chính nhà nước, em chọn đề số 2: “Phân tích nguyên tắc nhân
dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí hành chính nhà nước và đánh giá
việc vận dụng nguyên tắc này trong quản lí hành chính nhà nước ở nước ta hiện
nay”.

3


B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. NGUYÊN TẮC NHÂN DÂN LAO ĐỘNG THAM GIA ĐÔNG ĐẢO VÀO
QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.
1. Cơ sở của nguyên tắc
a. Cơ sở thực tiễn
Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất của nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Do đó chỉ khi nào
người dân thực sự đóng vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động quản lí của nhà
nước thì việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền mới thực sự thành công.
Lịch sử nước ta là một minh chứng rõ ràng nhất và chính xác nhất cho bản chất của
nhà nước ta. Mọi nội dung, nhiệm vụ đều xuất phát từ nguyện vọng của nhân dân,
phục vụ cho lợi ích của nhân dân, chính vì vậy việc khẳng định nhân dân lao động
tham gia đông đảo vào quản lí nhà nước nói chung và quản lí hành chính nhà nước
nói riêng chính là khẳng định bản chất của nhà nước cũng như là biện pháp xây dựng
nhà nước pháp chế xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
b.Cơ sở pháp lí
Với bản chất dân chủ sâu sắc, nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân được nhà nước ta ghi nhận và đảm bảo thực hiện. Nhà nước xã hội chủ nghĩa do
chính nhân dân lao động tổ chức để thực hiện quyền lực của mình. Nó là một tổ chức
được lập ra nhằm phát huy tài năng, sức lực của người lao động trong việc gánh vác

các công việc của nhà nước và xã hội nhằm phục vụ cho chính họ. Ghi nhận nội dung
này, Điều 2 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) nêu rõ: “Nhà nước cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà
nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.
Để nhân dân thực sự là người làm chủ đất nước, việc tạo điều kiện cho nhân dân
lao động tham gia đông đảo vào hoạt động quản lí hành chính nhà nước ta ghi nhận
tại Điều 3 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001): “Nhà nước đảm bảo và
4


không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân” , quyền được tham
gia vào quản lí các công việc của nhà nước và xã hội là quyền cơ bản của công dân
được Hiến pháp ghi nhận và đã phát huy được trong thực tế. Bên cạnh đó nguyên tắc
này còn được thể hiện thông qua các quy định sau của Hiến pháp 1992 ( sửa đổi, bổ
sung năm 2001) : “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội
đồng nhân dân…” (Điều 6), “ Công dân có quyền tham gia quản lí nhà nước và xã
hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với
cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý” ( Điều 53).
Bảo đảm sự tham gia của công dân vào công việc quản lí nhà nước nói chung và
quản lí hành chính nhà nước nói riêng, ngoài những quy định tại Hiến pháp 1992
(sửa đổi, bổ sung năm 2001) còn được ghi nhận tại những bộ luật: Luật bầu cử Quốc
hội và Hội đồng nhân dân, Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ
chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật, Luật khiếu nại, tố cáo, Luật phòng, chống tham nhũng, trong đó quy định cụ thể
các điều kiện, hình thức, phương pháp để nhân dân tham gia vào hoạt động quản lí
hành chính của nhà nước cùng với đó là các luật về các tổ chức chính trị - xã hội như
Luật Công đoàn, Luật Thanh niên, Luật mặt trận tổ quốc cụ thể hóa quy định của
Hiến pháp về vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội tham gia công việc quản lí nhà
nước…

2. Biểu hiện của nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí
hành chính nhà nước.
a. Tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước
Trước hết, có thể khẳng định tham gia vào các cơ quan nhà nước là hình thức
tham gia tích cực, trực tiếp và có hiệu quả của người lao động vào hoạt động
quản lí hành chính nhà nước ( QLHCNN ) bởi các cơ quan trong bộ máy nhà nước là
công cụ để thực hiện quyền lực nhà nước. Người lao động nếu đáp ứng đầy đủ các
yêu cầu mà pháp luật quy định đều có thể tham gia vào hoạt của các cơ quan nhà
nước để trực tiếp hay gián tiếp thực tiện công việc QLHCNN trên các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Người lao động có thể tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà
nước thông qua các con đường sau:
5


