Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Đề tài luận văn tiểu luận tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 19 trang )

Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)
Năm 1965, cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ phát triển lên một bước mới. Trong tình hình chính quyền Giônxơn tiến
hành “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và gây chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc, các Hội nghị lần thứ 11 (tháng 3
năm 1965) và lần thứ 12 (tháng 12 năm 1965) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã phân tích một cách khoa học lực
lượng so sánh giữa ta và địch, khẳng định thất bại không tránh khỏi của đế quốc Mỹ, động viên quân đội và nhân dân cả
nước giữ vững chiến lược tiến công, nêu cao ý chí tự lực tự cường, phát huy sức mạnh của mình và ra sức tranh thủ sự
giúp đỡ quốc tế, kiên quyết đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới
thống nhất nước nhà. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, cả nước ra quân với
khí thế hào hùng, đánh thắng giòn giã những trận đầu ở Núi Thành, Vạn Tường, tiếp đó, lần lượt đập tan các cuộc phản
công chiến lược của Mỹ ở miền Nam, đồng thời giáng trả mãnh liệt những cuộc đánh phá bằng không quân của chúng
trên miền Bắc. Mùa Xuân năm 1968, giữa lúc cuộc chiến tranh của Mỹ leo thang đến đỉnh cao nhất, Hội nghị lần thứ 14
Ban Chấp hành Trung ương Đảng chủ trương mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân nhằm giáng
một đòn quyết liệt vào ý chí xâm lược của giặc Mỹ. Thắng lợi rất oanh liệt của đòn tiến công và nổi dậy táo bạo, bất ngờ
đó đã đảo lộn thế chiến lược của địch, làm phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ”, làm ung lay ý chí xâm lược của đế
quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào đàm phán với ta tại Hội nghị Pari.
Nhưng với bản chất cực kỳ tàn bạo và ngoan cố, đế quốc Mỹ không cam chịu thất bại. Từ năm 1969, chúng chuyển sang
thi hành “học thuyết Níchxơn” và chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, đồng thời tăng cường chiến tranh ở Lào và mở
rộng chiến tranh sang Campuchia. Mỹ đã sử dụng sức mạnh tối đa về quân sự kết hợp với những thủ đoạn chính trị và
ngoại giao rất xảo quyệt hòng giành thế mạnh, cô lập và bóp nghẹt cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Chống lại chiến
lược chiến tranh mới này của Mỹ, quân và dân ta, phối hợp chặt chẽ với cuộc chiến đấu của nhân dân Lào và nhân dân
Campuchia anh em, đã giáng cho địch những đòn quyết liệt. Tiếp theo chiến thắng oanh liệt trên mặt trận Đường số 9 Nam Lào, ta đã mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên khắp chiến trường miền Nam, bồi tiếp cho quân nguỵ những
đòn tiêu diệt rất nặng, phá vỡ nhiều tuyến phòng thủ kiên cố của địch ở Quảng Trị, Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ, làm
thất bại một phần quan trọng chương trình bình định nông thôn của chúng. Đồng thời ta đã đánh bại hoàn toàn cuộc chiến
tranh phá hoại lần thứ hai của Mỹ trên miền Bắc. Thắng lợi rất to lớn của cuộc Tiến công chiến lược năm 1972 và chiến
công xuất sắc của quân và dân ta đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 vào Hà Nội, Hải Phòng, cuối cùng
đã buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pari về Việt Nam, rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi nước ta.
Hiệp định Pari là một thắng lợi to lớn của nhân dân ta. Nhưng đế quốc Mỹ và nguỵ quyền Nguyễn Văn Thiệu đã phá hoại
nó một cách có hệ thống. Đánh giá đúng âm mưu của Mỹ và tay sai, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (tháng 7 năm 1973) nhận định: bất kể trong tình huống nào con đường giành thắng lợi của cách mạng miền Nam
cũng là con đường bạo lực, do đó phải nắm vững chiến lược tiến công, kiên quyết đấu tranh trên ba mặt trận quân sự,
chính trị, ngoại giao nhằm tiến lên thực hành phản công để giành toàn thắng. Trong hai năm 1973, 1974, từ sau thắng lợi


của miền Tây Nam Bộ đến chiến thắng giải phóng Thượng Đức, Phước Long, cục diện chiến trường miền Nam không
ngừng thay đổi có lợi cho ta. Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10 năm 1974(1) và đầu năm 1975(2) đã kịp thời đánh giá đúng
lực lượng so sánh giữa ta và địch trong tình hình mới, vạch rõ sự xuất hiện của thời cơ lịch sử và hạ quyết tâm chiến lược
giải phóng hoàn toàn miền Nam, đánh bại hoàn toàn chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ bằng cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.
Là bước phát triển ở giai đoạn chín muồi trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, là kết quả hợp thành của
tất cả những lực lượng, những yếu tố làm nên sức mạnh tất thắng của nhân dân ta trong cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại,
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã diễn ra với tốc độ “một ngày bằng hai mươi năm”. Chỉ trong 55
ngày đêm, với sức mạnh áp đảo cả về quân sự và chính trị, quân và dân ta đã giành được toàn thắng bằng ba trận đánh
then chốt: trận mở đầu đánh Buôn Ma Thuột giải phóng toàn bộ Tây Nguyên; trận thứ hai giải phóng Huế, Đà Nẵng và
quét sạch địch ở ven biển miền Trung; và trận kết thúc là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng Sài Gòn - Gia Định
và các tỉnh còn lại của Nam Bộ. Hơn một triệu quân nguỵ và cả bộ máy nguỵ quyền bị đập tan. Chế độ thực dân mới được
Mỹ dốc sức xây dựng qua năm đời tổng thống, hoàn toàn sụp đổ.


Trải qua hai mươi mốt năm chiến đấu, nhân dân ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới quy mô lớn
nhất, dài ngày nhất, ác liệt và dã man nhất từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Với cuồng vọng nghiền nát lực lượng cách
mạng ở miền Nam và “đẩy lùi miền Bắc trở lại thời kỳ đồ đá”, đế quốc Mỹ đã tung vào nước ta một đội quân viễn chinh
hơn 60 vạn tên gồm quân Mỹ và quân của năm nước chư hầu của Mỹ làm nòng cốt cho hơn một triệu quân nguỵ; riêng về
quân đội Mỹ, chúng đã huy động lúc cao nhất tới 68% bộ binh, 60% lính thuỷ đánh bộ, 32% lực lượng không quân chiến
thuật, 50% lực lượng không quân chiến lược. Nếu tính cả số quân đóng ở nước ngoài tham chiến ở Việt Nam thì chúng đã
sử dụng hơn 80 vạn quân Mỹ, và trong cả cuộc chiến tranh, chúng đã động viên tới 6 triệu lượt binh sĩ Mỹ, ném xuống đất
nước ta 7 triệu 850 nghìn tấn bom và tiêu tốn 352 tỷ đôla. Ngoài ra, chúng còn dùng những phát minh khoa học, kỹ thuật
mới nhất để gây vô vàn tội ác huỷ diệt đối với nhân dân ta. Ngày nay, nhìn lại tính chất và quy mô của cuộc chiến tranh,
thấy hết những lực lượng mà kẻ địch đã tung ra, những ý đồ mà chúng đã thú nhận, nhớ lại những tình huống cực kỳ phức
tạp và éo le mà con thuyền cách mạng đã vượt qua, chúng ta càng thấy vĩ đại biết bao tầm vóc và ý nghĩa của cuộc chiến
đấu chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta!
Đối với đế quốc Mỹ, đây là thất bại lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Nếu thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và kháng
chiến chống Pháp mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ, thì thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ chứng minh
trước toàn thế giới sự phá sản hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân mới là không tránh khỏi. Rõ ràng ngày nay các lực lượng

