Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Phân tích tình hình lạm phát của việt nam trong 5 năm gần đây,các biện pháp chính phủ sử dụng để kiềm chế lạm phát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.83 KB, 25 trang )

Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây,
các biện pháp chính phủ sử dụng để kiềm chế lạm phát

DANHDANH SÁCH NHÓM 02 – LỚP K45 DK4

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU: ………………………………………………………………3
Phần I: TÌM HIỂU CHUNG VỀ LẠM PHÁT …………………………..…. 5
1 Khái niệm về lạm phát ………………………………………..

5

2. Các loại lạm phát ….…………………………………………..

6

Lạm phát vừa phải.……………………………………………….

6

Lạm phát phi mã……….…………………………………………

6

Siêu lạm phát …………………………………………………….

6

3. Cách đo lường lạm phát ………..……………………….…….

6



4. Nguyên nhân dẫn đến lạm phát ……………………..…….. ….

7

4.1. Lạm phát do cầu kéo

………………………………..……..

7

4.2.Lạm phát do chi phí đẩy .……………………………………

8

4.3. Lạm phát do cơ cấu …………….……………………………

8

4.4 Lạm phát do cầu thay đổi ……………………………………

8

4.5 Lạm phát do xuất khẩu ………………………………………..

9

4.6 Lạm phát do nhập khẩu ……………………………………….

9


II TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 2008 ĐẾN 2012
NGUYÊN NHÂN VÀ HƯỚNG GIẢI QUYẾT. …………………

10

1.Tình hình lạm phát của Việt Nam năm 2008-2012 ……………..

10

Nhãm 2 - líp: K45 DK4 1GVHD: TRẦN KIM ANH


Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây,
các biện pháp chính phủ sử dụng để kiềm chế lạm phát
2.Các nguyên nhân dẫn đến lạm phát tăng cao trong những năm

10

3. Những gợi ý giải pháp kiềm chế lạm cho những năm tới …………

15

4. Những giải pháp kiềm chế lạm của chính phủ cho những năm 2008 – 2012

19

III KẾT LUẬN ………………………………………………………

25


TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………

26

LỜI MỞ ĐẦU

Nghiên cứu về môn học kinh tế học vĩ mô cho chúng ta biết được : kinh tế tăng trưởng cao,
lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư là bốn mục tiêu kinh tế của mọi quốc
gia. Bốn mục tiêu trên đều là những mục tiêu cơ bản và có quan hệ chặt chẽ với nhau giống
như bốn đỉnh của một tứ giác: tứ giác kinh tế.
Trong bốn mục tiêu đó thì kinh tế tăng trưởng cao, lạm phát thấp là những mục tiêu
hàng đầu của điều tiết vĩ mô ở tất cả các nước. Đối với nước ta thì tăng trưởng kinh tế với tốc
độ cao là quan trọng nhất, bởi vì nhiều số liệu cho thấy do xuất phát điểm của nước ta thấp lại
phải đi lên trong môi trường cạnh tranh quyết liệt, do đó nước ta vẫn là nước có nền kinh tế
kém phát triển, GDP đầu người mặc dù đã tăng nhưng vẫn còn là một trong vài chục nước có
GDP đầu người thấp nhất thế giới. Vì vậy, để rút ngắn khoảng cách thì nền kinh tế nước ta
phải tăng trưởng cao, nếu không có một tốc độ tăng trưởng kinh tế cao thì không những nước
ta không rút ngắn được khoảng cách mà còn đứng trước một nguy cơ lớn nhất trong bốn nguy
cơ là tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Hơn nữa, khi
đã tụt hậu xa hơn về kinh tế thì các nguy cơ chệch hướng, diễn biến hoà bình và tệ quan liêu
tham nhũng cũng sẽ lớn lên theo, mặt khác, tăng trưởng kinh tế cao tạo tiền đề cho sự cân
bằng cung cầu và do đó có điều kiện để kiềm chế lạm phát, tăng trưởng kinh tế cao sẽ làm cho
tích luỹ từ nội bộ kinh tế, nâng cao mức sống góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp, đồng
thời tăng trưởng kinh tế cao cũng sẽ góp phần đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, nhu cầu tích luỹ đầu
tư, giảm bớt nhập siêu, tiến tới cân bằng cán cân thanh toán. Nếu như nền kinh tế tăng trưởng
với tốc độ cao là mục tiêu quan trọng nhất thì lạm phát thấp lại là mục tiêu quan trọng thứ hai,
Nhãm 2 - líp: K45 DK4 2GVHD: TRẦN KIM ANH



Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây,
các biện pháp chính phủ sử dụng để kiềm chế lạm phát
lạm phát không những tác động trực tiếp đến tiêu dùng và đời sống của người tiêu dùng mà
còn tác động lớn đến người sản xuất, kinh doanh, đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Phần lớn các
nhà kinh tế đều cho rằng ổn định lạm phát ở mức thấp nhất là môi trường kinh tế vĩ mô thuận
lợi để khuyến khích tiết kiệm, mở rộng đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nếu quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp, quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với cán cân thanh
toán là quan hệ thuận chiều, thì quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát là quan hệ khó
nhận biết, lúc thuận, lúc nghịch. Trong một thời gian dài việc kiềm chế lạm phát được coi là
một trong những ưu tiên hàng đầu trong chính sách của Chính phủ.
Trong những năm qua Việt Nam đã thành công trong việc kiểm soát lạm phát ở mức thấp và
duy trì tốc độ tăng trưởng cao, tuy nhiên từ 5 năm trở lại đây chúng ta lại phải đối phó với
một thách thức mới đó là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu sảy ra vào năm 2008 gây ảnh
hưởng nhất định đến thị trường tài chính tiền tệ của Việt Nam. Như vậy, cả lạm phát quá cao
và quá thấp đều ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế, tuy nhiên nếu ta kiểm soát được lạm phát
thì nó lại có tác dụng tích cực, thúc đẩy nền kinh tế là một điều hết sức quan trọng đối với mọi
quốc gia muốn làm được điều này chúng ta phải hiểu rõ: lạm phát là gì? Nó để lại những hậu
quả gì?Nguyên nhân nào dẫn đến lạm phát?Thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay ra sao?
Các biện pháp kiềm chế lạm phát như thế nào và đây cũng chính là nội dung của bài thảo luận
này . Do trình độ và thời gian có hạn cho nên bài viết này khó tránh khỏi những thiếu sót. Vậy
kính mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo và các bạn để những bài viết sau
của chúng em đạt được kết quả tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô Trần Kim Anh đã hướng dẫn và giúp đỡ nhóm em hoàn
thành bài thảo luận chuyên đề này.

