Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý thị xã hồng lĩnh, tỉnh hà tĩnh đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (449.11 KB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH


HOÀNG VĂN QUẢNG

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ THỊ XÃ HỒNG LĨNH,
TỈNH HÀ TĨNH ĐÁP ỨNG YÊU CẦU THỜI KỲ
ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ


2
NGHỆ AN - 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

HOÀNG VĂN QUẢNG

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ THỊ XÃ HỒNG LĨNH,
TỈNH HÀ TĨNH ĐÁP ỨNG YÊU CẦU THỜI KỲ
ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Chuyên ngành: Chính trị học


Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Đinh Thế Định


2
NGHỆ AN - 2015

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến: Ban Lãnh đạo nhà trường,
Phòng Đào tạo Sau đại học, Khoa Giáo dục Chính trị trường Đại học Vinh đã
tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi được học tập, rèn luyện.
Xin chân thành cảm ơn các nhà giáo, các nhà khoa học đã nhiệt tình
giảng dạy, giúp đỡ chúng tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Đặc
biệt, PGS. TS. Đinh Thế Định - người hướng dẫn khoa học đã tận tình, quan
tâm định hướng, hỗ trợ tôi trong suốt quá trình hoàn thành Luận văn tốt nghiệp.
Chân thành cảm ơn Lãnh đạo Ban Tổ chức Tỉnh ủy Hà Tĩnh, Thường trực
Thị ủy, Lãnh đạo Uỷ ban nhân dân Thị xã, các ban xây dựng Đảng Thị uỷ Hồng
Lĩnh, Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị, Phòng Nội vụ, Phòng Tài chính - Kế
hoạch, Văn phòng Thị uỷ, Chi cục Thống kê thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh đã
tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập cũng như cung cấp số
liệu và tư vấn khoa học cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Mặc dù bản thân đã nỗ lực cố gắng, nhưng với điều kiện thực tiễn thị xã
Hồng Lĩnh và một số kinh nghiệm của bản thân, Luận văn không thể tránh khỏi
những hạn chế, thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý, giúp đỡ của các thầy,
cô giáo và bạn bè, đồng chí, đồng nghiệp.
Hồng Lĩnh, tháng 10 năm 2015
Tác giả luận văn


Hoàng Văn Quảng


3


4
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA

1

LỜI CẢM ƠN

2

MỤC LỤC

3

A. MỞ ĐẦU

5

B. NỘI DUNG

11


Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP HUYỆN TRONG THỜI
KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ HỘI NHẬP
QUỐC TẾ
1.1. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở nước ta hiện nay

11
11

1.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế là một
yêu cầu cấp thiết

29

Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO,
QUẢN LÝ VÀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO,
QUẢN LÝ THỊ XÃ HỒNG LĨNH, TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY
2.1. Điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế, xã hội thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh
Hà Tĩnh
2.2. Thực trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý thị xã Hồng Lĩnh,
tỉnh Hà Tĩnh hiện nay
2.3. Thực trạng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở
thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ THỊ XÃ HỒNG LĨNH,

44
44
49

56


5
TỈNH HÀ TĨNH THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

67

3.1. Phương hướng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý thị xã
Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế

67

3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế

77

C. KẾT LUẬN

89

D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

91

E. PHỤ LỤC


96

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài


6
85 năm qua kể từ khi ra đời cho đến nay, Đảng ta luôn khẳng định: Cán
bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của
Đảng, của đất nước và của chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Đảng và Nhà nước
ta đã dày công đào tạo, huấn luyện, xây dựng đội ngũ cán bộ tận tuỵ, kiên
cường, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ qua các giai đoạn cách mạng. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: “Cán bộ là gốc của mọi công việc”, “công việc thành công
hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [34, tr.273].
Hiện nay, đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế. Nhiệm vụ mới rất nặng
nề, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải xây dựng một đội
ngũ cán bộ ngang tầm, góp phần thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, công tác cán bộ và
chất lượng đội ngũ cán bộ hiện nay còn nhiều yếu kém chưa ngang tầm với đòi
hỏi của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Một bộ phận
không nhỏ cán bộ thoái hoá về chính trị và phẩm chất đạo đức, lợi dụng chức
quyền tham ô, lãng phí, quan liêu, bè phái, mất đoàn kết, cơ hội, thực dụng…
Nguyên nhân của tình trạng này là do quá trình thực hiện cơ chế thị trường, mở
rộng giao lưu và hội nhập quốc tế, trước sự cám dỗ của tiền tài, vật chất, trước
các mánh lới tấn công xảo quyệt của các thế lực thù địch, không ít cán bộ lơi
lỏng tu dưỡng rèn luyện, giảm sút ý chí phấn đấu, né tránh tự phê bình và phê
bình, bị chủ nghĩa cá nhân lấn át. Mặt khác, công tác cán bộ của nhiều cấp uỷ và
tổ chức bị buông lỏng, yếu kém; ý thức tự giác trong thực hiện nhiệm vụ của

một bộ phận cán bộ chưa cao, tính năng động sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ
còn nhiều hạn chế. Trước tình hình đó, đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải có đầy đủ
phẩm chất cách mạng, bản lĩnh chính trị vững vàng, hiểu biết lý luận, tinh thông
nghiệp vụ, có năng lực lãnh đạo và quản lý.