cách mạng đã lớn mạnh và có lợi thế hơn bao giờ hết. Đế quốc Mỹ không thể đóng vai sen đầm quốc tế bất cứ ở đâu mà
không bị trừng phạt, không thể xâm chiếm một tấc đất của bất kỳ nước xã hội chủ nghĩa nào, không thể đẩy lùi phong trào
giải phóng dân tộc và ngăn chặn con đường phát triển của các nước lên chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị, đường
lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của
nước ta sau khi đế quốc Mỹ thay chân thực dân Pháp đặt ách thống trị ở miền Nam, Đảng ta đã vạch ra đường lối tiến
hành đồng thời cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, giương cao
cùng một lúc hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vì giải phóng miền Nam phải bảo vệ và xây dựng miền
Bắc, và để bảo vệ, xây dựng miền Bắc phải đánh thắng giặc Mỹ ở miền Nam; hai nhiệm vụ đó được kết hợp chặt chẽ với
nhau trên phạm vi chiến lược nhằm một mục tiêu chung là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước,
thực hiện thống nhất nước nhà. Đảng tin tưởng chắc chắn rằng nhân dân ta nhất định đánh bại chiến tranh xâm lược của
tên đế quốc đầu sỏ và hoàn thành được sứ mệnh lịch sử trọng đại đó.
Một đảng thống nhất lãnh đạo một nước tạm thời bị chia cắt làm đôi tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược khác
nhau, đó là đặc điểm lớn nhất và cũng là nét độc đáo của cách mạng nước ta từ tháng 7 năm 1954 đến tháng 5 năm 1975.
Giương cao cùng một lúc hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng đã kết hợp sức mạnh chiến đấu của tiền
tuyến lớn với tiềm lực của hậu phương lớn, đã động viên đến mức cao nhất lực lượng của toàn dân, toàn quốc vào cuộc
chiến đấu cứu nước, đã kết tinh, tổng hợp và phát triển lên một trình độ mới những truyền thống cách mạng và sáng tạo
của Đảng ta và dân tộc ta.
Với hai ngọn cờ đó, cách mạng Việt Nam thể hiện chân lý sáng ngời của thời đại ngày nay là độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội phải gắn liền với nhau, kết hợp chặt chẽ cuộc chiến đấu cứu nước của nhân dân ta với thế tiến công của ba dòng
thác cách mạng, kết hợp những yêu cầu cơ bản của nhân dân ta với những mục tiêu cách mạng của nhân dân thế giới là
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Nhờ kết hợp sức mạnh của nhân dân ta với sức mạnh của thời đại,
nhờ đường lối quốc tế đúng đắn của Đảng, chúng ta đã tranh thủ được sự ủng hộ rất to lớn về tinh thần và vật chất của các
nước xã hội chủ nghĩa anh em, của tất cả các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới, tạo thành một mặt trận quốc tế
rộng lớn chưa từng có ủng hộ Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Thắng lợi của cách mạng miền Nam và của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của chiến lược tiến công.
Từ cao trào “đồng khởi” chuyển thành chiến tranh cách mạng đánh thắng chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, cách
mạng miền Nam và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là một quá trình liên tục giữ vững thế tiến công, liên tục thực hành
chiến lược tiến công. Song, trong điều kiện lấy nhỏ đánh lớn, phải biết thắng từng bước nhằm đánh bại những âm mưu
chính trị, quân sự của địch trong từng thời kỳ, đẩy lùi địch từng bước, không ngừng củng cố trận địa cách mạng, tạo thế và

lực hơn hẳn địch để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Trong quá trình ấy, Đảng luôn luôn coi trọng việc củng cố và bảo


vệ hậu phương lớn miền Bắc, nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh cứu nước. Do đó, đi đôi với đẩy
mạnh tiến công, Đảng chủ trương kiềm chế và đánh thắng bộ binh địch ở miền Nam; và khi Mỹ leo thang mở rộng chiến
tranh, Đảng chủ trương kiên quyết đánh thắng bất kỳ loại chiến tranh nào của Mỹ, đồng thời tìm cách kéo Mỹ xuống
thang từng bước, để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và lâu dài. Đi đôi với việc tổ chức lực lượng chiến
đấu trong cả nước, Đảng hết sức coi trọng việc xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng ở miền Nam. Đó là các đảng
bộ miền Nam được củng cố, tôi luyện thành những bộ tham mưu dày dạn trên tiền tuyến lớn; là khối liên minh công nông
mà Đảng ta đã dày công xây đắp trong cách mạng dân tộc dân chủ; là đội quân chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang
nhân dân, hai lực lượng chiến đấu cơ bản trong chiến tranh cách mạng; là Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam do Đảng ta lãnh đạo, mặt trận yêu nước bao gồm các đoàn thể của công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, học
sinh, trí thức, các tổ chức tôn giáo và đại biểu các dân tộc; là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt
Nam, đã cùng với Mặt trận Dân tộc giải phóng động viên và tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân miền Nam kháng
chiến cứu nước, và tranh thủ ngày càng rộng rãi sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân và chính phủ nhiều nước trên thế
giới.
Phương pháp cách mạng ở miền Nam, những vấn đề có tính quy luật của chiến tranh cách mạng chống Mỹ, cứu nước là:
sử dụng bạo lực cách mạng với hai lực lượng, lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân; tiến hành
khởi nghĩa từng phần ở nông thôn và từ khởi nghĩa phát triển thành chiến tranh cách mạng; kết hợp đấu tranh quân sự với
đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao; kết hợp khởi nghĩa của quần chúng với chiến tranh cách mạng, nổi dậy và tiến
công, tiến công và nổi dậy; đánh địch trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn đồng bằng và thành thị; đánh địch
bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận; kết hợp ba thứ quân, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh
chính quy, kết hợp đánh lớn, đánh vừa, đánh nhỏ; thực hiện làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ; nắm vững
phương châm chiến lược đánh lâu dài, đồng thời biết tạo thời cơ và nắm vững thời cơ mở những trận tiến công chiến lược
làm thay đổi cục diện chiến tranh, tiến lên thực hiện tổng tiến công và nổi dậy đè bẹp quân địch để giành thắng lợi cuối
cùng.
Tất cả những hình thức, phương pháp đấu tranh nói trên là một thể thống nhất, có quan hệ hữu cơ với nhau, tạo nên chiến
lược tổng hợp và nghệ thuật quân sự của chiến tranh cách mạng Việt Nam. Đó là kết quả rực rỡ của sự vận dụng sáng tạo
lý luận về bạo lực cách mạng và khoa học quân sự của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, phát triển