Nhãm 2 - líp: K45 DK4 3GVHD: TRẦN KIM ANH


Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây,
các biện pháp chính phủ sử dụng để kiềm chế lạm phát


PHẦN I: TÌM HIỂU CHUNG VỀ LẠM PHÁT
Lạm phát là vấn đề không còn xa lạ đối với một nền kinh tế. Lạm phát được ví như là căn
bệnh kinh niên mà hầu hết các nền kinh tế đều gặp phải nhưng để đưa ra một khái niệm về lạm
phát là một điều rất khó bởi vì khi trả lời câu hỏi lạm phát là gì? thì đã có rất nhiều quan điểm
khác nhau:
1. Khái niệm lạm phát.
Theo Samoelson: “ Lạm phát là sự tăng lên của mức giá chung”.
Theo FriedMan: “ Lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ.
Theo Mác: “Lạm phát là sự tràn đầy các kênh, luồng lưu thông những tờ giấy bạc thừa+`.
Theo Keynes: “ Chỉ khi nào có toàn dụng, sử dụng hết nhân công và năng lực sản xuất, mới
tạo nên cầu dư thừa và giá cả hàng hoá tăng lên từ cầu cá biệt làm thay đổi cầu tổng quát và
mức giá chung từ đó gây ra lạm phạt”'
Trong kinh tế học, thuật ngữ “lạm phát” được dùng để chỉ sự tăng lên theo thời gian của mức
giá chung hầu hết các hàng hoá và dịch vụ so với thời điểm một năm trước đó. Như vậy tình
trạng lạm phát được đánh giá bằng cách so sánh giá cả của một loại hàng hoá vào hai thời
điểm khác nhau, với giả thiết chất lượng không thay đổi. Trong thời gian lạm phát, giá cả hàng
hoá tăng lên nhanh chóng so với mức tăng tiền lương danh nghĩa, vì vậy vừa dẫn đến hạ thấp
thu nhập thực tế của người lao động, vừa làm sâu sắc thêm sự phát triển không đều và không
cân đối của các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Quan điểm này nghiên cứu lạm phát dựa
trên ba vấn đề cơ bản:
- Thứ nhất: phân tích mối quan hệ tỉ lệ về số lượng và giá trị giữa tiền giấy với tiền
vàng lưu thông trong nền kinh tế quốc dân.
Nhãm 2 - líp: K45 DK4 4GVHD: TRẦN KIM ANH


Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây,
các biện pháp chính phủ sử dụng để kiềm chế lạm phát
- Thứ hai: trong mối quan hệ giữa khối lượng tiền cần thiết trong lưu thông với tổng giá
cả hàng hoá lưu thông thì điểm xuất phát là tổng giá cả hàng hoá. Nghĩa là giá cả hàng hoá

quyết định khối lượng tiền cần thiết trong lưu thông chứ không phải là ngược lại.
- Thứ ba: yêu cầu của quy luật lưu thông là khối lượng tiền thực tế lưu thông phải cân
bằng với lượng tiền cần thiết cho lưu thông. Nếu khối lượng tiền thực tế lưu thông lớn hơn
khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông thì sẽ xuất hiện lạm phát.
Ta thấy các nhận định về lạm phát khác nhau nhưngđều thống nhất ở điểm cho rằng:
mức giá chung của hàng hoá và dịch vụ tăng lên là biểu hiện của lạm phát.
2. Các loại lạm phát
2.1 Lạm phát vừa phải.
Lạm phát vừa phải còn gọi là lạm phát một con số, có tỉ lệ lạm phát dưới 10% một năm. Lạm
phát ở mức độ này không gây ra những tác động nguy hiểm đối với nền kinh tế mà trái lại nó
còn có tác dụng kích thích sản xuất thúc đẩy các hoạt động đầu tư.
2.2 Lạm phát phi mã.
Lạm phát phi mã hay còn gọi là lạm phát bột phát là lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối
nhanh với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số trong một năm. Loại lạm phát này khi đã trở nên vững chắc sẽ
gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng.
2.3 Siêu lạm phát.
Siêu lạm phát xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi
mã. Chẳng hạn, như tại Việt Nam năm 1988 tỉ lệ lạm phát ở nước ta là 308% đứng thứ 3 sau
Brazil (934%) và Peru (1722%.). Trong tình trạng đó, cuộc sống nói chung trở nên đắt đỏ hơn,
thu nhập thực tế giảm sút mạnh mẽ, “thuế lạm phat”' là một sắc thuế vô hình, thuế phi chính
thức đánh vào những ai đang cầm giữ tiền. Đặc biệt là tình trạng trật tự kinh tế bị rối loạn,
không ai dám tính toán đầu tư lâu dài, những hoạt động kinh tế ngắn hạn từng thương vụ, từng
đợt, từng chuyến diễn ra phổ biến.
3. Cách đo lường lạm phát

Nhãm 2 - líp: K45 DK4 5GVHD: TRẦN KIM ANH


Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây,
các biện pháp chính phủ sử dụng để kiềm chế lạm phát

Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một lượng lớn
các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế ,thông thường dựa trên dữ liệu được thu thập
bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên đoàn lao động và các tạp chí kinh doanh cũng làm
việc này. Các giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một chỉ
số giá cả để đo mức giá cả trung bình, là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Tỷ
lệ lạm phát là tỷ lệ phần trăm mức tăng của chỉ số này.
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ số này
phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ thuộc
vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Tuy nhiên, thước đo lạm phát phổ biến
nhất chính là chỉ số CPI
CPI được dùng để tính chỉ số lạm phát theo thời kỳ. Chẳng hạn, tính chỉ số lạm phát CPI năm
2011 so với năm 2010 theo công thức sau:
CPI năm 2011 - CPI năm 2010
Chỉ số lạm phát 2011 = 100 x

CPI năm 2010

4. Nguyên nhân dẫn đến lạm phát
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm phát, trong đó "lạm phát do cầu kéo"
và "lạm phát do chi phí đẩy" được coi là hai thủ phạm chính. Cân đối thu chi là điều không thể
tránh khỏi khi xảy ra lạm phát
4.1. Lạm phát do cầu kéo

Nhãm 2 - líp: K45 DK4 6GVHD: TRẦN KIM ANH


Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây,
các biện pháp chính phủ sử dụng để kiềm chế lạm phát

HÌNH 1


Nhiều người có trong tay một khoản tiền lớn và họ sẵn sàng chi trả cho một hàng hoá
hay dịch vụ với mức giá cao hơn bình thường. Khi nhu cầu về một mặt hàng tăng lên sẽ kéo
theo sự tăng lên về giá cả của mặt hàng đó. Giá cả của các mặt hàng khác cũng theo đó leo
thang, dẫn đến sự tăng giá của hầu hết các loại hàng hoá trên thị trường. Lạm phát do sự tăng
lên về cầu được gọi là “lạm phát do cầu kéo”, nghĩa là cầu về một hàng hoá hay dịch vụ ngày
càng kéo giá cả của hàng hoá hay dịch vụ đó lên mức cao hơn.( Hình 1)

4.2.Lạm phát do chi phí đẩy

Nhãm 2 - líp: K45 DK4 7GVHD: TRẦN KIM ANH


Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây,
các biện pháp chính phủ sử dụng để kiềm chế lạm phát

Hình 2
Chi phí của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, giá cả nguyên liệu đầu vào, máy
móc, chi phí bảo hiểm cho công nhân, thuế... Khi giá cả của một hoặc vài yếu tố này tăng lên
thì tổng chi phí sản xuất của các xí nghiệp chắc chắn cũng tăng lên. Các xí nghiệp vì muốn
bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành sản phẩm. Mức giá chung của toàn thể nền
kinh tế cũng tăng. (hình 2)
4.3. Lạm phát do cơ cấu
Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động. Ngành
kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công cho người lao động trong
ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá
thành sản phẩm.Lạm phát nảy sinh từ đó.
4.4 Lạm phát do cầu thay đổi
Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác
lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía

dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm
Nhãm 2 - líp: K45 DK4 8GVHD: TRẦN KIM ANH


Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây,
các biện pháp chính phủ sử dụng để kiềm chế lạm phát
giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng
lên, dẫn đến lạm phát.
4.5 Lạm phát do xuất khẩu
Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được huy động
cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung
thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.
4.6 Lạm phát do nhập khẩu
Khi giá hàng hoá nhập khẩu tăng thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm
phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên gây ra lạm phát.

II TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT
NAM TỪ NĂM 2008 ĐẾN 2012 NGUYÊN NHÂN VÀ HƯỚNG GIẢI QUYẾT.
1.Tình hình lạm phát của Việt Nam năm 2008-2012.
- Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 đã buộc các quốc gia trong đó có Việt Nam
thực hiện các gói kích cầu dẫn đến một lượng tiền lớn được bơm vào thị trường. Giá dầu, giá
lương thực thực phẩm, nguyên nhiên vật liệu trên thế giới đồng loạt tăng cao.
Do tác động của kinh tế TG ,trong những năm vừa qua kinh tế Việt Nam thường xuyên
phải chịu mức lạm phát cao làm cho những thành quả của tăng trưởng kinh tế không đến được
với người lao động do mức tăng thu nhập danh nghĩa không theo kịp mức tăng của giá cả thị
Nhãm 2 - líp: K45 DK4 9GVHD: TRẦN KIM ANH


Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây,
các biện pháp chính phủ sử dụng để kiềm chế lạm phát

trường. Đặc biệt, năm 2008 lạm phát đã tăng rất cao lên đến trên 23% buộc Chính phủ phải
đưa ra hệ thống 8 giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát và đã đạt được kết quả nhất định khi lạm
phát năm 2009 và 2010 có xu hướng giảm xuống. Tuy nhiên, lạm phát như con ngựa bất kham
đã tăng cao trở lại trong năm 2011 lên đến 18,23% mặc dù Chính phủ đã có nghị quyết 11 đưa
ra một hệ thống giải pháp toàn diện để kiềm chế lạm phát ngay từ đầu năm 2011. Vì sao lạm
phát trong năm 2011 lại tăng cao? Các giải pháp nào cho năm 2012 và những năm tiếp theo
đểkiềm chế lạm phát xuống còn một con số như mong muốn của Chính phủ?
2.Các nguyên nhân dẫn đến lạm phát tăng cao trong những năm 2008 - 2012
Theo lý thuyết kinh tế học, có hai nguyên nhân chủ yếu dẫn đến lạm phát là do cầu kéo
và chi phí đẩy. Lý thuyết lạm phát do cầu kéo chỉ đúng khi nền kinh tế đạt mức sản lượng tiềm
năng, khi nền kinh tế đã sử dụng hết hoặc gần hết nguồn lực sẵn có. Khi đó, nếu tổng cầu gia
tăng thì sẽ làm giá cả gia tăng vì nền kinh tế không còn tiềm năng để tăng trưởng, nên tổng
cầu tăng không làm tổng cung tăng, mà chỉ làm tăng giá cả. Tổng cầu bao gồm các thành
phần: Cầu chi tiêu của cá nhân, cầu chi tiêu của chính phủ, cầu đầu tư của các doanh nghiệp và
cầu chi tiêu của người nước ngoài (xuất khẩu). Tổng cầu của nền kinh tế nhìn chung đều phải
thể hiện thông qua tổng cầu tiền mặt. Bởi vì, trong nền kinh tế thị trường muốn mua hoặc bán
được hàng hóa phải có một lượng tiền tương ứng với giá cả hàng hóa (lượng tiền cần thiết cho
lưu thông).Các nhà lý luận kinh tế gọi đây là lưu thông hàng hoá – tiền tệ.Vì vậy, khi tổng tiền
mặt trong lưu thông tăng lên cũng thể hiện tổng cầu tăng lên.Như vậy, trong trường hợp Ngân
hàng trung ương có chính sách làm cho khối tiền trong lưu thông tăng lên, điều đó đồng nghĩa
với việc sẽ làm cho tổng cầu gia tăng.Nếu nền kinh tế còn dưới mức tiềm năng, tổng cầu tăng
sẽ tác động làm tổng cung tăng, nền kinh tế tăng trưởng, lúc đó lạm phát đi kèm với tăng
trưởng kinh tế, nền kinh tế sẽ chịu đựng được mức lạm phát này.Ngược lại, nếu nền kinh tế đã
ởmức tiềm năng thì tổng cầu tăng sẽ làm giá tăng, mà sản lượng không tăng nổi, lạm phát sẽ
tăng cao.
Nguyên nhân lạm phát do chi phí đẩy được thể hiện khi trong nền kinh tế còn nằmdưới mức
sản lượng tiềm năng. Lúc này lạm phát cao xảy ra do giá các yếu tố đầu vào của nền sản xuất
Nhãm 2 - líp: K45 DK4 10GVHD: TRẦN KIM ANH



Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây,
các biện pháp chính phủ sử dụng để kiềm chế lạm phát
tăng cao (nguyên, nhiên vật liệu chủ yếu trong nền kinh tế như xăng dầu, lương thực thực
phẩm…tăng cao) làm cho chi phí sản xuất hàng hóa tăng cao và đẩy giá cả hàng hóa trên thị
trường tăng cao dẫn đễn lạm phát cao xảy ra.
Từ các nguyên nhân về mặt lý thuyết ở trên, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, có thể phân tích
nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam trong những năm qua có cả yếu tố cầu kéo và chi phí
đẩy.Trước hết, nguyên nhân do cầu kéo. Mặc dù nền kinh tế Việt Nam chưa đạt mức sản lượng
tiềm năng, vẫn còn nhiều nguồn lực cho tăng trưởng: Nguồn nhân lực dồi dào và trẻ, nguồn
vốn trong và ngoài nước phong phú, nguồn tự nhiên chưa khai thác hết, nhưng lạm phát trong
những năm 2007 - 2011 vẫn có nguyên nhân từ phía cầu. Có thểtrình bày những nguyên nhân
từ phía cầu như sau:

Nguồn:Tổng Cục Thống Kê (2007 – 2008) (Hình 3)
-Thu nhập quốc dân tăng lên do kết quả tăng trưởng kinh tế nhiều năm liền trước đó
làm cho thu nhập của dân cư tăng lên ( Năm 2007: 8,46%; năm 2008: 6,31%; năm 2009:
5,46%; năm 2010: 6,78% và năm 2011 tăng 5,34% ). Điềuđó làm cho cầu tiêu dùng cá nhân
gia tăng từ 2005 đến năm 2011, dẫn đến giá cả tăng liên tục nhiều năm liền.
-Tốc độ tăng đầu tư trong toàn bộ nền kinh tế (bao gồm khu vực kinh tế trong nước và
nước ngoài) cao trong nhiều năm liền (khoảng 25% - 35%/năm), nhất là đầu tư nước ngoài
Nhãm 2 - líp: K45 DK4 11GVHD: TRẦN KIM ANH


Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây,
các biện pháp chính phủ sử dụng để kiềm chế lạm phát
tăng cao trong các năm 2007 là21 tỷ USD và đặc biệt nhảy vọt trong năm 2008 (vốn FDI đăng
ký trên 71 tỷ USD), trong những năm 2009, 2010 và 2011 đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt
Nam khoảng 11 –12 tỷ USD/năm và thực tế giải ngân khoảng 8 -9 tỷ USD/năm đã làm cho
cầu đầu tư tăng lên nhanh chóng, đẩy giá nguyên, nhiên vật liệu và nhân công tăng cao. Tiền
lương tối thiểu trong khu vực hành chính, sự nghiệp đã tăng lên kéo tiền lương trong khu vực