7
Công tác cán bộ đóng vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, nên đã có nhiều nghị quyết của Đảng, văn bản của Nhà nước,
nhiều công trình nghiên cứu và đề cập đến vấn đề này.
Các nghị quyết của Đảng, văn bản của Nhà nước về công tác cán bộ tiêu
biểu như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước; Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 25 tháng 01 năm 2002 của Bộ
Chính trị (khóa IX) về việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý; Nghị quyết
số 42-NQ/TW, ngày 30 tháng 11 năm 2004 của Bộ Chính trị (khóa IX) về công
tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa; Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10 tháng 4 năm 2013 của Bộ Chính trị
(Khóa XI) về hội nhập quốc tế; Nghị quyết số 32-NQ/TW, ngày 26 tháng 5 năm
2014 của Bộ Chính trị (Khóa XI) về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công
tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý; Nghị quyết
số 12-NQ/TW, ngày 16 tháng 01 năm 2012 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Kết luận
số 37-KL/TW, ngày 02/02/2009 của Ban Chấp hành Trung ương (Khóa X) về
tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020; Luật cán
bộ, công chức số 22/2008/QH12 ngày 13/11/2008 của Quốc hội Khóa XII; Nghị
định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05/03/2010 của Chính phủ về việc đào tạo, bồi
dưỡng công chức; Quy định số 286-QĐ/TW ngày 08/02/2010 của Bộ Chính trị
về việc ban hành quy chế đánh giá cán bộ, công chức; Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ số 40/2006/QĐ-TTg ngày 15/02/2006 về việc phê duyệt Kế

hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2006-2010.
Các công trình nghiên cứu về công tác cán bộ: Tiêu biểu là các công trình:
PGS.TS Trần Đình Hoan (chủ biên): “Đánh giá Quy hoạch, luân chuyển cán bộ
lãnh đạo, quản lý thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, NXB chính
trị quốc gia (Hà Nội - 2009); Cao Khoa Bảng (chủ biên): “Nâng cao chất lượng


8
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá Thủ đô”
NXB chính trị quốc gia – Sự thật (Hà Nội - 2013); Lê Duẩn (1973): “Mấy vấn
đề về cán bộ và tổ chức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa”, NXB sự thật Hà
Nội; Luận văn tiến sĩ lịch sử: “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
tỉnh Vùng đồng bằng Sông Hồng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước” của tác giả Nguyễn Thái Sơn (Hà Nội - 2002); Luận văn thạc
sĩ khoa học lịch sử: “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp quận ở
thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của
Nguyễn Hồng Tân (Hà Nội - 2000).
Trong các công trình nêu trên, các tác giả đã bàn đến vai trò, vị trí tầm
quan trọng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị; phân
tích, đánh giá thực trạng đội ngũ này. Từ đó các tác giả đã tập trung nhấn mạnh
đến những yêu cầu về tiêu chuẩn phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và năng
lực cán bộ trong mối quan hệ với yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Trên cơ
sở đó, các tác giả đã đưa ra các giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Cùng với cả nước, hơn 15 năm thực hiện các Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 3 (Khóa VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, xuất phát từ tình hình thực tiễn, Đảng bộ, Chính quyền và
các cơ quan trong hệ thống chính trị của tỉnh Hà Tĩnh đã không ngừng chăm lo
bồi dưỡng, rèn luyện và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức của tỉnh Hà Tĩnh

ngày một tăng cả về số lượng và chất lượng. Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã ban
hành nhiều chính sách để thu hút nhân tài, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu
cầu mới. Thị xã Hồng Lĩnh được xác định là một trung tâm kinh tế, văn hóa xã
hội khu vực phía bắc của tỉnh Hà Tĩnh, trong những năm qua đã có sự phát triển
khá toàn diện: kinh tế tăng trưởng nhanh, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và