lên một trình độ mới những kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cũng như của toàn bộ cuộc đấu tranh
cách mạng từ khi Đảng ta ra đời.
Đường lối chính trị, quân sự, phương pháp tiến hành cách mạng và chiến tranh cách mạng nói trên đã tạo nên sức mạnh
tổng hợp cực kỳ to lớn để nhân dân ta đánh thắng lực lượng khổng lồ và những cố gắng chiến tranh rất cao của tên đế
quốc giàu mạnh nhất, hung bạo nhất trong thời đại ngày nay.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng miền Nam và chiến tranh chống Mỹ, cứu nước, Trung ương Đảng đã nhận rõ âm
mưu cơ bản của đế quốc Mỹ, đánh giá đúng lực lượng so sánh giữa ta và địch và đề ra những chủ trương chiến lược chính
xác, sắc bén và linh hoạt để đánh bại những âm mưu và hành động chiến tranh của Mỹ - nguỵ trong từng thời kỳ, đi đến
chiến thắng hoàn toàn chiến tranh xâm lược của chúng. Đó là thành công nổi bật về chỉ đạo chiến lược của Trung ương
Đảng. Đó cũng là thành công của công tác tổ chức chiến đấu của các cấp bộ Đảng và các cấp chỉ huy quân đội. Song,
trong một cuộc chiến tranh mà đế quốc Mỹ vừa đánh vừa dò, vừa đánh vừa thí nghiệm các chiến lược, chiến thuật của
chúng, một cuộc chiến tranh leo thang từng bước, không có tiền lệ trong lịch sử, thì việc hiểu địch, hiểu ta là một quá trình
nhận thức ngày càng sâu hơn, sát hơn, rõ ràng hơn, chắc chắn hơn, thông qua thực tế chiến đấu và những diễn biến cụ thể
của cuộc đọ sức trên chiến trường. Trên cơ sở phương hướng chiến lược đúng, hãy làm đi rồi thực tiễn sẽ cho phép ta hiểu
rõ sự vật hơn nữa. Đó là một trong những bài học quan trọng của chúng ta. Cuộc kháng chiến chống Mỹ là một kho kinh
nghiệm rất phong phú và quý báu. Sau này, cần tổ chức tốt việc tổng kết cuộc chiến tranh yêu nước của chúng ta để phát
triển và hoàn chỉnh lý luận và khoa học quân sự Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.


Thắng lợi của chúng ta chứng minh rằng trong thời đại ngày nay, khi các lực lượng cách mạng thế giới đang ở thế tiến
công, một dân tộc nước không rộng, người không đông, song đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo
của một đảng Mác - Lênin có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, lại được sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng cách mạng và
nhân dân tiến bộ trên thế giới, thì hoàn toàn có thể đánh bại mọi thế lực đế quốc xâm lược, dù đó là tên đế quốc đầu sỏ.
Thắng lợi của kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của cả hai chiến lược cách mạng được tiến hành đồng thời và
kết hợp chặt chẽ với nhau: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc,
trong đó, như Nghị quyết Đại hội lần thứ III của Đảng đã chỉ rõ và ngày nay được toàn bộ thực tiễn chứng minh, cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối với việc đánh đổ ách thống trị của đế
quốc Mỹ và tay sai, còn cách mạng xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của

toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà.
Thật vậy, không thể nào có thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nếu không có miền Bắc xã hội chủ
nghĩa, suốt mười sáu năm qua, luôn luôn cùng một lúc phải làm hai nhiệm vụ chiến lược. Đặc biệt từ năm 1965, khi Hội
nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ hàng đầu của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân, thì miền Bắc đã dốc vào chiến tranh cứu nước và giữ nước toàn bộ sức mạnh của chế độ xã hội chủ
nghĩa, và đã làm tròn một cách xuất sắc nghĩa vụ căn cứ địa cách mạng của cả nước, xứng đáng là pháo đài vô địch của
chủ nghĩa xã hội.
Trên mặt trận cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền kinh tế quốc dân, miền Bắc đã đạt được những thành tựu đáng tự
hào. Thành tựu to lớn nhất là đã thủ tiêu chế độ người bóc lột người; chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa dưới hai hình thức
toàn dân và tập thể đã được xác lập một cách phổ biến. Đến năm 1975 trong khu vực sản xuất vật chất, 99,7% tài sản cố
định đã thuộc về kinh tế xã hội chủ nghĩa; phần lớn thu nhập quốc dân cũng như sản lượng công nghiệp, nông nghiệp là
do kinh tế xã hội chủ nghĩa tạo ra.
Các giai cấp bóc lột đã bị xoá bỏ. Giai cấp công nhân, giai cấp lãnh đạo cách mạng, đã lớn lên cả về số lượng và chất
lượng. Nông dân đã trở thành một giai cấp mới, giai cấp nông dân tập thể. Khối liên minh công nông do đó được củng cố
trên một cơ sở mới, cao hơn trước. Tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa mà hầu hết được đào tạo dưới chế độ mới ngày càng
phát triển. Xã hội miền Bắc đã trở thành xã hội của những người lao động. Sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân
dân ngày một tăng thêm. Các thành phần dân tộc sống bình đẳng, đoàn kết, hoà hợp theo tinh thần của chủ nghĩa xã hội.
Phụ nữ bình đẳng với nam giới, đảm đương mọi nhiệm vụ xã hội.
Dưới ánh sáng đường lối của Đại hội lần thứ III của Đảng, thực hiện Nghị quyết của các Hội nghị lần thứ năm, thứ bảy,
thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương, chúng ta đã xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật bước đầu của chủ nghĩa xã
hội, theo hướng tiến lên một nền sản xuất lớn hiện đại và một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Trong những năm 1961-1964,
vốn đầu tư xây dựng kinh tế gấp 4,5 lần thời kỳ 1955-1957. Đến năm 1964, miền Bắc đã tự bảo đảm được lương thực về
cơ bản, tự giải quyết được 90% hàng tiêu dùng, đồng thời đã bắt đầu tạo được nguồn tích luỹ từ trong nước. Nhưng từ
năm 1965, miền Bắc phải chuyển hướng kinh tế từ thời bình sang thời chiến, và từ đó đến năm 1975 là thời kỳ chống
chiến tranh phá hoại xen kẽ với những thời kỳ ngắn khôi phục kinh tế. Mặc dù vậy, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
đã đạt được những thành quả đáng kể. Đến năm 1975, tài sản cố định trong khu vực sản xuất vật chất đã tăng lên gấp 5,1
lần so với năm 1960; số xí nghiệp công nghiệp gấp 16,5 lần số xí nghiệp năm 1955. Nhiều khu công nghiệp lớn đã và
đang hình thành. Trong cơ cấu công nghiệp đã có những cơ sở đầu tiên của các ngành công nghiệp nặng quan trọng: điện,
than, cơ khí, luyện kim, hoá chất, vật liệu xây dựng; đồng thời một số ngành công nghiệp nhẹ cũng được xây dựng; mạng
lưới giao thông phát triển.

Trong nông nghiệp, kết hợp với phong trào hợp tác hoá và nhờ thắng lợi của hợp tác hoá, hàng loạt công trình thủy lợi đã
được xây dựng, bảo đảm tưới, tiêu nước cho hàng chục vạn hécta. Quá nửa số hợp tác xã nông nghiệp đã được trang bị
máy móc nhỏ. Sản lượng điện phục vụ nông nghiệp, số máy bơm, máy kéo đều tăng lên gấp nhiều lần so với năm 1955.


