Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

lý luận vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.4 KB, 21 trang )

LờI Mở ĐầU
Nền kinh tế nớc ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh
tế nhiều thành phần. Đó là một tất yếu khách quan và cần thiết. Đại hội Đảng
lần thứ VI- đại hội đánh dấu bớc ngoặt của công cuộc đổi mới- đã khẳng định:
thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng xã hội chủ
nghĩa. Chủ trơng này đợc Đại hội VII, Đại hội VIII của Đảng tiếp tục khẳng
định và bổ sung, làm rõ thêm. Trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế
nhiều thành phần, Đảng ta luôn luôn khẳng định thành phần kinh tế nhà nớc
đóng vai trò chủ đạo trong nên kinh tế quốc dân. Thực tiễn 10 năm đổi mới
vừa qua, Đảng và Nhà nớc ta đã có nhiều cố gắng củng cố, nâng cao vai trò
chủ đạo của kinh tế nhà nớc và thực tế vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nớc đã
từng bớc đợc khẳng định.
Nhng trong thực tiễn quản lý vĩ mô đối với kinh tế nhà nớc có những mặt
buông lỏng, có mặt thắt chặt cha hợp lý; trong khi đó, các doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế khác phát triển nhanh và trong quá trình hội nhập khu
vực và quốc tế nảy sinh những thách thức mới. Vì vậy, nếu chúng ta không có
biện pháp mạnh, kiên quyết, kịp thời, hợp lý để chủ động đổi mới, nâng cao
hiệu quả của kinh tế nhà nớc thì kinh tế nhà nớc sẽ gặp khó khăn trong quá
trình thực hiện vai trò chủ đạo của mình.

1


Phần 1: Lí luận về vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nớc
trong nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta hiện nay
1. Khái niệm về kinh tế nhà nớc.
Phạm trù kinh tế nhà nớc đã đợc sách báo đề cập đến trong nhiều năm gần
đây và đợc sử dụng thống nhất từ Đại hội lần thứ VIII của Đảng đến nay. Kinh
tế nhà nớc là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng về t liệu
sản xuất( sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nớc). Kinh tế nhà nớc bao gồm các


doanh nghiệp nhà nớc, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nớc và
các tài sản thuộc sở hữu nhà nớc có thể đa vào vòng chu chuyển kinh tế. Kinh
tế nhà nớc phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lợng vật chất quan
trọng và là công cụ để Nhà nớc định hớng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
2. Các bộ phận hợp thành kinh tế nhà nớc.
Kinh tế nhà nớc do nhiều bộ phận hợp thành, mỗi bộ phận có chức năng
và nhiệm vụ khác nhau.
Doanh nghiệp nhà nớc: là tổ chức kinh tế do Nhà nớc đầu t vốn, thành lập
và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực
hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội do Nhà nớc giao. Nh vậy, doanh nghiệp nhà
nớc có hai loại: một loại hoạt động kinh doanh vì mục đích lợi nhuận và một
loại khác, hoạt động công ích không vì mục tiêu lợi nhuận mà vì mục tiêu
phúc lợi xã hội.Trong đó doanh nghiệp nhà nớc hoạt động kinh doanh vì mục
đích lợi nhuận giữ vai trò quan trọng trong thành phần kinh tế nhà nớc.
Các quỹ dự trữ quốc gia: là một bộ phận của kinh tế nhà nớc, nhằm
đảm bảo cho kinh tế nhà nớc, kinh tế quốc dân hoạt động bình thờng trong
mọi tình huống. Các quỹ dự trữ quốc gia dùng lực lợng vật chất của mình dể
điều tiết, quản lý, bình ổn giá cả thị trờng, đảm bảo cho tình hình kinh tế- xã
hội ổn định để phát triển.
Các quỹ bảo hiểm nhà nớc: cũng là một bộ phận không thể thiếu đợc
của kinh tế nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng. Nó chịu trách nhiệm thực hiện
chế độ bảo hiểm do nhà nớc quy định để phục vụ cho kinh tế nhà nớc và các
thành phần kinh tế khác, nhằm đảm bảo cho hoạt động kinh tế- xã hội bình thờng trong những điều kiện bị tổn thất do rủi ro khách quan.
Các tải sản của nhà nớc có thể đa vào vòng chu chuyển kinh tế.
Các bộ phận cấu thành, tuy có nhiệm vụ cụ thể khác nhau, nhng có
quan hệ chặt chẽ với nhau trong một hệ thống kinh tế nhà nớc thống nhất và
hoạt động theo một thể chế do nhà nớc quy định.
3. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nớc.