9
các ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng hơn 93,7% trong cơ cấu giá trị sản xuất. Tuy
vậy, nền kinh tế của thị xã quy mô còn nhỏ bé, số đơn vị hành chính và dân cư
còn ít, nguồn thu ngân sách hạn hẹp. Nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của
Thị xã đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với đội ngũ cán bộ công chức nói
chung, trước hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, là lực lượng chủ yếu lãnh
đạo, tổ chức triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng; chính sách,
pháp luật của Nhà nước trên địa bàn. Vì vậy, để có đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản
lý ngang tầm, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài thì trước hết phải
thực hiện tốt công tác tạo nguồn quy hoạch, thu hút nhân tài, đưa cán bộ đi đào
tạo sâu về chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị, chuẩn bị sẵn sàng cho một
đô thị năng động và phát triển.
Tuy nhiên, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và
nâng cao chất lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh
nói riêng nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay vẫn đang
còn đặt ra nhiều vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu một cách toàn diện, có
các giải pháp đồng bộ để giải quyết các vấn đề đặt ra.
Từ những phân tích nêu trên và từ yêu cầu của công tác xây dựng Đảng,
tôi chọn đề tài: “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý Thị xã Hồng
Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế” làm luận văn thạc sỹ.
2. Mục đích của đề tài

Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà
Tĩnh đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế, góp phần đưa thị xã Hồng Lĩnh phát triển nhanh và bền vững, trở
thành đô thị loại III vào năm 2020.


10
3. Nhiệm vụ của đề tài
- Làm rõ cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp huyện.
- Phân tích đặc điểm, vai trò, vị trí, yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế của thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh và những vấn đề đặt ra
cần giải quyết đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ của giai đoạn mới.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá chính xác, toàn diện về đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
- Xác định phương hướng và giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của cơ quan đảng, chính quyền, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh
bao gồm Ban Thường vụ Thị ủy, Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã, Thường trực
Hội đồng nhân dân, lãnh đạo Ủy ban nhân dân thị xã; trưởng, phó các ban xây
dựng đảng; trưởng phó các phòng, ban, đơn vị sự nghiệp thuộc Ủy ban nhân dân
thị xã; trưởng, phó các đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội thị xã.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Để giải quyết tốt vấn đề trên, tác giả tập trung nghiên cứu về quy mô số
lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của thị xã Hồng Lĩnh trong

giai đoạn 2010-2015 qua các yếu tố như: Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình
độ lý luận chính trị, trình độ ngoại ngữ, năng lực thực tiễn, kỷ năng quản lý điều
hành, công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, bố trí cán bộ và một số


11
vấn đề liên quan, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý của Thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn 2015 –
2020 và những năm tiếp theo.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam về công tác cán bộ.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp: điều tra, khảo sát, thống kê, so sánh,
phân tích, tổng hợp v.v…, rút ra những vấn đề có ý nghĩa thiết thực trong quá
trình luận chứng các vấn đề đã được nêu ra.
6. Đóng góp của luận văn
Đánh giá một cách toàn diện đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở thị xã
Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn 2010-2015; xác định giải pháp xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý thị xã trong chiến lược phát triển đô thị,
đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế của Thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn 2015 – 2020 và
những năm tiếp theo.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu cho các cấp uỷ đảng,
chính quyền địa phương, hệ thống trường chính trị vận dụng trong nghiên cứu,
quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, đề
tài gồm 3 chương, 7 tiết



12
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CẤP HUYỆN TRONG THỜI KỲ CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1.1. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở nước ta hiện nay
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện
1.1.1.1. Khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý
- Khái niệm cán bộ:
Thuật ngữ “cán bộ” được sử dụng khá thường xuyên và bao hàm trong
phạm vi rộng những người làm việc thuộc khu vực nhà nước, tổ chức chính trị
và các tổ chức chính trị - xã hội. Trong đời sống xã hội, từ lâu thuật ngữ “cán
bộ” được sử dụng trong phạm vi rất rộng, không hạn chế và không theo một quy
tắc, quy định nào, như: cán bộ xã, cán bộ thôn, cán bộ y tế, cán bộ lớp học, cán
bộ coi thi...
Theo Khoản 1 Điều 4 của Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định:
“Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ,
chức danh theo nhiệm kỳ trong các cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
(sau đây gọi chung là cấp huyện) trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nước” [32, tr.84].
Theo quy định này thì tiêu chí xác định cán bộ gắn với cơ chế bầu cử, phê
chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ. Những người đủ các
tiêu chí chung của cán bộ, công chức mà được tuyển vào làm việc trong các cơ
quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội thông qua con đường bầu