Nông nghiệp đã có những cố gắng lớn trong việc áp dụng một số thành tựu và tiến bộ mới về kỹ thuật trồng trọt và chăn
nuôi, đã đạt được thành tích quan trọng về tăng năng suất lúa và tăng vụ, nhất là đã biến vụ đông - xuân thành một vụ sản
xuất ổn định, có năng suất cao.
Một mặt tiêu biểu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế phát triển với tốc độ cao, ngay cả
những năm có chiến tranh. Hệ thống trường học được mở rộng khắp thành thị và nông thôn, đồng bằng và miền núi. Xã
có trường cấp II, huyện có trường cấp III. Trên miền Bắc hiện nay cứ ba người dân có một người đi học. Đội ngũ cán bộ
khoa học, kỹ thuật và cán bộ quản lý có trình độ trên đại học, đại học và trung học chuyên nghiệp hơn 43 vạn người, tăng
19 lần so với năm 1960. Năm 1975, cứ một vạn người lao động có 1.040 lao động kỹ thuật (gồm 660 công nhân kỹ thuật,
260 cán bộ trung cấp, 120 cán bộ đại học và trên đại học). Mạng lưới y tế trải ra rộng khắp; công tác bảo vệ bà mẹ và trẻ
em được đẩy mạnh; số bác sĩ, y sĩ tăng gấp 13,4 lần, số giường bệnh tăng 2,3 lần so với năm 1960. Hoạt động văn hoá,
nghệ thuật cũng phát triển trên nhiều mặt với nội dung lành mạnh, đã cổ vũ quần chúng đấu tranh và sản xuất vì độc lập,
tự do, vì chủ nghĩa xã hội, và góp phần xây dựng cuộc sống mới, con người mới, mà hàng nghìn anh hùng, chiến sĩ thi đua
trong chiến đấu và lao động sản xuất là những tấm gương đẹp đẽ nhất.
Nhìn chung, sau hai mươi năm cải tạo và xây dựng, miền Bắc đã bước đầu kiến lập được một hình thái kinh tế - xã hội xã
hội chủ nghĩa với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và những cơ sở vật chất - kỹ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội, với
một Nhà nước chuyên chính vô sản được củng cố, cùng với hệ tư tưởng và nền văn hoá xã hội chủ nghĩa được đặt trên
những nền móng vững chắc, đem lại những thay đổi sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực.
Ngày nay trên miền Bắc, người lao động không còn bị bóc lột và khinh rẻ nữa. Tuy số dân tăng gần gấp đôi so với hai
mươi năm trước, nhưng mọi người đều có ăn, có mặc, con cái mọi nhà đều được đi học, trình độ văn hoá chung của xã hội
đã được nâng lên một mức đáng kể. Lối sống mới đã trở thành phổ biến, người với người sống có tình có nghĩa, đoàn kết,
thương yêu nhau. Trong những năm chiến tranh, sản xuất vẫn được duy trì, và có ngành, có mặt tiếp tục phát triển. Những
nhu cầu thiết yếu về đời sống của nhân dân được bảo đảm. Đói rét, dịch tễ không xảy ra. An ninh chính trị và trật tự xã
hội được giữ vững. Mức sống tuy chưa cao và còn nhiều khó khăn, nhưng mọi người đều hiểu nguyên nhân của những
khó khăn đó và vững lòng tin tưởng ở tương lai.
Những thành tựu và biến đổi ấy còn thấp so với những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Song, trong hoàn cảnh miền Bắc

vừa phải đương đầu với hàng triệu tấn bom đạn của đế quốc Mỹ, vừa không ngừng cung cấp sức người, sức của cùng
đồng bào miền Nam đánh giặc, cứu nước, đồng thời gánh vác nghĩa vụ quốc tế, thì những thành tựu đã đạt được là những
kỳ tích mà người ta không thể nào tưởng tượng bên ngoài quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Thử thách cực kỳ nghiêm trọng
của chiến tranh đã làm ngời sáng tính ưu việt và sức mạnh của chủ nghĩa xã hội. Đó là cái bảo đảm cho miền Bắc không
ngừng phát huy vai trò quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của cả nước trong thời gian qua.
Tình hình thực tế của công cuộc cải tạo và xây dựng kinh tế, văn hoá ở miền Bắc cho phép khẳng định đường lối cách
mạng xã hội chủ nghĩa do Đại hội lần thứ III của Đảng đề ra và được các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương phát triển
thêm là đúng đắn. Chúng ta đã chuyển miền Bắc từ chế độ thuộc địa và nửa phong kiến với một nền kinh tế nông nghiệp
hết sức lạc hậu sang chế độ xã hội chủ nghĩa một cách nhanh gọn. Chúng ta đã kết hợp thành công hai loại quy luật: quy
luật của chiến tranh cách mạng với quy luật cách mạng xã hội chủ nghĩa, do đó đã phát huy được sức mạnh của chế độ xã
hội chủ nghĩa nhằm phục vụ chiến tranh cứu nước và giữ nước, đồng thời vẫn tiếp tục phát triển công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên một số mặt.
Trong khi khẳng định thành tích là to lớn, chúng ta không xem nhẹ những mặt yếu kém và những khó khăn trong nền kinh
tế miền Bắc. Tuy đã đi được một chặng trên con đường tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nhưng nhìn chung, nền kinh
tế miền Bắc còn mang nặng tính chất sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn thấp kém. Những ngành công nghiệp then
chốt còn bé và chưa được xây dựng đồng bộ, chưa đủ sức làm nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân. Lực lượng
sản xuất trong nông nghiệp mới bắt đầu phát triển; hợp tác xã chưa được củng cố thật vững chắc; cấp huyện chậm được
tăng cường. Nông nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho nhân dân, nguyên liệu cho công
nghiệp, nông sản cho xuất khẩu. 80% lực lượng lao động còn là lao động thủ công, năng suất lao động xã hội rất thấp. Lực
lượng lao động xã hội còn rất lớn, nhưng chưa được dùng hết trong khi tài nguyên, đất đai, rừng, biển chưa được khai thác


tốt. Tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được các nhu cầu cơ bản của đời sống nhân dân và nhu cầu
tích luỹ để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật mới. Tình hình đó cộng thêm tốc độ dân số tăng nhanh đã gây ra căng thẳng
trong đời sống kinh tế và xã hội.