- Với tư cách là thành viên cơ quan nhà nước – những đại biểu được lựa
chọn thông qua con đường bầu cử như là được bầu làm Đại biểu Quốc hội, Đại
biểu hội đồng nhân dân các cấp,...
- Với tư cách là cán bộ, công chức, nhân dân lao động tham gia vào hoạt
động của các cơ quan nhà nước khác như: cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan
kiểm sát, cơ quan xét xử,…
- Người lao động có thể gián tiếp tham gia vào hoạt động của các cơ quan
nhà nước thông qua việc thực hiện quyền lựa chọn những đại biểu xứng đáng thay
măt mình vào cơ quan quyền lực nhà nước ở trùng ương hay địa phương.
b.Tham gia vào hoạt động của các tổ chức xã hội
Điều 9 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: “Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân”. Điều này có nghĩa, nhân dân lao động không chỉ tham gia vào hoạt động
của các cơ quan nhà nước mà còn tham gia vào hoạt động của các tổ chức xã hội.
Bên cạnh đó, nhà nước cũng giúp đỡ về vật chất, tinh thần để các tổ chức xã hội thực
sự trở thành công cụ đắc lực của nhân dân lao động trong việc thực hiện quyền tham

gia QLHCNN của mình.
c.Tham gia vào hoạt động tự quản ở cơ sở
Ở nơi cư trú, sinh hoạt, làm việc, nhân dân lao động thường xuyên thực hiện
các hoạt động mang tính chất tự quản như là tham gia hoạt động bảo vệ an ninh trật
tự, vệ sinh môi trường, tổ chức đời sống công cộng… Những hoạt động này đều
gần gũi với nhân dân, do nhân dân lao động tự thực hiện và chúng có mối liên quan
chặt chẽ với các công việc khác nhau của quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Thông qua những hoạt động mang tính chất tự quản mà người dân lao động
là những chủ thể tham gia tích cực, quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã
hội của người dân mà pháp luật đã quy định thực sự được tôn trọng và đảm bảo
thực hiện. Nhà nước cũng đã tạo điều kiện về vật chất và tinh thần để phát huy vai
trò chủ động, tích cực của nhân dân lao động trong việc tham gia những hoạt động
có tính chất tự quản nêu trên

6


d.Trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lí
hành chính nhà nước.
Điều 53 của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định
công dân có quyền “tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa
phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý
dân”. Để thực hiện quyền cơ bản này, pháp luật đã quy định những quyền và nghĩa
vụ cụ thể của công dân trong các lĩnh vực khác nhau của QLHCNN. Bên cạnh việc
thực hiện các quyền và nghĩa vụ này thông qua hoạt động của các cơ quan nhà
nước, các tổ chức xã hội, việc trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ cũng là
một hình thức tham gia vào QLHCNN của nhân dân lao động.
II. VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC NHÂN DÂN LAO ĐỘNG THAM GIA ĐÔNG
ĐẢO VÀO QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1. Mặt tích cực

a. Tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Nhân dân trực tiếp tham gia vào quản lí nhà nước chủ yếu với tư cách là cán bộ,
công chức. Do đó để đáp ứng cho nhân dân có thể tham gia vào quản lí nhà nước với
tư cách này, nhà nước đã đưa ra luật cán bộ, công chức, nêu ra rõ nhiệm vụ, chức
năng của cán bộ, công chức trong quản lí hành chính nhà nước. Luật cán bộ, công
chức ( CB-CC ) có hiệu lực từ ngày 01/01/2010. Theo những quy định của luật này,
thì làm một người CB-CC sẽ không hề đơn giản. Để tham gia vào hoạt động quản lí
hành chính nhà nước được tốt, nhà nước cũng yêu cầu cán bộ, công chức phải là
những người có cả phẩm chất đạo đức tốt và năng lực làm việc cao.
Nếu như trước đây, vấn đề đạo đức và văn hóa giao tiếp của CB-CC chủ yếu được
quy định dựa trên quy chế của cơ quan, đơn vị, thì với luật CB-CC nhằm thực hiện
chủ trương xây dựng và quản lí đội ngũ công chức có đủ phẩm chất, năng lực, trình
độ vấn đề đạo đức và văn hóa giao tiếp đã được đưa thẳng vào luật ( Điều 15,16,17
Luật CB-CC ).
Việc tuyển dụng CB-CC vào nước ta hiện nay còn quá nhiều bất cập và kẽ hở bởi
nhiều lí do khách quan, chủ quan nên đã tạo ra ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng
của đội ngủ CB-CC. Thực trạng này đặt ra yêu cầu phải đánh gia công chức và quan
7