13
cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ thì được xác
định là cán bộ. Thực tế cho thấy, cán bộ luôn gắn liền với chức vụ, chức danh
theo nhiệm kỳ; hoạt động của họ gắn với quyền lực chính trị được nhân dân trao
cho và chịu trách nhiệm chính trị trước Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
- Khái niệm cán bộ lãnh đạo:
Theo Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản từ điển Bách khoa, Hà Nội, năm
2010, lãnh đạo có nghĩa là: “đề ra chủ trương, đường lối, và tổ chức, động viên
thực hiện” [47, tr.702].
Lãnh đạo được hiểu trên hai nghĩa: đề ra chủ trương, đường lối và tổ
chức, động viên mọi người thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối đã đề ra.
Trong thực tiễn, lãnh đạo là làm thế nào để các cá nhân và các tập thể đều nhận
thấy rằng những mục tiêu theo đuổi hợp với nguyện vọng của mình và khi hoàn
thành với những mục tiêu ấy, những nguyện vọng cá nhân cũng được thoả mãn.
Như vậy, cán bộ lãnh đạo là người đứng đầu của một tổ chức, một phong
trào; là người thủ trưởng của một tập thể, địa phương hoặc cơ quan, đơn vị,
thông qua công tác chỉ đạo, điều hành làm thức tỉnh hành vi của những người
dưới quyền (tức là đối tượng bị lãnh đạo của họ).
- Khái niệm cán bộ quản lý:
Cán bộ quản lý cũng là người đứng đầu một tổ chức, nhưng nhấn mạnh
việc điều hành hoạt động của tổ chức thông qua quy chế, quy định và việc sử
dụng công cụ, phương tiện để điều khiển một loại hoạt động nào đó.
Quản lý là quá trình hoạt động, điều hành một tổ chức, một nhóm người
thực hiện các nhiệm vụ nhằm đạt được các mục tiêu đề ra, được biểu hiện trên
các khía cạnh sau:
Thứ nhất, thông qua tập thể để thúc đẩy tính tích cực của cá nhân.
Thứ hai, điều hoà quan hệ giữa người với người, giảm mâu thuẫn giữa hai
bên.



14
Thứ ba, tăng cường hợp tác hỗ trợ lẫn nhau, thông qua hỗ trợ để làm được
những việc mà một cá nhân không thể làm được, thông qua hợp tác tạo ra giá trị
lớn hơn giá trị cá nhân - giá trị tập thể.
Khi xét xã hội như một chỉnh thể thì nội dung của hai khái niệm “lãnh
đạo” và “quản lý” là đồng nhất, bởi chúng đều là sự tác động tự giác của chủ thể
xã hội, chủ thể lịch sử lên hệ thống xã hội trên cơ sở nhận thức và vận dụng các
quy luật khách quan, vốn có của hệ thống xã hội đó. Cả hai đều có chung về
phương hướng và mục đích là đảm bảo duy trì cho sự hoạt động bình thường
của hệ thống. Tuy vậy, hai khái niệm này lại có sự khác nhau về nội dung hoạt
động và về hình thức, cách thức tác động lên đối tượng. Nếu xét quan hệ giữa
người lãnh đạo và người bị lãnh đạo thì phương thức tác động chủ yếu là các
mệnh lệnh và sức lôi cuốn của người lãnh đạo, mà sức lôi cuốn này có được là
do tài năng, uy tín và phẩm chất vốn có của người lãnh đạo tạo nên. Còn ở người
quản lý chính là ở khâu ra quyết định quản lý và sự giám sát, điều chỉnh kịp thời
các quyết định quản lý của mình cho phù hợp với yêu cầu của đối tượng quản lý.
Trong hệ thống chính trị nước ta, cán bộ lãnh đạo, quản lý là những người
được bầu ra hoặc bổ nhiệm để giữ chức vụ trong một tổ chức hoặc đơn vị, có
quyền hạn và trách nhiệm thực hiện chức năng lãnh đạo, quản lý, quy tụ và phát
huy được sức mạnh của tập thể để thực hiện mục tiêu chung. Cán bộ lãnh đạo,
quản lý vừa là người ra quyết định, vừa là người điều hành, quản lý để thực hiện
quyết định đó. Cán bộ lãnh đạo, quản lý vừa phải có trình độ về chuyên môn,
nghiệp vụ, vừa phải có phẩm chất, năng lực quy tụ, tập hợp được tập thể để tổ
chức thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.
1.1.1.2. Đặc điểm của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện
Theo phân cấp hành chính Việt Nam, hiện nay cả nước có 58 tỉnh và 5
thành phố trực thuộc Trung ương; cấp huyện có 718 đơn vị, gồm: 70 thành phố