Với tinh thần nghiêm túc tự phê bình, các cuộc hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng gần đây(1) đã vạch ra
một cách cặn kẽ và toàn diện những thiếu sót, khuyết điểm của Đảng và Nhà nước ta trong lãnh đạo, chỉ đạo và
quản lý kinh tế.
Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa do Đảng đề ra về cơ bản là đúng. Tuy nhiên, về nhiều mặt đường lối của

Đảng chưa được kịp thời cụ thể hoá và vận dụng thật tốt vào các kế hoạch phát triển kinh tế, văn hoá, vào
phương hướng, nhiệm vụ và bước đi của từng ngành, từng địa phương và cơ sở. Những nguyên tắc cơ bản của
cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhất là những vấn đề có tính quy luật của quá trình tiến từ sản xuất nhỏ lên sản
xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nói chung chưa được nhận thức một cách sâu sắc. Do chưa hiểu rõ sự gắn bó chặt chẽ
giữa cải tạo quan hệ sản xuất và phát triển lực lượng sản xuất trong điều kiện đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn
xã hội chủ nghĩa, cho nên đã chậm đề ra hướng đi lên của hợp tác xã nông nghiệp và sản xuất nông nghiệp.
Quan điểm “công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ”, “ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”, chưa được thấu suốt
và cụ thể hoá, để từng bước tạo ra một cơ cấu kinh tế kết hợp chặt chẽ công nghiệp với nông nghiệp. Nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ chưa được coi trọng đúng mức, nhiều phương hướng và biện pháp lớn đề ra để phát
triển nông nghiệp chưa được thi hành tích cực, khẩn trương. Năng lực công nghiệp nặng hiện có chưa phục vụ
tốt cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Mối quan hệ giữa kinh tế trung ương và kinh tế địa phương chưa được
giải quyết đúng đắn; kinh tế địa phương chưa được chú ý đúng mức.
Hệ thống quản lý kinh tế, tổ chức sản xuất chưa phát huy đầy đủ vai trò của ngành và chưa kết hợp đúng đắn
quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ. Kế hoạch hoá, một nhiệm vụ quan trọng của
công tác quản lý kinh tế, làm chưa tốt; các cơ quan kế hoạch chưa nắm chắc khả năng và chưa hiểu hết nhu cầu.
Cần nhấn mạnh một khuyết điểm nặng trong quản lý kinh tế là lối quản lý quan liêu, hành chính, xem nhẹ hiệu
quả, năng suất và chất lượng; là cách tổ chức thủ công, phân tán, chia cắt; là cách làm việc chưa sát thực tế,
chưa sát quần chúng, còn hình thức, giấy tờ, có nơi, có lúc thiếu tính chiến đấu cách mạng, thiếu tinh thần trách
nhiệm. Trên các vấn đề về lưu thông, phân phối như tài chính, ngân hàng, giá cả, tiền lương... còn có những
nhận thức không đúng, những quan điểm kinh doanh, thu chi, lời lỗ đơn thuần, do đó trong thực tế đã có những
khuyết điểm làm trở ngại cho việc đẩy mạnh sản xuất và phục vụ đời sống nhân dân, nhất là cho việc sử dụng
hợp lý lực lượng lao động xã hội.
Một khuyết điểm đồng thời cũng là một nguyên nhân của tình trạng nói trên là bộ máy quản lý và tổ chức thực
hiện kém hiệu lực. Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân ở từng cấp, từng đơn vị chưa được xác định
rõ; mỗi bộ phận, mỗi tổ chức trong hệ thống chuyên chính vô sản chưa làm tốt chức năng của mình. Chế độ
trách nhiệm không nghiêm; pháp chế xã hội chủ nghĩa còn nhiều thiếu sót. Công tác xây dựng Đảng, công tác
cán bộ, công tác tư tưởng chưa gắn chặt với công tác kinh tế và chưa theo kịp yêu cầu ngày càng cao của nhiệm
vụ cách mạng. Tổ chức của Đảng còn những mặt chưa hợp lý và thiếu năng động. Phương pháp lãnh đạo,
phương pháp công tác ít được cải tiến. Công tác tư tưởng thiếu sắc bén, chưa phê phán kịp thời những biểu hiện

tiêu cực. Công tác của các đoàn thể quần chúng chưa thật sát với sản xuất và đời sống.
Tất nhiên sẽ không thực tế nếu nghĩ rằng những khó khăn trong kinh tế và đời sống hiện nay ở miền Bắc có thể
hoàn toàn tránh khỏi nếu ta không phạm khuyết điểm. Bởi vì, ngoài những nguyên nhân chủ quan, những khó
khăn nói trên còn bắt nguồn từ một nguyên nhân sâu xa, đó là tình trạng nền kinh tế vốn là sản xuất nhỏ, lạc hậu
lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề. Miền Bắc bước vào cách mạng xã hội chủ nghĩa tuy đã hơn hai mươi năm,
song thời gian thật sự xây dựng chỉ có bảy năm . Sau khi hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa một thời gian
ngắn, miền Bắc phải trực tiếp đánh trả chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, và đặt lên hàng đầu nghĩa vụ đánh
giặc, cứu nước ở miền Nam, thực hiện khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng!”, đồng thời ra
sức làm tròn nghĩa vụ quốc tế. Hơn nữa, chiến tranh đã phá huỷ hầu hết những cái mà nhân dân đã tốn biết bao
công sức để xây dựng nên, làm cho quá trình tiến lên sản xuất lớn bị chậm lại đến vài ba kế hoạch 5 năm và làm


đảo lộn cả nền nếp quản lý kinh tế(2).
Vì vậy, mặc dù chúng ta đã đạt được những thành tựu trên nhiều mặt, nền sản xuất xã hội vẫn chưa ra khỏi tình
trạng sản xuất nhỏ, và chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc vẫn chưa được xây dựng trên cơ sở đại công nghiệp.
Vấn đề mấu chốt hiện nay là phải mau chóng tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và tổ chức lại
sản xuất xã hội theo hướng tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Từ năm 1958 đến cuối năm 1964.
Gần như toàn bộ các thành phố, thị xã đều bị đánh phá, trong đó 12 thị xã, 51 thị trấn bị phá hủy hoàn toàn;
4.000 trong tổng số 5.788 xã bị đánh phá, trong đó 30 xã bị phá hủy hoàn toàn. Tất cả các khu công nghiệp bị
đánh phá, nhiều khu bị đánh phá với mức độ hủy diệt. Các nhà máy điện đều bị đánh hỏng nặng, 5 triệu mét
vuông nhà ở (chưa kể ở nông thôn) bị phá hủy. Tất cả các tuyến đường sắt, 100% cầu, toàn bộ hệ thống bến
cảng, đường biển, đường sông và kho tàng đều bị đánh phá. Địch gây tổn thất cho 1.600 công trình thủy lợi, hầu
hết các nông trường và hàng trăm nghìn héc ta ruộng vườn, giết hại 40.000 trâu bò. Đế quốc Mỹ đã đánh phá
3.000 trường học, 350 bệnh viện, trong đó có 10 bệnh viện bị san phẳng.
“Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một!” Lịch sử Việt Nam mấy nghìn năm nay là lịch sử của một
nước thống nhất, một đại gia đình dân tộc thống nhất, là lịch sử không ngừng đấu tranh đánh bại mọi thế lực
xâm lược và chia cắt.
Từ ngày đế quốc Mỹ áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam, độc lập và thống nhất trở thành ý chí sắt đá,
thành nguyện vọng thiêng liêng của đồng bào và chiến sĩ ta trong cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước. Thắng