trọng hơn là kết quả đánh giá phải được phục vụ cho chính công cuộc cải tổ của đội
ngũ công chức.
Người lao động có thể gián tiếp tham gia hoạt động vào cơ quan nhà nước thông
qua quyền lựa chọn những đại biểu xứng đáng thay mặt mình vào cơ quan quyền lực
nhà nước ở trung ương hay địa phương. Vì vậy, nhân dân đã tích cực thực hiện
quyền bầu cử của mình.
b.Tham gia vào hoạt động của tổ chức xã hội.
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của các tổ chức xã hội có ý nghĩa quan trọng trong
đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Là bộ phận của hệ thống chính trị,
các tổ chức xã hội đã góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước,

phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Các tổ chức xã hội rất đã dạng về
hình thức và tên gọi như: Liên hiệp hội, tổng hội, liên đoàn, hiệp hội. Ví dụ: Hội liên
hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh, Hội nhà văn, Hội nhà báo… Các tổ chức
xã hội này đã thu hút được số lượng lớn nhân dân tham gia. Chúng ta có thể lấy ví dụ
như Hội liên hiệp phụ nữ đã thu hút được gần 11 triệu hội viên. Các tổ chức xã hội có
vai trò quan trọng trong việc giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân, trước hết là các
thành viên trong đó. Thông qua những quy định trong điều lệ hoạt động của tổ chức
xã hội, thông qua hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật thường xuyên đối với
các thành viên, các tổ chức xã hội luôn hướng tới nâng cao ý thức cho nhân dân.
c.Tham gia vào hoạt động tự quản ở cơ sở.
Trong các phong trào hoạt động tự quản của nhân dân ở cơ sở, chúng ta phải kể
tới phong trào toàn dân tham gia phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật ở cơ
sở. Phong trào toàn dân tham gia phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật đã thu
được những kết quả tốt. Thực tế những năm qua cho thấy, nhiều vụ việc tiêu cực,
tham nhũng trong bộ máy nhà nước cũng như các vụ án nghiêm trọng đã kịp thời
được phát hiện và xử lí từ nguồn tin được quần chúng câp báo.
Chúng ta có thể kể ra được một số mô hình nhân dân tham gia phòng, chống tội
phạm đạt được kết quả tốt như: “Thôn, xóm, bản, làng, khu dân cư không có tệ nạn
xã hội” ở Thanh Hóa; “Hộ tự quản, số nhà tự phòng”, “Ba quản, bốn giữ” ở thành

8


phố Hà Nội; “thanh niên tình nguyện phòng chống tội phạm ma túy” , “ phường, xã,
ấp, tổ dân phố không có tội phạm ẩn nấp” ở thành phố Hồ Chí Minh….
d.Trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lí
hành chính nhà nước.
- Hoạt động kiểm tra, giám sát trực tiếp của nhân dân đối với bộ máy nhà nước,
đặc biệt ở các cấp cơ sở đã có nhiều chuyển biến tích cực.
Quyền kiểm tra, giám sát trực tiếp đối với hoạt động của mọi cơ quan và nhân