15
trực thuộc tỉnh, 55 thị xã, 49 quận và 544 huyện; cấp xã có 11.257 đơn vị, bao
gồm 1.635 phường, 607 thị trấn và 9.014 xã.
Cấp huyện là cấp hành chính thứ hai trong hệ thống hành chính 3 cấp.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện bao gồm toàn thể Ban chấp hành đảng bộ
huyện, cán bộ lãnh đạo chủ chốt, trưởng phó các phòng ban chuyên môn của
huyện uỷ, uỷ ban nhân dân huyện và trưởng, phó các đoàn thể cấp huyện.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện trong những năm gần đây được
chuẩn hoá, có trình độ lý luận chính trị và trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu
chức danh công tác, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng vào sự lãnh đạo
của Đảng, công cuộc đổi mới đất nước và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội;
nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhiệt tình,
tâm huyết, trách nhiệm cao với công việc, có kinh nghiệm công tác, có khả năng
tuyên truyền vận động quần chúng, được nhân dân tin yêu, tín nhiệm. Số cán bộ
trẻ được đào tạo cơ bản, kế thừa truyền thống cách mạng của quê hương, đất
nước, năng động, thích nghi nhanh với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện hoạt động trong điều kiện cả nước
đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển, đòi hỏi yêu cầu ngày càng cao, nên phải
năng động, sáng tạo, luôn tìm tòi, học hỏi trong các hoạt động kinh tế, chính trị,
văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh, luôn cố gắng phấn đấu vươn lên nhằm
đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện được rèn luyện trong môi trường
thực tiễn gần cơ sở, phải tiếp cận nhiều với nhân dân, thường xuyên giải quyết
các vấn đề đặt ra trong hoạt động lãnh đạo, quản lý ở cơ sở, nên phải có kiến
thức phong phú, toàn diện, phải biết dân vận, hết lòng vì nhân dân.
1.1.1.3. Vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện
Đội ngũ lãnh đạo, quản lý có vai trò rất quan trọng đối với sự nghiệp cách
mạng, cụ thể:



16
- Là người được giao các nhiệm vụ quan trọng để lãnh đạo, quản lý, điều
hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ của tổ chức mình, chịu trách nhiệm trước tập
thể và cấp trên về nhiệm vụ được phân công. Các tổ chức ở cấp huyện được
thành lập theo quy định của Trung ương, Chính phủ hoặc tỉnh ủy, ủy ban nhân
dân tỉnh; có quy chế hoạt động, có chức năng nhiệm vụ, có người lãnh đạo, quản
lý và bộ máy nhân sự kèm theo.
- Là người đi đầu trong việc tiếp nhận các chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước và sự lãnh đạo từ cấp trên theo ngành, lĩnh vực
được phân công. Sự lãnh đạo theo ngành dọc từ Trung ương đến địa phương là
để đảm bảo tính thống nhất về kỷ thuật, chuyên môn, như ngành giao thông, xây
dựng, giáo dục đào tạo, y tế…
- Là người lãnh đạo việc cụ thể hoá đường lối, chính sách của Đảng,
chính quyền cấp trên vào điều kiện của địa phương, đơn vị. Tham mưu cho cấp
uỷ, chính quyền các mục tiêu, phương hướng, đề ra nghị quyết, chương trình
hành động để thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
đảm bảo quốc phòng an ninh, giữ vững ổn định chính trị và nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần của nhân dân trên địa bàn.
- Có thẩm quyền tham gia giải quyết các mối quan hệ chính trị, kinh tế, xã
hội, an ninh quốc phòng trong phạm vi toàn huyện.
1.1.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và Đảng cộng sản Việt Nam về cán bộ và công tác cán bộ
1.1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề cán bộ và công
tác cán bộ.
C.Mác và Ph.Ăngghen luôn khẳng định: giai cấp vô sản và chính đảng
của mình muốn giành được quyền lãnh đạo, giữ vững được chính quyền thì phải
xây dựng được một đội ngũ cán bộ trung thành và tài năng, đáp ứng nhiệm vụ
cách mạng. Từ kinh nghiệm của lịch sử xã hội loài người và từ chính quá trình