lợi vĩ đại mùa Xuân năm 1975 giành lại độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc cũng đương nhiên khôi phục lại sự thống
nhất nước nhà.
Hơn nữa, trong thời đại ngày nay, khi độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không thể tách rời nhau, và ở nước ta,
khi giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
cũng là sự bắt đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự bắt đầu của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, sự
bắt đầu của thời kỳ thực hiện nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản. Bước ngoặt lịch sử ấy đã diễn ra trên
miền Bắc cách đây hơn hai mươi năm và từ sau ngày 30 tháng 4 năm ngoái, diễn ra trong phạm vi cả nước. Như
vậy, độc lập và thống nhất không những gắn liền với nhau, mà còn tạo tiền đề cho chủ nghĩa xã hội.
Với thắng lợi hoàn toàn và triệt để của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cách mạng Việt Nam đã chuyển
sang giai đoạn mới, giai đoạn cả nước độc lập, thống nhất làm nhiệm vụ chiến lược duy nhất là tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa, tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội là mục đích trước mắt của cách mạng Việt Nam, đồng thời là con đường tiến hoá tất yếu của
xã hội Việt Nam, phù hợp với quy luật phát triển của xã hội loài người đang ở trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Hồ Chủ tịch, tinh hoa của dân tộc, do ý thức được tính
chất của thời đại, đã kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa xã hội. Người nói: “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(1); “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô
lệ"(2). Thấm nhuần tư tưởng vĩ đại ấy, Đảng ta đã vạch rõ trong Cương lĩnh đầu tiên rằng cách mạng Việt Nam
là một quá trình cách mạng không ngừng từ cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Và
trong quá trình cách mạng, khi cả nước làm một nhiệm vụ chiến lược hoặc làm hai nhiệm vụ chiến lược, Đảng
ta, từ khi ra đời đến nay, vẫn luôn luôn giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là đường
lối, là sức mạnh, là nguồn gốc thắng lợi của cách mạng nước ta.
Ngày nay, Tổ quốc ta đã hoàn toàn độc lập thì dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới
thực hiện được ước mơ lâu đời của nhân dân lao động là vĩnh viễn thoát khỏi cảnh bị áp bức, bóc lột, nghèo nàn,
lạc hậu, để sống một cuộc đời no cơm, ấm áo, ngày mai được bảo đảm, một cuộc đời văn minh, hạnh phúc. Chỉ
có chủ nghĩa xã hội mới đem lại cho nhân dân lao động quyền làm chủ đầy đủ, mới trả lại giá trị chân chính cho
con người, khiến cho con người thật sự làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên và làm chủ bản thân. Có chủ nghĩa
xã hội, Tổ quốc ta mới có kinh tế hiện đại, văn hoá, khoa học tiên tiến, quốc phòng vững mạnh; do đó bảo đảm
cho đất nước ta vĩnh viễn độc lập, tự do và ngày càng phát triển phồn vinh. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới làm cho
Tổ quốc ta thống nhất ở trình độ cao nhất và đầy đủ nhất, thống nhất về lãnh thổ, về chính trị và tinh thần, về

kinh tế, văn hoá, xã hội, thống nhất về quyền lợi và nghĩa vụ, mọi người đoàn kết, thương yêu nhau một cách


chân thành và thắm thiết.
Nhận thức được sâu sắc nhiệm vụ chính trị của giai đoạn mới và đại biểu đầy đủ tình cảm, ý chí và nguyện vọng
của toàn dân từ Nam đến Bắc, từ cuối năm 1975, Đảng và Nhà nước ta đã khẩn trương thực hiện những hoạt
động cần thiết để hoàn thành thống nhất nước nhà về mặt nhà nước. Cuộc tổng tuyển cử tiến hành ngày 25 tháng
4 năm 1976 là sự biểu thị hùng hồn ý chí của toàn dân ta đối với việc xây dựng một nước Việt Nam độc lập,
thống nhất và xã hội chủ nghĩa. Và kỳ họp lịch sử của Quốc hội chung của cả nước, Quốc hội khoá VI, đã long
trọng tuyên bố thống nhất nước nhà và lấy tên nước là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Từ ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, trên đất nước ta đã diễn ra một cuộc phấn đấu mới rất khẩn
trương của toàn dân nhằm hàn gắn các vết thương chiến tranh và tạo ra những biến đổi cách mạng trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Việc thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1976, năm đầu tiên của thời kỳ phát triển
kinh tế và văn hoá sau chiến tranh, đã thu được những thành tựu đáng phấn khởi ở cả hai miền của đất nước.
Phong trào lực lượng vũ trang nhân dân làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế đã được triển khai mạnh mẽ, rộng khắp.
Trên miền Bắc, công cuộc khôi phục kinh tế đã hoàn thành về cơ bản. Hầu hết các nhà máy, công trình bị đánh
phá đã được xây dựng lại; nhiều cái được cải tạo và mở rộng. Năng lực của các ngành công nghiệp, nông nghiệp
tăng lên đáng kể. Nhiều sản phẩm quan trọng đã đạt và vượt mức trước chiến tranh. ở miền Nam, chính quyền
cách mạng được xây dựng ở tất cả các cấp và đang được củng cố. Mặc dù bọn phản động còn hoạt động phá
hoại, trật tự trị an vẫn được giữ vững. Các tầng lớp nhân dân đông đảo được giáo dục, giác ngộ về chính trị,
bước đầu thấy được vai trò làm chủ của mình trong chế độ mới, đang phát huy tinh thần đoàn kết, yêu nước, dấy
lên những phong trào cách mạng sôi nổi cả ở thành thị và nông thôn, nhất là trên mặt trận thuỷ lợi, trong công
tác phục hoá, khai hoang, thâm canh, tăng vụ. Công tác giáo dục, văn hoá phát triển nhanh. Đời sống tuy còn
khó khăn, song đang được ổn định từng bước. Đi đôi với việc hoàn thành những nhiệm vụ còn lại của cách mạng
dân tộc dân chủ, sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa đang được đẩy mạnh và đã thu được những kết quả đáng kể
trong lĩnh vực quan hệ sản xuất cũng như trong lĩnh vực văn hoá, tư tưởng.
Mấy tháng nay, phong trào thi đua lao động, sản xuất chào mừng Đại hội lần thứ IV của Đảng đã được phát
động rầm rộ trong cả nước. Nhiều công trình xây dựng về công nghiệp, nông nghiệp, giao thông, văn hoá, nhiều
chỉ tiêu kế hoạch của các ngành, đã được hoàn thành trước thời hạn. Một trong những bông hoa dâng lên Đại hội
chúng ta là đường sắt Thống nhất từ Thủ đô Hà Nội đến Thành phố Hồ Chí Minh hơn ba mươi năm bị gián

đoạn, nay đã khôi phục xong sớm hơn kế hoạch dự kiến. Những nhân tố mới nói trên chắc chắn sẽ dẫn tới những
biến đổi sâu sắc hơn, những thắng lợi to lớn hơn trong thời gian sắp tới.
Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành quả vĩ đại của cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ,
của cuộc chiến đấu kiên cường, bất khuất và vô cùng oanh liệt của nhân dân ta ngót nửa thế kỷ qua. Đó là một
nước Việt Nam có lịch sử hết sức vẻ vang, có nền móng vững chắc, có tiềm lực dồi dào, có tiền đồ xán lạn. Đó
là một tiền đồn bất khả xâm phạm của hệ thống xã hội chủ nghĩa, một nhân tố quan trọng của hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội ở Đông Nam châu á và trên thế giới.
Ngày nay, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội không phải với hai bàn tay trắng. Chúng ta đã có được những cơ sở
vật chất - kỹ thuật ban đầu, nhất là có kinh nghiệm của hai mươi năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc;
kinh nghiệm thành công và cả kinh nghiệm không thành công đều là những vốn quý của chúng ta.
Trên đà phấn khởi cách mạng chưa từng có hiện nay, nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, nhất
định sẽ anh dũng phấn đấu, phát huy những thuận lợi sẵn có, khắc phục những khó khăn và hậu quả nặng nề do
chiến tranh để lại, ra sức đẩy mạnh công cuộc cải tạo và phát triển kinh tế, văn hoá, xây dựng nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thành một nước phồn thịnh, văn minh, góp phần xứng đáng hơn nữa vào sự nghiệp cách
mạng của nhân dân thế giới.
Vai trò của miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ
Các văn kiện Đảng, Nhà nước và sách báo đã đề cập nhiều đến vai trò quyết định của miền Bắc xã hội chủ nghĩa
đối với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Năm tháng trôi qua, kể từ ngày chiến tranh kết thúc đến
nay, hiện thực đó càng chứng tỏ đó là một chân lý lịch sử.
Ngay sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết (tháng 7/1954), Trung ương Đảng ta đã sớm xác định nhiệm vụ
xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa cách mạng của cả nước. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III
(tháng 9/1960) của Đảng khẳng định: “...Tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ


quyết định nhất đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà”. Do đất nước tạm bị chia hai miền, mỗi miền thực hiện
một chiến lược cách mạng trong những điều kiện không giống nhau, nên khi phân tích vị trí và mối quan hệ giữa
hai miền, Hội nghị lần thứ 7 của Trung ương Đảng (khóa III) đã xác định: “Miền Bắc có vai trò quyết định nhất
đối với toàn bộ sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà; miền Nam có vai trò quyết định trực tiếp
trong việc đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, để giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà,
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân”.

Cũng tại hội nghị này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Miền Bắc là gốc” của sự nghiệp cách mạng cả nước. Như
vậy về mặt quan điểm và nguyên tắc, vai trò của miền Bắc đã được xác định rõ từ đầu và rất sớm. Tuy nhiên, với
quan điểm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước, Đảng ta chủ trương vừa ra sức ổn định củng cố và xây
dựng miền Bắc theo hướng xã hội chủ nghĩa, vừa không ngừng đẩy mạnh cách mạng miền Nam phù hợp với
điều kiện trong nước ta và quốc tế hồi đó, để đưa sự nghiệp chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.
Để tạo ra và phát huy sức mạnh của miền Bắc, miền Bắc phải đi theo con đường của chủ nghĩa xã hội. Đó chẳng
những là yêu cầu phát triển khách quan của xã hội miền Bắc sau khi đã hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ
nhân dân mà còn là yêu cầu rất cấp bách của cách mạng cả nước, của cách mạng miền Nam lúc đó. Vì miền Bắc
thực sự vững mạnh về mọi mặt là cơ sở vững chắc cho nhân dân cả nước trong cuộc đấu tranh chống chính sách
xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, đồng thời thiết thực chuẩn bị điều kiện và tạo tiền đề
vững chắc cho bước phát triển mới của cách mạng cả nước sau khi đánh thắng chiến tranh xâm lược của đế quốc
Mỹ.
Miền Bắc đã phát huy vai trò căn cứ địa cách mạng cả nước và hậu phương lớn của cách mạng miền Nam từ rất
sớm, ngay từ khi cả nước chuyển từ chiến tranh sang hòa bình sau khi Hiệp định Giơnevơ có hiệu lực. Miền
Bắc tiếp nhận hàng chục vạn cán bộ và bộ đội ra tập kết tại các địa phương. Trên thực tế, nhiệm vụ trực tiếp chi
viện cho cách mạng miền Nam bắt đầu được thực hiện từ sau khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Trung
ương Đảng (tháng 1/1959) và được đẩy mạnh khi cách mạng miền Nam từ khởi nghĩa từng phần phát triển thành
chiến tranh cách mạng. Cũng từ đó, nhiệm vụ của hậu phương miền Bắc đối với cách mạng miền Nam được xác
định rõ hơn từ sau Nghị quyết tháng 1/1961 của Bộ Chính trị và đi vào tổ chức thực hiện ngày càng chặt chẽ.
Các ngành, quân, dân, chính, đảng đã từng bước đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh ở miền Nam. Quân đội đã
thành lập trung tâm huấn luyện và tổ chức các lực lượng đi “B”, tích cực nâng quy mô hoạt động của tuyến vận
chuyển chiến lược Bắc Nam trên bộ và trên biển (được xây dựng từ giữa năm 1959).
Cho đến cuối năm 1964, một số đơn vị đại đội, tiểu đoàn với trên 40.000 cán bộ, chiến sĩ cùng 3.000 tấn vũ khí
đã được tăng cường đến các chiến trường miền Nam. Từ năm 1965 đến khi giải phóng hoàn toàn miền Nam
(30/4/1975), miền Bắc phải đương đầu và đánh thắng hai lần chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân
của đế quốc Mỹ, là những năm vừa sản xuất vừa chiến đấu, vừa dốc sức vào chiến trường chính là miền Nam,
cùng chiến trường Lào và từ tháng 4/1970 là cả chiến trường Campuchia. Quân đội nhân dân Việt Nam có 17
vạn 5 ngàn quân năm 1957, đến khi Mỹ triển khai chiến lược chiến tranh cục bộ đã phát triển lên 70 vạn quân
(năm 1967) và 1 triệu 80 ngàn quân khi kết thúc chiến tranh.
Mọi hoạt động của miền Bắc đã chuyển hướng theo tinh thần “Tất cả vì tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ

xâm lược". Miền Bắc nước ta không những là hậu phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam mà còn là hậu
phương chung của cách mạng ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia. Để hoàn thành nhiệm vụ của hậu phương
lớn, miền Bắc đã hai lần chuyển hướng kinh tế, tiến hành động viên quy mô lớn và liên tục sức người, sức của
để cung cấp cho tiền tuyến, đồng thời phải chiến đấu kiên cường để chống hai lần chiến tranh phá hoại của đế
quốc Mỹ. Hồi đó, Mỹ muốn dùng bom đạn đưa miền Bắc Việt Nam “trở lại thời kỳ đồ đá”, buộc miền Bắc phải
“quỳ gối”.
Trong cuộc chiến đấu bảo vệ miền Bắc, không ngừng tăng cường sức mạnh cho miền Nam, quân và dân miền
Bắc đã phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân hiếm có trong lịch
sử các cuộc chiến tranh, với một nền nghệ thuật quân sự rất sáng tạo và có hiệu lực lớn, bắn rơi 4.181 máy bay,
bắn cháy, bắn chìm 296 tàu chiến và tàu biệt kích, bắt sống một số lượng lớn phi công Mỹ. Thắng lợi cực kỳ