sản xuất cũng tăng theo, làm gia tăng thu nhập bằng tiền và tiêu dùng trong dân cư cũng tăng
theo. Bên cạnh đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, đầu tư và chi tiêu công của
Chính phủ cũng gia tăng mạnh qua các năm, bội chi ngân sách những năm gần đây luôn tăng
trên 5%, vượt mức phê duyệt của Quốc hội hàng năm.
-Xuất khẩu tăng nhanh qua nhiều năm, năm 2007là 48,5 tỷ USD, năm 2008 đã đạt trên
62,6 tỷ USD; năm 2009 đạt gần 70 tỷ USD, năm 2010 đạt 82 tỷ USD và năm 2011 ước đạt
100 tỷ USD làm cho việc tiêu dùng sản xuất xuất khẩu như mua nguyên, nhiên, vật liệu, thuê
mướn nhân công….tăng nhanh, đẩy tổng cầu tăng nhanh.
-Đồng thời, với chính sách đẩy mạnh đầu tư và xuất khẩu nhằm duy trì tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao, chính phủ Việt Nam đã thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng, khi giữmức
lãi suất thị trường thấp, tỷ giá hoái đoái VND cao. Điều đó thể hiện trong năm 2007 Ngân
hàng nhà nước đã phát hành khối lượng tiền mặt tăng thêm 30%, chủ yếu để mua ngoại tệ
nhằm giữ giá trị VND thấp, với mục đích thúc đẩy xuất khẩu. Bên cạnh đó, do lãi suất thị
trường thấp nên lượng tín dụng từ các ngân hàng cũng tăng lên đến trên 35%, nhất là cho vay
mua chứng khoán và kinh doanh bất động sản, nhưng thiếu biện pháp đểthu hút tiền về ngân
hàng. Riêng trong năm 2008, do thực hiện các gói giải cứu nền kinh tế thoát khói suy thoái
kinh tế nên lượng tiền trong lưu thông tăng lên rất nhanh điều này cũng làm gia tăng lạm phát
trong năm 2008. Chính sách mở rộng tiền tệ tiếp tục được thực hiện trong năm 2009, 2010 khi
dư nợ tín dụng tăng trên 35 – 36%/năm càng làm gia tăng lượng tiền trong lưu thông.
Nguyên nhân do chi phí đẩy. Nguyên nhân về phía chi phí có thể phântích ở những
điểm sau: năm 2007 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức thứ 150 của WTO, đánh dấu
sự hội nhập của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới. Do đó, các biến động trên thị
Nhãm 2 - líp: K45 DK4 12GVHD: TRẦN KIM ANH


Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây,
các biện pháp chính phủ sử dụng để kiềm chế lạm phát
trường thế giới đều ảnh hưởng đến thị trường trong nước. Chẳng hạn như giá dầu trên thị
trường thế giới tăng cao ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế Việt Nam, mặc dù, Việt Nam là
nước xuất khẩu dầu, nhưng khi giá dầu lên lại ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế, bởi vì, Việt

Nam chưa có công nghiệp hóa dầu mạnh nên chủ yếu phải nhập xăng dầu và các nguyên liệu
sản xuất từ dầu hỏa với giá cao, trong khi phải xuất khẩu dầu thô với giá thấp. Giá dầu tăng
cao và giá cả các hàng hóa nguyên, nhiên vật liệu khác trên thếgiới tăng cao quả thật đã đè
nặng lên chi phí sản xuất của Việt Nam, bởi vì, Việt Nam phải nhập nhiều thứ hàng hóa máy
móc, thiết bị, nguyên, nhiên vật liệu cho sản xuất kinh doanh trong nước và cho xuất khẩu. Từ
năm 2008 mức nhập siêu của Việt Nam luôn tăng cao, trong đó, đến 80% là nhập khẩu máy
móc, thiết bị, nguyên, nhiên vật liệu phục vụsản xuất. Gíá nhập khẩu tăng đã đẩy giá thành sản
xuất trong nước tăng cao, để không bịlỗ, buộc nhà sản xuất, kinh doanh phải nâng giá bán lên,
đẩy mức giá cả chung tăng lên (các nhà lý luận kinh tế gọi đây là hiện tượng nhập khẩu lạm
phát). Trong khi đó, năng suất lao động của Việt Nam còn thấp, việc ứng dụng khoa học –
công nghệ nhằm nâng cao năng suất laođộng, tiết kiệm chi phí, giảm giá thành sản phẩm còn
ít, nên cũng không thể hạ giá bán sản phẩm hàng hóa.
-Từ năm 2008 đến nay Việt Nam thường xuyên chịu nhiều thiệt hại do thiên tai, dịch
bệnh gây ra. Bão, lũ các tỉnh miền Bắc, miền Trung đã làm tình hình sản xuất lương thực, thực
phẩm của các địa phương này gặp khó khăn, kèm theo dịch bệnh liên tục đã làm cho giá lương
thực, thực phẩm tăng cao. Đồng thời, các cơn sốt nhà đất, bất động sản trong những năm qua
cũng đã đẩy giá nhà, giá căn hộ, giá thuê nhà ở, giá văn phòng cho thuê tăng cao. Bên cạnh đó,
giá các dịch vụ khác cũng đều gia tăng: Giá điện, giá nước, chi phí học tập, giá dịch vụ y
tế….Tất cả đều ảnh hưởng đến chi phí sản xuất, nhất là đến giá trị sức lao động, gây sức ép
đẩy giá nhân công tăng cao, và làm cho chi phí sản xuất tăng cao, góp phần đẩy mức giá
chung tăng lên.
-Trong năm 2011 việc điều chỉnh tỷ giá vào đầu năm quá cao và đột ngột làm cho đồng
tiền Việt Nam bị mất giá 9,3% đã đẩy giá tất cả hàng hóa nhập khẩu tăng cao, trong đó, như đã
phân tích, phần lớn nguyên, nhiên, vật liệu phục vụ sản xuất, tiêu dùng trong nước và xuất
khẩu đều là hàng nhập khẩu.
Nhãm 2 - líp: K45 DK4 13GVHD: TRẦN KIM ANH


Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây,
các biện pháp chính phủ sử dụng để kiềm chế lạm phát

-Lãi suất tăng cao vừa là biện pháp kiềm chế lạm phát nhưng đồng thời nó lại có tác
động làm tăng chi phí tài chính cho doanh nghiệp, vì vậy nó cũng góp phần làm tăng giá cả
hàng hóa khi doanh nghiệp chuyển chi phí đó cho người tiêu dùng và đẩy lạm phát gia tăng.
Năm 2011, Ngân hàng nhà nước đã dùng giải pháp thắt chặt tiền tệ, nâng trần lãi suất nhận gửi
lên4%/năm, trong khi thả nổi lãi suất đầu ra. Bên cạnh đó, Ngân hàng nhà nước đã không có
biện pháp hữu hiệu để kiểm soát việc thực hiện trần lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay của
các ngân hàng thương mại, nhất là các ngân hàng thiếu thanh khoản, tạo ra cuộc đua lãi suất
của các ngân hàng và đẩy lãi suất nhận gửi thực tế lên đến 17 – 19%/năm làm cho lãi suất cho
vay cũng bị đẩy lên 22 – 24%/năm. Điều này đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong
việc tiếp cận đến nguồn vốn, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ, làm cho sản xuất bị đình đốn,
nhiều doanh nghiệp thiếu vốn đã phải thu hẹp sản xuất, kinh doanh, sa thải bớt công nhân. Tác
động của nó là làm thiếu nguồn cung hàng hóa và đẩy giá hàng hóa gia tăng.
-Với chủ trương điều hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường, Chính Phủ đã quyết định
thực hiện cơ chế giá các mặt hàng thiết yếu của nền kinh tế như xăng, dầu, điện, nước, lương
thực, thực phẩm theo giá thị trường. Tuy nhiên, do việc điều chỉnh tăng giá các mặt hàng xăng,
dầu, điện, nước không đúng thời điểm nên đã góp phần làm tăng giá trong nền kinh tế, đẩy tỷ
lệ lạm phát tăng cao. Trong năm 2011, dưới tác động của tăng tỷgiá VND đầu năm, giá xăng
dầu đã hai lần tăng cao, lên đến 20%, còn giá điện cũng được điều chỉnh hai lần tăng lên trên
20%, giá thực phẩm, gia súc, gia cầm, thủy sản và rau xanh tăng mạnh vào tháng 7 và giá dịch
vụ giáo dục cũng tăng mạnh vào tháng 9/2011.
- Như vậy, lạm phát ở Việt Nam trong những năm qua có nguyên nhân cả từ phía cầu
và phía cung. Các nguyên nhân có thể do các yếu tố khách quan từ việc nhập khẩu lạm phát từ
bên ngoài, đồng thời có nguyên nhân chủ quan từ điều hành chính sách của Chính phủ, trong
đó, nguyên nhân chủ quan là chủ yếu và quyết định làm cho lạm phát tăng cao và triền miên.
Xuất phát từ những nguyên nhân đã phân tích, có thể đề xuất các giải pháp chủ yếu để kiềm
chế lạm phát cho năm 2012 và những năm tiếp theo.
3. Những gợi ýgiải pháp kiềm chế lạm cho những năm tới:
Nhãm 2 - líp: K45 DK4 14GVHD: TRẦN KIM ANH



Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây,
các biện pháp chính phủ sử dụng để kiềm chế lạm phát
Những nguyên của lạm phát trong thời gian qua về cơ bản đã được nhận diện, vậy cần phải
làm gì để lạm phát trong những năm tới được kiềm giữ ở mức mong muốn nhằm đảm bảo tốc
độ tăng trưởng kinh tế vừa phải, nhất là thời kỳ hậu khủng hoảng kinh tế, trong khi những
nhân tố làm gia tăng lạm phát có tác động với cường độ mạnh hơn như: Đầu tư toàn xã hội
vẫn phải duy trì ở mức cao; tiền lương trong tất cả các khu vực đã tăng cao hơn (từ 01/05/2011
tiền lương cơ bản của khu vực hành chính, sự nghiệp đã tăng lên 830.000 VNĐ/tháng so với
trước đây là 730.000 VNĐ/tháng, theo kế hoạch đến 01/05/2012 tiền lương khu vực này sẽ
tăng lên 1.050.000 VND/năm); giá dầu trên thếgiới còn nhiều bí ẩn, và có thể vẫn giữ ở mức
cao như hiện nay, thậm chí còn có thể cao hơn hiện nay nếu kinh tế thế giới năm 2012 và
những năm sau phục hồi và nhất là tình hình khủng hoảng chính trị trong khu vực Trung Đông
và Bắc Phi không được cải thiện (hiện nay là khoảng 104 USD/thùng)….
Theo chúng tôi, cần phải thực hiện đồng loạt nhiều biện pháp một cách thông minh, khôn khéo
mới có thể kiềm chế lạm phát ở mức mong muốn mà không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh
tế. Có thể gợi ý một vài biện pháp sau:
1/ Không thể giảm mạnh tổng cầu để kiềm chế lạm phát được, bởi vì, nó sẽ có tácđộng
làm giảm tỷ lệ tăng trưởng.Tuy nhiên, có thể thông qua chính sách tiền tệ để vẫn giữ lãi suất ở
mức vừa phải nhằm thúc đẩy đầu tư mà vẫn kiềm chế được mức tổng cầu tiền tệ, nhất là đối
với những khoản cầu tiền tệ không cần thiết cho nền kinh tế. Chính sách tiền tệ cần thực hiện
một cách linh hoạt và kịp thời theo thực tế diễn biến của nền kinh tế. Ngân hàng Nhà nước đưa
tiền ra và rút tiền về một cách hợp lý sẽ góp phần kiềm chế lạm phát và kích thích tăng trưởng
kinh tế. Có thể rút kinh nghiệm về điều hành chính sách tiền tệ của năm 2009, bởi vì, năm
2009, Chính Phủ đã thực hiện một cách thành công các chính sách vừa kiềm chế lạm phát và
vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giúp nền kinh tế phuc hồi nhanh sau khủng hoảng. Kết quả
là lạm phát năm 2009 được kiềm giữ ở mức 6,52%, trong khi tăng trưởng kinh tế đạt 5,32%,
được xem là mức tăng trưởng nhanh trong khu vực lúc bấy giờ.
2/ Về giảm cầu chi tiêu công của Chính phủ.Trước hết, Chính phủ phải đảm bảo kỷluật
ngân sách, kiên quyết giảm dần thâm hụt ngân sách qua các năm.Thâm hụt ngân sách cao qua
Nhãm 2 - líp: K45 DK4 15GVHD: TRẦN KIM ANH



Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây,
các biện pháp chính phủ sử dụng để kiềm chế lạm phát
nhiều năm và sử dụng không hiệu quả các khoản chi tiêu công là nguyên nhân chủ quan dẫn
đến lạm phát triền miên trong thời gian qua. Để kiềm giữ lạm phát ởmức một con số, Chính
phủ cần kiên quyết cắt giảm các khoản chi tiêu công, nhất là các khoản chi thường xuyên như:
Mua sắm xe công, xây trụ sở cơ quan công quyền, kiên quyết cắt giảm biên chế ở các cơ quan
côngquyền để giảm bớt chi phí nhân sự, đẩy mạnh xây dựng chính quyền điện tử, giảm bớt chi
phí cho hội họp, thông qua phát triển phương thức họp trực tuyến.
3/ Đối với các dự án công cấp thiết như xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội,phải
xác định những dự án cần triển khai xây dựng ngay, những dự án xây dựng trong những năm
sau. Trong triển khai thực hiện các dự án, Chính phủ cần chú ý giải ngân kịp thời, nhằm hạn
chế tình trạng gây sức ép tăng giá vào cuối năm khi đầu năm thì chậm hoặc không giải ngân,
Chính phủ nên kiểm soát chặt chẽ các khoản chi tiêu của chính phủ trên tinh thần sử dụng một
cách có hiệu quả đồng vốn ngân sách, tránh lãng phí, thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản.,
tránh vết xe đổ của khủng hoảng nợ công của Chính phủ Hy Lạp và một số nước khác ở Châu
Âu.
4/ Chính phủ cần tăng cường năng lực của bộ máy dự báo để dự báo chính xác sựbiến
động giá cả trên thị trường thế giới, nhất là giá cả của các mặt hàng chiến lược như xăng, dầu,
sắt, thép, lương thực, thực phẩm….để kịp thời điều chỉnh giá trong nước, tránh tình trạng phải
đối phó bị động như trong năm các năm qua. Tập trung toàn bộ lực lượng quản lý, điều chỉnh
giá cả một cách nhanh nhạy, bằng các biện pháp hành chính lẫn biện pháp kinh tế đối với giá
cả thị trường.Chống đầu cơ nâng giá đối với mọi khu vực kinh tế, kể cả kinh tế nhà nước.
5/ Chính phủ cần phải tăng cường quản lý các doanh nghiệp Nhà nước, nhất là các tập
đoàn kinh tế, các tổng công ty mạnh để các doanh nghiệp này tập trung nguồn lực phát triển
các ngành nghề chủ lực mà Nhà nước giao. Kiên quyết sắp xếp lại các tập đoàn kinh tế Nhà
nước có vấn đề trong hoạt động sản xuất kinh doanh như trường hợp tập đoàn Vinashin thời
gian qua. Nguyên tắc chung là Chính phủ chỉ nên phát triển các tập đoàn Nhà nước trong các
lĩnh lực kinh tế trọng yếu của nền kinh tế như: Năng lượng, lương thực, khoáng sản…còn các

lĩnh vực khác thì nên để cho các thành phần kinh tếkhác hoạt động. Chính phủ nên kiên quyết
Nhãm 2 - líp: K45 DK4 16GVHD: TRẦN KIM ANH


Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây,
các biện pháp chính phủ sử dụng để kiềm chế lạm phát
biến các tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước thành các đơn vị kinh tế chủ lực, “các nấm
đấm chủ lực” trong việc thực hiện nhiệm vụ ổn định và tăng trưởng kinh tế, tham gia kiềm chế
lạm phát khi Chính phủ yêu cầu.
Trong thời gian qua, có một thực tế là chính các tập đoàn kinh tế Nhà nước đã góp phần làm
gia tăng lạm phát. Đó là trường hợp tăng giá xăng, dầu, giá điện, giá than của các tập đoàn
kinh tế Nhà nước không đúng thời điểm. Thay vì để thực hiện nhiệm vụ kiềm chếlạm phát của
Chính phủ, các tập đoàn kinh tế Nhà nước này phải giữ giá, thậm chí là phải giảm giá thì họ đã
làm ngược lại, tăng giá hàng loạt, làm cho mức giá cả chung trong nền kinh tế càng tăng cao.
6/ Chính phủ cần thay đổi cơ chế kiểm soát giá, nên có cơ quan quản lý giá của Nhà
nước đối với các hàng hóa cơ bản như: Điện, xăng dầu, lương thực, thực phẩm…Cơ quan này
có hiệm vụ kiểm soát, điều hành mặt bằng giá cả của các hàng hóa cơ bản dưới sựchỉ đạo của
Chính phủ. Đây là cơ quan tham mưu cho Chính phủ trong việc tăng, giảm giá các mặt hàng
cơ bản chứ không phải giao cho Bộ Công thương hay Bộ Tài chính thực hiện nhiệm vụ này
như hiện nay. Có thể gọi đây là Ủy ban Giá cả thuộc Chính phủ như Ủy ban Vật giá trước đây.
7/ Về điều hành lãi suất.Lãi suất là giá cả của vốn, là chi phí đầu vào của doanh
nghiệp.Việc điều hành lãi suất phải linh hoạt, vừa đảm bảo kiểm soát lạm phát vừa kích thích
tăng trưởng kinh tế.Năm 2011, lãi suất quá cao nhưng cũng không kiềm giữ mức lạm phát ở
mức thấp như mong muốn, điều đó cho thấy mức lãi suất cao đã đẩy chi phí tăng cao. Do đó,
trong năm 2012 và những năm tiếp theo phải điều hành lãi suất theo hướng giảm dần lãi suất
để thúc đẩy sản xuất, tạo ra nhiều hàng hóa với giá thành hạ sẽtạo điều kiện kéo giảm giá cả
thị trường xuống và tác động giảm lạm phát.
8/ Chính phủ cần phải có giải pháp khôi phục và phát triển thị trường vốn, nhất là thị
trường chứng khoán.Hiện nay, vốn cho doanh nghiệp chủ yếu phụ thuộc vào hệ thốngngân
hàng thương mại. Nhưng hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng chưa phân biệt được ngân hàng

thương mại và ngân hàng đầu tư nên vốn dài hạn đầu tư lại do các ngân hàng thương mại cung
cấp từ nguồn vốn huy động ngắn hạn. Đây là một bất hợp lý và vô cùng nguy hiểm cho hệ
thống ngân hàng thương mại, gây nên tình trạng thiếu thanh khoản cho các ngân hàng vì vố
Nhãm 2 - líp: K45 DK4 17GVHD: TRẦN KIM ANH


Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây,
các biện pháp chính phủ sử dụng để kiềm chế lạm phát
ngắn hạn đã được cho vay đầu tư dài hạn. Để doanh nghiệp đến với kênh huy động vốn dài
hạn thực sự là thị trường chứng khoán và các ngân hàng đầu tư thì nhất thiết Chính phủ phải
vực thị trường chứng khoán Việt Nam dậy bằng các biện pháp như: rút ngắn thời gian thanh
toán từ T+4 hiện nay xuống T+0; xây dựng các khung hình phạt pháp lý với những tổ chức cá
nhân đầu tư có những hành vi gây lũng đoạn thị trừơng. Tăng tiêu chuẩn cho các cổ phiếu
niêm yết để làm tăng chất lượng sản phẩm cho thịtrường; Đẩy mạnh IPO các doanh nghiệp
nhà nước lớn để tăng sản phẩm chất lượng cho thị trường…

Tóm lại
Trong thực tế điều hành đất nước, bất cứ chính phủ của quốc gia nào cũng muốn nền
kinh tế nước mình có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và mức lạm phát thấp, mức thất nghiệp
thấp.Tuy nhiên, thực tế hoạt động của nền kinh tế cũng chỉ rõ kinh tế tăng trưởngcao đồng
hành với mức lạm phát cao.Nhưng lạm phát cao sẽ triệt tiêu những thành quảcủa tăng trưởng,
sẽ gây khó khăn cho đời sống kinh tế - xã hội, làm cho tăng trưởng thiếu tính bền vững.Vì vậy,
để đạt mục tiêu tăng trưởng bền vững nhất thiết phải kiểm soát lạm phát, muốn vậy, phải đặt
mục tiêu tăng trưởng vừa phải. Hy vọng với cách điều hành chính sách kinh tế vĩ mô một cách
thông minh, linh hoạt Chính phủ Việt Nam sẽ thực hiện được mục tiêu tăng trưởng kinh tế
năm 2012 là 6 – 6,5%, với mức lạm phát dưới 10%/năm làm tiền đề cho sự tăng trưởng ổn
định và bền vững cho các năm tiếp theo.

4. Những giải pháp kiềm chế lạm của chính phủ cho những năm 2008 - 2012
Một là, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Cho dù do nhiều nguyên nhân, nhưng

lạm phát luôn có nguyên nhân tiền tệ. Mức cung tiền trong lưu thông và dư nợ tín dụng tăng
liên tục tăng cao trong năm 2007 là nguyên nhân quan trọng gây lạm phát. Nhận thức được
tình hình đó, Chính phủ chủ trương kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư
nợ tín dụng ngay từ đầu năm. Ngân hàng Nhà nước, thông qua việc chủ động, linh hoạt sử
Nhãm 2 - líp: K45 DK4 18GVHD: TRẦN KIM ANH


Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây,
các biện pháp chính phủ sử dụng để kiềm chế lạm phát
dụng hợp lý các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường để thực hiện bằng được
yêu cầu này.Điều cần nhấn mạnh là trong khi kiên quyết thắt chặt tiền tệ, cần bảo đảm tính
thanh khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín dụng, tạo điều kiện
cho sản xuất hàng hoá và xuất khẩu phát triển.
Hai là, cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng
ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ
thâm hụt ngân sách.Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp nhà
nước hiện chiếm khoảng 45% tổng đầu tư xã hội.Cắt giảm nguồn đầu tư này sẽ làm giảm áp
lực về cầu, giảm nhập siêu, góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Chính phủ sẽ quy
định cụ thể tỷ lệ vốn đầu tư và chi phí hành chính phải cắt giảm và yêu cầu các bộ, địa phương
xác định các công trình kém hiệu quả, các công trình chưa thực sự cần thiết để có sự điều
chỉnh thích hợp. Điều này sẽ được thực hiện một cách kiên quyết ngay trong việc phân bổ lại
và cân đối nguồn vốn.Cũng trên tinh thần đó, Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Chủ tịch
UBND các tỉnh, thành phố với tư cách là đại diện chủ sở hữu nhà nước, rà soát chặt chẽ các
hạng mục đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, kiên quyết cắt bỏ các công trình đầu tư kém hiệu
quả. Đồng thời, tạo điều kiện và tập trung vốn cho những công trình sắp hoàn thành, những
công trình đầu tư sản xuất hàng hoá thuộc mọi thành phần kinh tế đẩy nhanh tiến độ, sớm đưa
vào sản xuất.
Ba là, tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục
nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực phẩm. Hiện
nay, tiềm năng tăng trưởng của nước ta còn rất lớn, nhất là khi Việt Nam đã là thành viên đầy