17
truyền bá lý luận khoa học của phong trào công nhân, C. Mác đã khẳng định:
“Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực
tiễn” [33, tr.181]. Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ ra rằng, mỗi sự kiện lịch sử,
mỗi bước ngoặt cách mạng của dân tộc và thời đại đều có sự tham gia đông đảo,
tích cực và mạnh mẽ của quần chúng nhân dân. Mỗi thời đại, mỗi dân tộc, mỗi
phong trào cách mạng đều xuất hiện những cá nhân kiệt xuất có vai trò quyết
định tới tiến trình lịch sử. Xuất phát từ luận điểm đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
bắt tay vào việc tuyển chọn, xây dựng đội ngũ cán bộ cho tổ chức cộng sản quốc
tế đầu tiên từ những hạt nhân được gọi là uỷ ban thông tin cộng sản.
Trong Điều lệ “Liên đoàn những người cộng sản”, tổ chức chính trị tiên
phong của giai cấp bao gồm những con người ưu tú của giai cấp, phấn đấu vì
mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người, đã nêu rõ nguyên tắc tổ
chức một đảng cách mạng của giai cấp vô sản. Đội tiên phong ấy phải lựa chọn
cho mình những người công nhân giác ngộ nhất, tiêu biểu nhất. Ph.Ăngghen đã
chỉ rõ “Cần phải sàng lọc từng người một, tiêu biểu nhất”, đây là phương pháp
luận cơ bản đặt nền móng cho việc xây dựng tổ chức của Đảng, xây dựng đội
ngũ cán bộ của Đảng.
V.I.Lênin, người kế thừa và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác, đã đặc biệt
coi trọng việc xây dựng một đội ngũ những nhà cách mạng chuyên nghiệp cho
phong trào cộng sản, đó là những cán bộ nòng cốt đầu tiên của Đảng cộng sản
Bônsêvich Nga, những người giúp Đảng đảo ngược nước Nga, là những nhà
chính trị vô sản và không thua kém các nhà chính trị của giai cấp tư sản. Ông
đánh giá rất cao vị trí, vai trò của cán bộ trong hàng ngũ của Đảng và trong tác
phẩm “Những nhiệm vụ bức thiết của phong trào chúng ta”, Người khẳng định:
“Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị nếu
không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những
đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức lãnh đạo phong trào” [31, tr.173].
Bởi vậy ngay từ ngày đầu thành lập Đảng Bônsêvích Nga, Lênin đã rất coi trọng



18
công tác cán bộ và chính Người cũng đã trực tiếp tham gia giảng bài các lớp tập
huấn đó.
Khi Đảng chưa có chính quyền, vấn đề cán bộ đã rất được quan tâm; khi
có chính quyền, vấn đề cán bộ càng trở lên quan trọng và cấp bách hơn. Đảng
phải gấp rút lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ về số lượng và
chất lượng đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới. Những vấn đề quan trọng về cán bộ và
công tác cán bộ đã được V.I.Lênin bàn đến nhiều ở giai đoạn Đảng đã giành
được chính quyền và tập trung ở thời kỳ sau khi chính quyền được thiết lập
trong cả nước.
Khi chính quyền lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Lênin đã
tiến hành đánh giá, sắp xếp lại cán bộ và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Năm 1922,
Người khẳng định: Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh hiện
nay là then chốt. Nếu không thì tất cả mệnh lệnh và quyết định chỉ là mớ giấy
lộn. Lênin khẳng định: Cán bộ luôn giữ vị trí cực kỳ quan trọng trong cách mạng
dân chủ và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ở bất kỳ giai đoạn cách mạng nào
cán bộ luôn là trung tâm của mọi vấn đề, là nguyên nhân của mọi thành công,
trong sự nghiệp cách mạng, nếu thiếu đội ngũ cán bộ tiên tiến, tiêu biểu thì cách
mạng không thể thành công. Cán bộ không đủ năng lực, thiếu bản lĩnh sẽ không
hoàn thành nhiệm vụ được giao.
1.1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ
Kế thừa và phát triển lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin về công tác cán
bộ, phát huy truyền thống và phương pháp dùng người của cha ông ta trước đây,
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi cán bộ là cái gốc của mọi công việc, muôn việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém. Nếu cán bộ tốt, cán bộ
ngang tầm thì việc xây dựng đường lối sẽ đúng đắn và là điều kiện tiên quyết để
đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi.