oanh liệt này đã làm thất bại một phần quan trọng trong chiến lược chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc
Mỹ, dồn chúng vào một tình thế bị động chống đỡ trên cả hai miền Nam - Bắc.--PageBreak-Dưới bom đạn ác liệt của kẻ thù, miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trong
khói lửa chiến tranh; duy trì, phát triển tiềm lực về mọi mặt, tiếp tục tăng cường lực lượng ngày càng lớn cho
tiền tuyến lớn, đồng thời về cơ bản vẫn giữ vững đời sống nhân dân hậu phương ổn định, đảm bảo càng đánh
càng mạnh. Từ năm 1965 đến năm 1975, miền Bắc đã động viên 2 triệu thanh niên tham gia lực lượng vũ trang.
Nhu cầu về nhân lực của nhiều ngành trực tiếp phục vụ chiến tranh cũng tăng lên rất lớn. Riêng ngành Giao
thông vận tải, vào năm địch đánh phá ác liệt nhất (năm 1968) đã có trong biên chế chính thức 120.000 người,
chưa kể hàng chục vạn thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước được huy động trên các tuyến đường.
Chúng ta còn động viên tới 267 triệu ngày công theo chế độ dân công thời chiến để đảm bảo giao thông hoặc
phục vụ các yêu cầu khác của quân đội (làm trận địa, sửa chữa sân bay, vận chuyển hàng bằng phương tiện thô
sơ...). Tính đến năm 1972, tổng số lao động do Nhà nước động viên đã lên tới 2,5 triệu người, chiếm 11% dân số
miền Bắc. Trong các năm 1968, 1972, 1975 là những năm diễn ra tiến công chiến lược lớn làm chuyển biến cục
diện kháng chiến hoặc kết thúc chiến tranh, số nhân lực động viên thường vượt quá số lao động xã hội tăng lên
trong năm.
Ngày cũng như đêm, trên tuyến đường Hồ Chí Minh, trên mọi nẻo đường từ hậu phương đến tiền tuyến, hàng
chục vạn nhân dân và bộ đội sát cánh đánh địch, mở đường và vận chuyển với tinh thần anh dũng, bền bỉ, thông
minh và sáng tạo vô song; đảm bảo cho chiến trường đủ súng, đủ đạn, đủ quân, ăn no đánh thắng. Chẳng phải
ngẫu nhiên mà dư luận thế giới lúc này ca tụng "Đường Hồ Chí Minh là câu chuyện thần kỳ của chiến tranh

nhân dân Việt Nam trong thế kỷ XX".
Nhân lực động viên đến cuối năm 1972 cần tới trên 2 triệu người, chiếm khoảng 30% lao động xã hội miền Bắc,
trong đó 70% là nam giới. Riêng số động viên cho quân đội là 1,5 triệu người. Tỉ lệ tuyển quân ở xã cao nhất là
trên 10% dân số; 70% số hộ gia đình ở miền Bắc có người thân chiến đấu trên các chiến trường. Trên đồng
ruộng, phụ nữ chiếm 63% trong số lao động sản xuất trực tiếp. Hai năm 1973-1974, miền Bắc tiếp tục động viên
25 vạn thanh niên vào lực lượng vũ trang, bổ sung cho chiến trường 15 vạn quân; chuyển hàng vạn thương binh,
bệnh binh từ các chiến trường về điều trị và giải quyết nhanh chính sách. Đến cuối năm 1974, trên 33 vạn tấn vật
chất các loại đã được giao cho các chiến trường. Chỉ trong 4 tháng (từ tháng 1 đến tháng 4-1975), miền Bắc đã
bổ sung vào chiến trường trên 110.000 cán bộ, chiến sĩ; 230.000 tấn vật chất các loại. Đảng và Chính phủ cử
hàng vạn cán bộ dân chính đảng đến các vùng mới giải phóng để tăng cường cho Đảng bộ và chính quyền cách
mạng.
Vào giai đoạn cuối chiến tranh chống Mỹ, về nhân lực và vật chất sử dụng trên chiến trường: trên 80% quân số
của lực lượng vũ trang (nhiều đơn vị bộ đội địa phương ở một số tỉnh Nam Bộ có nhiều chiến sĩ là từ miền Bắc
vào, 81% vũ khí và đạn dược, 60% xăng dầu, 65% thuốc nam, 85% xe vận tải là do nguồn bổ sung từ hậu
phương lớn miền Bắc, còn 77% lương thực, gần 90% thực phẩm là do khai thác tại chỗ).
Trong 16 năm (từ 1959 đến 1975), tuyến giao thông vận tải quân sự chiến lược Trường Sơn đã vận chuyển
1.349.060 tấn, giao cho các chiến trường miền Nam, Lào và Campuchia 583.450 tấn (43,2%), bảo đảm hành
quân cơ động, tiêu thụ trên tuyến, tổn thất 765.610 tấn (56,8%).
Từ thực tiễn trên, Đại hội lần thứ IV của Đảng khẳng định: “Không thể nào có thắng lợi của sự nghiệp kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước nếu không có miền Bắc xã hội chủ nghĩa suốt 16 năm qua luôn cùng một lúc phải
làm hai nhiệm vụ chiến lược... Miền Bắc đã dốc vào chiến tranh giữ nước và cứu nước toàn bộ sức mạnh của
chế độ xã hội chủ nghĩa và hoàn thành một cách xuất sắc nghĩa vụ căn cứ địa cách mạng của cả nước.
Miền Bắc có tác dụng quyết định nhất gắn liền với miền Nam, giúp cách mạng miền Nam vượt qua muôn vàn
khó khăn gian khổ, vùng lên đúng lúc, trụ vững trong những lúc ác liệt nhất, hình thành thế trận chiến tranh nhân
dân rộng khắp trên cả ba vùng chiến lược. Hai miền chung sức đánh giặc, cả nước kháng chiến nên đã tạo ra sức
mạnh to lớn đánh thắng Mỹ và tay sai, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc


Đồng chí Bí thư thứ nhất Lê Duẩn và đồng chí Lê Đức Thọ tại Hội nghị của Bộ Tổng tham mưu
nghiên cứu đề cương: “Kế hoạch giành thắng lợi ở miền Nam”.

(Từ trái qua phải, hàng ngồi): Lê Hữu Đức, Đỗ Trình, Bùi Phùng, Đàm Quang Trung, Nguyễn Quyết;
(hàng đứng): Võ Quang Hồ, (…), Hoàng Văn Thái, Đoàn Khuê, Lê Quang Hòa, Lê Đức Thọ, Lê Duẩn, Văn
Tiến Dũng, Chu Huy Mân, Trần Văn Trà, Lê Trọng Tấn, Nguyễn Hữu Xuyến.

Đoàn 559 mở rộng tuyến đường chiến lược đông Trường Sơn


Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch tiến công Sài Gòn - Gia Định
mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh

Bộ Chỉ huy chiến dịch Tây Nguyên thảo luận phương án tác chiến
(ngày 17-2-1975)


Đánh chiếm Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 ngụy, giải phóng Buôn Ma Thuột

Pháo binh ta dội bão lửa xuống căn cứ sư đoàn 1 ngụy ở Quảng Trị (10-3-1975)


Đánh chiếm bán đảo Sơn Trà - Đà Nẵng

Quân đoàn 2 tiến công địch ở thành phố Huế


Ta làm chủ căn cứ liên hợp quân sự Đà Nẵng

Giải phóng quần đảo Trường Sa


Ngày 3-4-1975, quân ta chiếm Cam Ranh


Giải phóng thị xã Phan Rang - Ninh Thuận


Giải phóng thị xã Long Khánh ngày 21-44-1975

Đại tướng Võ Nguyên Giáp và cán bộ chủ chốt cơ quan Tổng hành dinh
đang theo dõi diễn biến chiến dịch Hồ Chí Minh


Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh

Bộ đội đặc công đánh chiếm đầu cầu




×