viên trong bộ máy nhà nước là quyền hiến định của nhân dân. Mặc dù cho đến nay
vẫn chưa có được một cơ chế pháp lí hiệu quả để nhân dân thực hiện rộng rãi và đầy
đủ quyền này nhưng trong thời gian qua việc kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với
cán bộ, công chức nhà nước, đặc biệt là tại các cấp cơ sở đã có nhiều hình thức hợp lí
và đạt được nhiều kết quả nhất định. Thông qua việc kiểm tra, giám sát nhiều người
dân đã mạnh dạn tố cáo khi phát hiện thấy những hành vi vi phạm pháp luật cũng
như đạo đưc công vụ của các cán bộ, công chức nhà nước trong các cơ quan thẩm
quyền.
Ngoài ra để tăng cường hiệu lực kiểm tra giám sát của nhân dân đối với cán bộ,
công chức nhà nước tại cơ sở, thực hiện nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 7/7/2003
của Chính Phủ, nhiều địa phương đã tổ chức rộng rãi việc lấy phiếu tín nhiệm đối với
chủ tịch hội đồng nhân dân và chủ tịch ủy ban nhân dân tại các xã, phường, thị trấn.
Thông qua hoạt động này, người dân đã có nhiều cơ hội hơn để góp ý, phê bình, chất
vấn và thực hiện sự tín nhiệm của mình đối với các chức danh chủ chốt của chính
quyền cơ sở. Thông qua việc bỏ phiếu tín nhiệm của cử tri, các chức danh chủ chốt
của chính quyền xã có tỉ lệ số phiếu tín nhiệm thấp dưới 50% số người tham gia thì
sẽ bị hội đồng nhân dân xã đưa ra bãi nhiệm theo quy định của pháp luật.
2.Mặt hạn chế
-Ý thức, thái độ của nhiều người dân trong việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo
còn nhiều bất cập.
Trong những người tham gia khiếu nại, tố cáo còn nhiều trường hợp vì thiếu hiểu
biết hoặc cố chấp mà cố tình khiếu nại kéo dài, vượt cấp, tố cáo sai sự thật… Thậm
chí một số phần tử quá khích coi thường pháp luật, ngang nhiên thách đố, xâm phạm
9


trụ sở cơ quan công quyền, xúc phạm, đe dọa và hành hung những người thi hành
công vụ.
-Về phía nhà nước, cơ quan, công chức nhà nước còn thiếu trách nhiệm trong việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Thậm chí còn có tình trạng cố tình bao che,

dây dưa kéo dài trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo gây bất bình trong dư luận và
làm giảm sút niềm tin và tâm huyết của nhân dân đối với việc tham gia quản lí hành
chính nhà nước.
-Việc đóng góp ý kiến, đề xuất kiến nghị của nhân dân đối với cơ quan nhà nước
trong quá trình tổ chức, thực hiện pháp luật vẫn còn hạn chế.
-Hệ thống văn bản pháp luật về sự tham gia trực tiếp của nhân dân và quản lí nhà
nước còn chưa hoàn thiện và thiếu đồng bộ, đặc biệt là các quy phạm pháp luật quy
định về cách thức, trình tự, thủ tục để công dân thực hiện được các quyền và nghĩa
vụ của mình đã được Hiến pháp và Luật quy định.
III.NGUYÊN NHÂN DẪN TỚI HẠN CHẾ TRONG VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC
NHÂN DÂN LAO ĐỘNG THAM GIA ĐÔNG ĐẢO VÀO QUẢN LÍ HÀNH
CHÍNH NHÀ NƯỚC.
-Trước hết , là từ nhận thức của xã hội, của những người quản lí. Mặc dù hiện nay
tư tưởng xây dựng nhà nước nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân
và vì dân đã được phổ biến trong xã hội, nhưng việc nhận thức đúng về tư tưởng này
vẫn còn khoảng cách.
-Thứ hai, quy định pháp lí chưa đủ mạnh và rõ để để các cơ quan nhà nước, nhất
là cơ quan đại biểu phải thực hiện các nhiệm vụ mà nhân dân ủy quyền và để nhân
dân kiểm soát sự ủy quyền của mình, cũng như để nhân dân tham gia trực tiếp nhiều
hơn vào các công việc của nhà nước.
-Thứ ba, trình độ dân trí, nhất là trình độ về pháp luật, của người dân còn rất hạn
chế. Hiện nay không chỉ kiến thức pháp luật của người dân còn thấp mà sự chấp
hành, ý thức, tinh thần của pháp luật của người dân không cao. Chính vì vậy, khi
tham gia vào các công việc quản lí nhà nước, người dân rất lung túng.
-Thứ tư, việc tổ chức các hình thức, phương thức tham gia của người dân được
các cơ quan nhà nước thực hiện cũng chưa thực sự khoa học. Nhiều văn bản quy
10