19
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Cán bộ là những người đem chính sách của
Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời
đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt
ra chính sách cho đúng” [35, tr.269]. Vị trí của cán bộ là “cầu nối” giữa Đảng,
Chính phủ với quần chúng, nhưng không phải là “vật mang”, là “dây dẫn”, là sự
chuyển tải cơ học mà chính là con người có đủ tư chất, tài năng và đạo đức để
làm việc đó. Bởi lẽ, để có thể đem chính sách của Đảng và Chính phủ giải thích
cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đòi hỏi người cán bộ phải có trình độ, trí tuệ
nhất định, nếu không người cán bộ sẽ không quán triệt hết, thậm chí là sai lệch
tinh thần nội dung của chính sách thì thật là nguy hiểm. Ngoài điều kiện có trình
độ nhất định, người cán bộ cần phải có một bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo
đức cách mạng. Việc truyền đạt, giải thích chính sách của Đảng và Nhà nước
cho dân chúng là một việc khó khăn và phức tạp, cũng như việc nắm chắc được
tình hình, tâm tư, nguyện vọng chính đáng của quần chúng, phản ánh được đúng
thực chất của tình hình để làm căn cứ cho việc hoạch định chủ trương chính
sách. Công việc này đòi hỏi người cán bộ phải có trình độ tổng kết thực tiễn,
khái quát nâng lên thành lý luận.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt cán bộ ở vị trí có tính chất quyết định. Chính
sách đúng đắn có thể không thu được kết quả nếu cán bộ làm sai, cán bộ yếu
kém. Về vấn đề này, Người đã đi xa hơn, sâu hơn, chỉ ra cội rễ của vấn đề một
cách vừa cụ thể, vừa có tính chất tổng quát. Người nói: “Khi đã có chính sách
đúng, thì sự thành công hay thất bại của chính sách đó là do cách tổ chức của
công việc, do nơi lựa chọn cán bộ, do nơi kiểm tra. Nếu ba điểm ấy mà sơ sài,
thì chính sách đúng mấy cũng vô ích” [35, tr.277].
Muốn tổ chức công việc tốt, phải có người cán bộ có tài, có đức. Mặt khác
cũng phải biết chọn người nào làm việc gì thích hợp, nếu không cũng có thể
hỏng việc mà không hoàn toàn do cán bộ yếu kém. Cùng với việc lựa chọn cán
bộ đúng để giao trọng trách, phải thường xuyên kiểm tra để phát huy mặt tốt,



20
ngăn ngừa và hạn chế mặt xấu, mặt tiêu cực. Vai trò của người cán bộ thể hiện
qua 3 mối quan hệ:
Một là, với đường lối, chính sách
Hai là, với tổ chức bộ máy (các cơ quan, tổ chức lãnh đạo quản lý)
Ba là, với quần chúng
Chỉ khi nào hoàn thành được sứ mạng do các quan hệ đó đòi hỏi thì người
cán bộ mới thực hiện được đúng vai trò của mình.
Vai trò của cán bộ và công tác cán bộ chỉ được thể hiện rõ ràng, cụ thể, có
hiệu lực gắn với đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng. Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, trong công tác cán bộ có các vấn đề lớn và các vấn đề đó có liên quan gắn
bó mật thiết với nhau, đó là: Hiểu biết cán bộ; Khéo dùng cán bộ; Cân nhắc cán
bộ; Thương yêu cán bộ; Phê bình cán bộ. Để có cán bộ tốt đáp ứng được phong
trào, nhiệm vụ của mỗi giai đoạn cách mạng, công tác cán bộ có vị trí quyết
định. Hồ Chí Minh là người nêu gương trong việc hoạch định đuờng lối, chính
sách vừa nguyên tắc, vừa linh hoạt trong xây dựng đội ngũ cán bộ. Người coi
công tác cán bộ như việc đào tạo nhân tài là trọng yếu và rất cần thiết. Người
nói: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng
người”. Chất lượng cán bộ phản ánh chất lượng cao hay thấp, tốt hay kém của
công tác cán bộ. Nếu quan tâm thực hiện tốt tất cả các khâu: Phát hiện, lựa chọn,
đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc, đề bạt, bố trí công việc, kiểm tra theo dõi, giúp đỡ,
nhất định ta sẽ có một đội ngũ cán bộ chất lượng tốt, chỉ cần một trong những
khâu đó bị xem nhẹ, làm không đến nơi đến chốn sẽ khiến cho chất lượng đội
ngũ cán bộ kém đi rất nhiều. Mặt khác dù cho sự quyết tâm của tổ chức, của tập
thể có tốt, chu đáo đến đâu cũng không thể thay thế cho sự nỗ lực phấn đấu của
từng cá nhân người cán bộ.
Với những quan điểm, tư tưởng trên, trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của mình, trong suốt quá trình lịch sử, Bác Hồ đã xây dựng và rèn luyện