đủ của Tổ chức Thương mại thế giới, đầu tư nước ngoài và đầu tư tư nhân tăng mạnh, thị
trường xuất khẩu được mở rộng, vì vậy, phát triển sản xuất là giải pháp gốc, tạo hiệu quả
nhiều mặt, vừa tăng nguồn cung cho thị trường trong nước và xuất khẩu, góp phần kiềm chế
lạm phát, giảm nhập siêu, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lại không gây phản ứng phụ.
Để thực hiện yêu cầu này, Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho các bộ trưởng, chủ tịch UBND các
tỉnh và thành phố chỉ đạo quyết liệt, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về vốn, về thị
trường, về thủ tục hành chính, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Nhãm 2 - líp: K45 DK4 19GVHD: TRẦN KIM ANH


Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây,
các biện pháp chính phủ sử dụng để kiềm chế lạm phát

Bốn là, bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập
siêu. Cân đối cung cầu về hàng hoá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống
nhân dân là tiền đề quyết định để không gây ra đột biến về giá, ngăn chặn đầu cơ.Thủ tướng
Chính phủ, các bộ trưởng đã và sẽ tiếp tục làm việc với các hiệp hội ngành hàng, các doanh
nghiệp kinh doanh các mặt hàng thiết yếu, như: lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, xăng
dầu, sắt thép, vật liệu xây dựng, phân bón... giao nhiệm vụ cho các đơn vị này phải bảo đảm
nguồn hàng, đồng thời có trách nhiệm cùng Chính phủ kiềm giữ giá cả. Trong khi kiên trì chủ
trương thực hiện cơ chế giá thị trường, xoá bỏ bao cấp qua giá, nhưng trong tình hình hiện
nay, mặc dầu giá thế giới tăng cao, Chính phủ đã quyết định: từ nay cho đến hết tháng 6, chưa
tăng giá điện, giá than, giá xăng dầu; giữ ổn định giá xi măng, phân bón, nước sạch, thuốc
bệnh, vé máy bay, tàu hoả; giao Bộ Tài chính rà soát để cắt, giảm các loại phí thu từ nông
dân...
Để bảo đảm nguồn cung trên thị trường nội địa, giữ vững an ninh lương thực và kiềm
chế sự tăng giá quá mức của nhóm hàng này, Chính phủ quy định lượng xuất khẩu gạo năm
nay ở mức 4 triệu tấn và từ nay đến hết quý 3 không quá 3,2 triệu tấn. Chính phủ cũng đã giao
Bộ Tài chính đề xuất phương án nâng thuế xuất khẩu than, dầu thô và nghiên cứu khả năng áp
dụng thuế xuất khẩu gạo.

Trong điều kiện đồng Đô la Mỹ giảm giá so với đồng tiền các nước là thị trường xuất
khẩu lớn của nước ta, việc neo giữ quá lâu tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền Việt Nam và đồng
Đô la Mỹ không phản ánh đúng quan hệ thực trên thị trường ngoại tệ. Vì vậy, Chính phủ chủ
trương áp dụng tỷ giá linh hoạt với biên độ thích hợp, phản ánh quan hệ cung cầu trên thị
trường, giúp cho việc kiềm chế lạm phát nhưng không ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu, bảo đảm
việc mua bán, chuyển đổi ngoại tệ diễn ra thuận lợi.
Cán cân thương mại là một chỉ tiêu vĩ mô rất quan trọng. Nhập siêu tăng trong năm 2007 và
tăng cao hơn trong quý 1 năm nay, đã đe doạ đến cân đối vĩ mô, đòi hỏi phải áp dụng các biện
pháp kiên quyết để hạn chế tình trạng này trên cơ sở đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập
khẩu.
Nhãm 2 - líp: K45 DK4 20GVHD: TRẦN KIM ANH


Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây,
các biện pháp chính phủ sử dụng để kiềm chế lạm phát
Để làm việc này, Chính phủ đang chỉ đạo quyết liệt thực hiện nhiều giải pháp: Ngân
hàng Nhà nước bảo đảm đủ vốn và mua hết ngoại tệ cho các doanh nghiệp làm hàng xuất
khẩu, xử lý ngay các ách tắc về tín dụng xuất khẩu cho từng trường hợp cụ thể; tăng cường hỗ
trợ công tác xúc tiến thương mại đối với hàng xuất khẩu; cải cách mạnh thủ tục hành chính
liên quan đến hoạt động xuất khẩu để giảm chi phí cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao khả
năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam đi đôi với việc áp dụng các hàng rào kỹ thuật và
các biện pháp khác phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta để giảm nhập siêu, kể cả việc
tăng thuế nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu.
Năm là, triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng.Hiện nay, tình trạng lãng phí
trong sản xuất và tiêu dùng diễn ra khá phổ biến ở các cơ quan, đơn vị.Tiềm năng tiết kiệm
trong sản xuất và tiêu dùng là rất lớn. Vì vậy, Chính phủ yêu cầu các cơ quan nhà nước cắt
giảm 10% chi tiêu hành chính, các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các khoản chi nhằm hạ giá
thành và phí lưu thông. Chính phủ kêu gọi mọi người, mọi nhà triệt để tiết kiệm tiêu dùng,
nhất là nhiên liệu, năng lượng.Đây là giải pháp vừa có tác dụng giảm sức ép về cầu, giảm nhập
siêu, vừa góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền sản xuất xã hội.

Sáu là, tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc chấp hành pháp
luật nhà nước về giá. Kiên quyết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến động trên thị
trường để đầu cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu dùng, như:
xăng dầu, sắt thép, xi măng, thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm…; ngăn chặn tình trạng
buôn lậu qua biên giới, đặc biệt là buôn lậu xăng dầu, khoáng sản.
Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải thường xuyên kiểm tra giá bán tại các
mạng lưới bán lẻ và các đại lý bán lẻ của doanh nghiệp mình.Chính phủ đã chỉ đạo các tổng
công ty nhà nước phải gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện yêu cầu này và chịu trách nhiệm
trước Chính phủ về hoạt động của hệ thống bán lẻ và đại lý bán lẻ của doanh nghiệp.Chính
phủ cũng yêu cầu các hiệp hội ngành hàng tham gia tích cực, ủng hộ các chủ trương và giải
pháp bình ổn thị trường, giá cả.
Nhãm 2 - líp: K45 DK4 21GVHD: TRẦN KIM ANH


Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây,
các biện pháp chính phủ sử dụng để kiềm chế lạm phát
Bảy là, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội. Trước tình hình giá
cả tăng cao, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, nhất là vùng nghèo, hộ nghèo, vùng bị
thiên tai, người lao động có thu nhập thấp, Chính phủ đã chủ trương mở rộng các chính sách
về an sinh xã hội.
Chính phủ đã quyết định tăng 20% mức lương tối thiểu cho những người lao động
thuộc khối cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội
từ ngày 1 tháng 1 năm 2008. Chính phủ cũng quy định điều chỉnh mức lương tối thiểu theo
hướng tăng lên đối với lao động Việt Nam làm việc cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài tại Việt
Nam, lao động làm việc ở công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình,
cá nhân và các tổ chức khác của Việt Nam có thuê mướn lao động.
Riêng với người lao động đã qua học nghề (kể cả lao động do doanh nghiệp tự dạy
nghề), mức lương tối thiểu quy định cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu vùng.
Ngoài ra, khoảng 1,8 triệu người về hưu và người hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội đã được tăng

lương 20%, hơn 1,5 triệu người có công đã được điều chỉnh trợ cấp lên 20% so với mức chuẩn
hiện hành.
Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 289/QĐ-TTg về một số
chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo
và ngư dân. Theo đó, thực hiện cấp bằng tiền tương đương 5 lít dầu hoả/năm (dầu thắp sáng)
cho các hộ là đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách và hộ nghèo ở những nơi
chưa có điện lưới; điều chỉnh mức hỗ trợ mua bảo hiểm y tế cho người nghèo từ 80.000
đồng/người/năm lên 130.000 đồng/người/năm; hỗ trợ 50% mệnh giá thẻ bảo hiểm y tế đối với
thành viên thuộc hộ cận nghèo tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện; hỗ trợ ngư dân mua mới,
đóng mới tàu đánh bắt hải sản, tàu cung ứng dịch vụ cho hoạt động khai thác hải sản; hỗ trợ
ngư dân để thay máy tàu sang loại máy mới tiêu hao ít nhiên liệu hơn; hỗ trợ về kinh phí bảo
hiểm thân tàu cho tàu đánh bắt hải sản, tàu dịch vụ phục vụ hoạt động khai thác hải sản và bảo
Nhãm 2 - líp: K45 DK4 22GVHD: TRẦN KIM ANH


Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây,
các biện pháp chính phủ sử dụng để kiềm chế lạm phát
hiểm tai nạn cho thuyền viên làm việc theo hợp đồng lao động trên các tàu cá, tàu dịch vụ; hỗ
trợ về dầu cho ngư dân là chủ sở hữu tàu đánh bắt hải sản hoặc tàu cung ứng dịch vụ cho hoạt
động khai thác hải sản.
Chính phủ đã quyết định giữ ổn định mức thu học phí, viện phí và tiếp tục cho sinh
viên, học sinh đại học, cao đẳng, học nghề có hoàn cảnh khó khăn được vay ưu đãi để học tập.
Tiếp tục xuất gạo dự trữ quốc gia để cấp không thu tiền cho hộ đồng bào bị thiên tai, thiếu đói
(5). Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, các giải
pháp hỗ trợ khác đối với các vùng khó khăn, vùng bị thiên tai. Điều quan trọng cần chú ý là
phải xây dựng cơ chế và kiểm tra việc thực thi, bảo đảm nguồn hỗ trợ của Nhà nước đến đúng
đối tượng, không bị thất thoát, tham nhũng.
Tám là cần đồng tâm, hiệp lực
Chống lạm phát là một nhiệm vụ phức tạp, đòi hỏi sự trả giá và đánh đổi. Để chống lạm
phát đạt kết quả, sự trả giá và đánh đổi là thấp nhất, nhất thiết phải có sự phối hợp đồng bộ của

các cơ quan quản lý nhà nước, sự chấp hành và tổ chức, triển khai thực hiện nghiêm túc của
các cấp chính quyền.Hơn nữa, thị trường thế giới đang biến động, phải theo dõi sát tình hình,
cập nhật đầy đủ thông tin để có các giải pháp phản ứng kịp thời, chính xác, nhằm một mặt, hạn
chế các tác động xấu do những khó khăn khách quan mới nẩy sinh; mặt khác, tận dụng được
thời cơ mới xuất hiện để phát huy tiềm năng tăng trưởng của đất nước, thúc đẩy kinh tế phát
triển cao hơn khi điều kiện thuận lợi.
Chính phủ nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình trước toàn Đảng, toàn dân về kiềm
chế lạm phát. Nhưng, công cuộc này chỉ có thể đạt được kết quả khi có sự ủng hộ và đồng
tâm, hiệp lực của cả hệ thống chính trị, của cộng đồng doanh nghiệp, của các cơ quan thông
tin đại chúng và của toàn thể nhân dân cả nước.
Nhiệm vụ đặt ra là rất nặng nề, khó khăn thách thức trong quá trình phát triển đi lên có
mặt cũng rất gay gắt, nhưng thời cơ thuận lợi và tiềm năng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta
Nhãm 2 - líp: K45 DK4 23GVHD: TRẦN KIM ANH


Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây,
các biện pháp chính phủ sử dụng để kiềm chế lạm phát
còn rất lớn và rất cơ bản. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Bộ Chính
trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng và với sự quyết tâm, chung sức chung lòng của toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân, chúng ta sẽ kiềm chế được lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo
đảm an sinh xã hội và tiếp tục đưa nền kinh tế nước ta phát triển bền vững,

IΙΙ. KẾT LUẬN
Như vậy, theo phân tích ở trên lạm phát có tác động rất lớn đến mỗi quốc gia cũng như
tình hình phát triển kinh tế xã hội của nước đó,Chính vì thế,chúng ta cần nắm vững nguyên
nhân,tác động của lạm phát,những ảnh hưởng của nó ở tầm vi mô và vĩ mô để có các biện
pháp linh hoạt,nhanh chóng,hạn chế các nguy cơ và tác động của nóGiảm thiểu các tác động
tiêu cực của lạm phát là một vấn đề mang tính chất vĩ mô, đặc biệt đối với một nền kinh tế
mới bước vào ngưỡng cửa của hội nhập kinh tế như nước ta. Sự hi sinh tăng trưởng năm 2008
để kiềm chế lạm phát như quyết sách của Chính phủ Việt Nam đã đủ nói lên tầm quan trọng

của vấn đề.
Hệ thống các giải pháp của Chính phủ về kiềm chế lạm phát đang diễn biến đã có hiệu
lực. Với những tác động của ngoại lực và nội lực hiện hữu, cộng thêm các giải pháp toàn diện
và đồng bộ trong điều hành kinh tế vĩ mô, chắc chắn lạm phát có thể được kiểm soát. Trên cơ
sở đó, triển vọng mới sẽ mở ra cho kinh tế Việt Nam vững bước dấn sâu vào con đường hội
nhập
Trong thời gian tới, nền kinh tế của nước ta cũng đang có những thách thức, khó khăn
cần phải vượt qua, và vấn đề lạm phát vẫn còn tiếp tục diễn biến hết sức phức tạp,cần phải
nghiên cứu và có những biện pháp phù hợp để giữ vững tăng trưởng kinh tế,góp phần thực
hiện mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Hy vọng những nội dung trên đây sẽ góp phần đem lại hiệu quả tích cực cho việc kiềm
chế lạm phát, Phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế nước ta. Song trong quá trình nghiên

Nhãm 2 - líp: K45 DK4 24GVHD: TRẦN KIM ANH


Phân tích tình hình lạm phát của Việt Nam trong 5 năm gần đây,
các biện pháp chính phủ sử dụng để kiềm chế lạm phát
cứu, với khả năng có hạn, đề tài chỉ dừng ở mức nội dung cơ bản , không tránh khỏi những
thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Đỗ Đức Minh (2006), Tài chính Việt Nam 2001 – 2010, Nxb Tài chính,
Hà Nội.
2. Nguyễn Văn Nam, Trần Thọ Đạt (chủ biên), (2006), Tốc độ và chất lượng tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam, Nxb ĐHKTQD, Hà Nội.
3. Thời báo kinh tế Việt Nam, Kinh tế 2010 – 2011, Việt Nam và thế giới.
4. TS. Nguyễn Hữu Tài, 2002, Giáo trình Lý thuyết tài chính - tiền tệ, Nhà xuất bản thống kê
5. N.Gregrory Mankiw, 2000, Kinh tế học Vĩ Mô, Nhà xuất bản Thống Kê

Các trang web:
www.kinhtehoc.com
www.vietnamnet.vn
www.dantri.com.vn

Nhãm 2 - líp: K45 DK4 25GVHD: TRẦN KIM ANH


×