phạm pháp luật được tổ chức xin ý kiến của người dân chưa thật sự hướng vào các

đối tượng bị điều chỉnh. Việc tiếp thu, giải quyết các vấn đề mà nhân dân nêu ra
chậm và luôn bị tránh, né làm giảm lòng tin và nhiệt tình của người dân.
-Thứ năm, trình độ sử dụng công nghệ thông tin để tham gia góp ý cho các văn
bản pháp luật của nhân dân còn thấp. Sự phổ cập báo chí điện tử mới giới hạn ở các
thành phố và một số đối tượng – thường đã là cán bộ, công chức nhà nước.
IV.MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM ĐẢM BẢO VẬN DỤNG HIỆU QUẢ CỦA
NGUYÊN TẮC NÀY VÀO QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Căn cứ vào những nguyên nhân cụ thể nêu trên, chúng ta cần đề ra những biện
pháp cụ thể nhằm đảm bảo vận dụng hiệu quả các nguyên tắc này vào quản lí hành
chính nhà nước. Cụ thể:
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước. Đổi
mới cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động của các cơ quan nhà nước, mở rộng sự
công khai, minh bạch, tạo cơ hội để người dân nắm được các công việc của nhà nước
để tham gia một cách chủ động, thiết thực, có hiệu quả. Nâng cao trách nhiệm của
các cơ quan nhà nước và của công chức trong việc tiếp thu các ý kiến và nguyện
vọng của nhân dân trong hoạt động quản lí hành chính nhà nước.
Thứ hai, tiếp tục mở rộng và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Mở rộng sự
hình thành và tham gia của các hội, tổ chức phi chính phủ trong việc giải quyết các
nhu cầu của nhân dân và tích cực tham gia vào công tác quản lí nhà nước. Có các cơ
chế và phương thức để phát huy và tiếp nhận được các ý kiến phản biện của nhân dân
và của các tổ chức quần chúng.
Thứ ba, tiếp tục có biện pháp giáo dục nâng cao nhận thức, trình độ, nhất là ý thức
chính trị, tinh thần pháp luật của người dân, làm cho người dân tự giác và có ý thức
hơn nữa trong việc tham gia vào các công việc xã hội và các hoạt động quản lí nhà
nước.
Thứ tư, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng trong việc tuyên truyền, giáo
dục và tổ chức tham gia của người dân đối với việc xây dựng chính sách, pháp luật.
Ngoài ra cần phải sử dụng tốt hơn các phương tiện thông tin đại chúng.

11



C.KẾT LUẬN
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và
vì dân. Do đó, chỉ khi nào người dân thực sự đóng vai trò quan trọng trong quá trình
hoạt động quản lý của Nhà nước thì việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền mới thực sự thành công. Chính vì vậy mà Đảng, Nhà nước ta luôn luôn chủ
trương thu hút nhân dân lao động tham gia vào các hoạt động quản lý nhà nước nói
chung và quản lý hành chính nhà nước nói riêng. Nguyên tắc “Nhân dân lao động
tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước” chính là sự cụ thể hóa của chủ
trương đó nhằm hướng tới xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thực sự
là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Qua tìm hiểu những biểu hiện của nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông
đảo vào quản lí hành chính nhà nước chúng ta có thể thấy ý nghĩa vô cùng to lớn của
nguyên tắc này. Do vậy chúng ta cần phát huy hơn nữa để nhân dân có thể tham gia
vào quản lí nhà nước một cách tôt nhất.

12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình luật hành chính Việt Nam, trường đại học luật Hà Nội, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội, 2012.
2.Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Khoa luật đại học quốc gia Hà Nội, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
3.Luật hiến pháp 1992 ( sửa đổi, bổ sung năm 2001)
4.Luật cán bộ, công chức năm 2008
5.Luật tổ chức chính phủ năm 2001
6.Luật tổ chưc Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003
7. Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà

nước
Nguồn: />8. Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà
nước thực trạng và giải pháp
Nguồn: />9.Các nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước.
Nguồn: />10.Nguyên tắc quản lí hành chính
Nguồn: />
13


14



×