21
một đội ngũ cán bộ đông đảo, có phẩm chất cách mạng cao đẹp, có năng lực tổ
chức lãnh đạo quần chúng thực hiện có hiệu quả mọi nhiệm vụ chính trị của
Đảng, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
1.1.2.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bộ và công tác
cán bộ
Quán triệt quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về vai trò của cán bộ và công tác cán bộ, Đảng ta luôn coi trọng công tác cán bộ
và xác định công tác cán bộ là vấn đề có tầm chiến lược quan trọng, là nhân tố
quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của đất nước, là
khâu then chốt nhất trong công tác xây dựng Đảng. Mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ
cách mạng cần có một đội ngũ cán bộ thích ứng có đủ phẩm chất đạo đức, năng
lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Đảng ta tiếp tục coi đức và tài - là hai
mặt trong nhân cách người lãnh đạo ở nước ta trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) đã khởi xướng
công cuộc đổi mới toàn diện, mà ở mỗi lĩnh vực đều đề cập đến vấn đề cốt tử là
đội ngũ cán bộ - công tác cán bộ. Đại hội khẳng định: đổi mới cán bộ lãnh đạo
các cấp là mắt xích quan trọng nhất mà Đảng ta phải nắm chắc để thúc đẩy
những cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng. Nội dung phương hướng trong công
tác cán bộ được Đại hội chỉ rõ: đổi mới đội ngũ cán bộ có nghĩa là đánh giá, lựa
chọn bố trí đi đôi với đào tạo, bồi dưỡng để có một đội ngũ đảng viên có đủ
những tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực lãnh đạo, quản lý ngang tầm nhiệm
vụ. Muốn đổi mới công tác cán bộ trước hết phải đổi mới đội ngũ những người
làm công tác tổ chức và cán bộ.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng nhấn mạnh:
tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, xây dựng cho được đội ngũ cán bộ vững mạnh



22
và đồng bộ, bao gồm cả cán bộ chính trị, cán bộ quản lý nhà nước, cán bộ kinh
doanh, chuyên gia trong lĩnh vực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ:
Đào tạo bồi dưỡng cán bộ, toàn diện về lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức,
trình độ chuyên môn và năng lực thực tiễn, coi trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
lãnh đạo, quản lý các doanh nghiệp và các chuyên gia, trước hết là cán bộ chủ
chốt trong hệ thống chính trị.
Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương khoá VIII đã bàn chuyên
đề về công tác cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Những quan điểm trong Nghị quyết hội nghị thể hiện rõ sự thấm nhuần và phát
triển những vấn đề cơ bản có tính nguyên tắc rút ra từ thực tế phong phú và cách
mạng Việt Nam, nó có ý nghĩa chỉ đạo chung cho cả thời gian trước mắt và
chiến lược cán bộ lâu dài.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001) tiếp
tục xác định nhiệm vụ đổi mới công tác cán bộ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ,
trước hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp, vững vàng về chính trị,
gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống có trí tuệ kiến thức và tài năng lực
hoạt động thực tiễn gắn bó với nhân dân” [23, tr.141].
Về đổi mới quan điểm xây dựng đội ngũ cán bộ tại Đại hội toàn quốc lần
thứ X, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, có cơ cấu hợp
lý, chất lượng tốt, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo kế tiếp vững vàng. Có cơ
chế, chính sách bảo đảm phát hiện, đánh giá, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng,
trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng người có đức, có tài… Đặc biệt quan tâm xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp” [24, tr.51].
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ chín (khoá X) đã tổng kết 10 năm thực
hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VIII) về chiến lược cán bộ và kết luận về
tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược cán bộ 2020 khẳng định: “Cán bộ là



23
nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt công tác xây
dựng Đảng. Phải thường xuyên chăm lo, xây dựng đội ngũ cán bộ, đổi mới công
tác cán bộ gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng” [25, tr.271].
Đặc biệt, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng ta xác định một
trong những nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới đó là: Nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Các quan điểm trên là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay. Những quan điểm chỉ đạo xuyên suốt của Đảng
về công tác cán bộ được thể hiện trên những nội dung cơ bản sau:
Một là, Công tác cán bộ phải gắn với đường lối và nhiệm vụ chính trị của
Đảng. Giữa đường lối và nhiệm vụ chính trị mới sản sinh ra đội ngũ cán bộ tốt.
Vì vậy khi tiến hành công tác cán bộ phải xuất phát từ đường lối chính trị của
Đảng, từ nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị.
Hai là, Công tác cán bộ phải gắn liền với tổ chức. Cán bộ là người lập ra
tổ chức, đồng thời chịu sự chi phối ràng buộc của từng tổ chức. Tổ chức quyết
định phương hướng và hành động của cán bộ. Tổ chức buộc cán bộ phải hành
động theo nguyên tắc nhất định, tổ chức đúng sẽ nhân sức mạnh của cán bộ lên
gấp đôi, vì vậy thực hiện nguyên tắc từ nhiệm vụ và công việc mà định ra tổ
chức, không nên vì cán bộ mà sinh ra tổ chức, bày ra công việc.
Ba là, Công tác cán bộ phải gắn liền với phong trào cách mạng của quần
chúng. Phong trào cách mạng của quần chúng làm sản sinh ra những cán bộ tốt,
đó là môi trường rèn luyện, thử thách và sàng lọc cán bộ. Mặt khác cán bộ lại là
người tuyên truyền, tổ chức duy trì phong trào cách mạng quần chúng.
Bốn là, Xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ phải trên cơ sở giữ
vững tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Bất cứ giai cấp nào, chế



×