2



Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII đã chỉ rõ: tiếp tục đổi mới và phát
triển có hiệu quả kinh tế nhà nớc để làm tốt vai trò chủ đạo: làm đòn bẩy đẩy
nhanh tăng trởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội; mở đờng hớng
dẫn, hỗ trợ các thành phần khác cùng phát triển; làm lực lợng vật chất để Nhà
nớc thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô; tạo nền tảng cho chế độ xã
hội mới. Nh vậy, Đảng ta luôn luôn khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế
nhà nớc trong nền kinh tế nhiều thành phần. Việc nhận thức đầy đủ, đúng đắn
về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nớc sẽ giúp chúng ta đánh giá đúng, yêu
cầu đúng đối với doanh nghiệp nhà nớc và trên cơ sở đó tìm biện pháp, chính
sách, cơ chế phù hợp, hữu hiệu để thúc đẩy nó phát triển.
Trớc hết, cần thống nhất một số quan điểm về vai trò chủ đạo của kinh
tế nhà nớc trong nền kinh tế nhiều thành phần. Thứ nhất, nói đến vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nớc là muốn nói đến vai trò quyết định của nó đối với xu
thế phát triển kinh tế- xã hội của đất nớc, là vai trò trung tâm tác động, chi
phối và định hớng sự vận động của các thành phần kinh tế khác. Thứ hai, khi
nói đến vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nớc nên hiểu đó là của cả hệ thống
kinh tế nhà nớc, trong đó, các doanh nghiệp nhà nớc chỉ là một bộ phận cấu
thành quan trọng của kinh tế nhà nớc và có thể coi đây là bộ phận chủ lực của
kinh tế nhà nớc.
Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nớc trong nền kinh tế nhiều thành phần
có thể đợc cụ thể hoá trên một số mặt chủ yếu sau:
Một là, kinh tế nhà nớc có tác dụng mở đờng cho sự phát triển các
thành phần kinh tế khác, thể hiện ở chỗ:
- Kinh tế nhà nớc thúc đẩy việc xây dựng quy hoạch, chiến
lợc, định hớng kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội và phát triển các
thành phần kinh tế khác theo con đờng xã hội chủ nghĩa; chính
quyết định này là để mở đờng cho các thành phần kinh tế khác phát
triển theo.

- Kinh tế nhà nớc đảm nhận phát triển kết cấu hạ tầng và
công trình công cộng khác để tạo điều kiện, mở đờng cho các thành
phần khác phát triển.
- Kinh tế nhà nớc đợc tiến hành cổ phần hoá một bộ phận
doanh nghiệp nhà nớc, liên doanh liên kết với t nhân trong và ngoài
nớc, với các thành phần kinh tế khác; việc làm này chính là mở đờng
cho các thành phần kinh tế khác phát triển. ở đây cần chú ý: chúng
ta cổ phần hoá chứ khônh phải t nhân hoá, cổ phần hoá nhng nhà n-

3


ớc phải giữ một tỉ lệ cổ phần khống chế và chỉ cổ phần hoá những
doanh nghiệp nhà nớc không giữ những vị trí quan trọng, yết hầu
của nền kinh tế. Việc cổ phần hoá, liên doanh, liên kết với các thành
phần kinh tế khác là nhằm mục đích mở đờng cho các thành phần
kinh tế khác phát triển, song phỉa nhớ một điều là kinh tế nhà nớc
phải luôn luôn giữ vai trò quyết định xu hớng phát triển, vai trò
trung tâm cuốn hút, hớng dẫn các thành phần kinh tế khác đi vào
quỹ đạo xã hội chủ nghĩa, nếu rời bỏ vai trò này sẽ chệch hớng xã
hội chủ nghĩa.
Hai là, kinh tế nhà nớc nêu gơng, tạo động lực cho các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác phát triển. Điều này biểu hiện ở chỗ kinh tế
nhà nớc và các thành phần kinh tế khác đều bình đẳng tronh kinh doanh, bình
đẳng trong cạnh tranh, nhng doanh nghiệp nhà nớc đi đầu trong thực hiện
pháp luật, chính sách, chế độ, gơng mẫu trong việc nộp thuế đã nêu gơng và
tạo động lực thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển.
Ba là, vai trò chủ dạo của kinh tế nhà nớc còn đớc thể hiện ở vai trò hợp
tác, tạo điều kiện giúp đỡ các thành phần kinh tế khác phát triển. Kinh tế nhà
nớc luôn có một bộ phận là doanh nghiệp nhà nớc trực tiếp làm kinh tế, trực

tiếp kinh doanh nhằm can thiệp sâu hơn, chủ động hơn, mạnh mẽ hơn vào các
hoạt đọng kinh tế. Chính thông qua hoạt động này, doanh nghiệp nhà nớc phát
triển quan hệ hợp tác, tạo điều kiện giúp đỡ để các thành phần kinh tế khác
phát triển, chẳng hạn doanh nghiệp nhà nớc đảm nhận những kĩnh vực vốn
lớn, thu hồi vốn chậm, mạo hiểm mà t nhân không đủ sức hoặc không muốn
làm, nh việc xây dựng kết cấu hạ tầng, đờng sá điện nớc v.v..Chính việc phát
triển các lĩnh vực này mới tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát
triển.
Mặt khác, kinh tế nhà nớc thông qua chủ sở hữu của mình là nhà nớc để
hoạch định các chính sách quản lý vĩ mô vừa hỗ trợ vừa giúp đỡ, tạo điều kiện
cho các thành phần kinh tế khác phát triển, chẳng hạn nh các chính sách về tài
chính, thực hiện lãi suất cho vay u đãi, thuế, chính sách mậu dịch, hải quan để
bảo vệ sự phát triển của các doanh nghiệp trong nớc, v.v..Nhà nớc còn cung
cấp, đảm bảo thông tin, đào tạo, bồi dỡng cán bộ cho các doanh nghiệp của tất
cả các thành phần kinh tế khác phát triển kinh doanh.
Bốn là, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nớc còn biểu hiện ở chỗ kinh tế
nhà nớc tạo nền tảng cho việc xây dựng chế độ xã hội mới- chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Kinh tế nhà nớc thông qua chủ sở hữu của mình là nhà nớc

4


đề ra các chủ trơng, chính sách, cơ chế quản lý cụ thể đồng bộ, có tác dụng
phát huy sức mạnh tổng hợp của tất cả các bộ phận cấu thành kinh tế nhà nớc,
tạo thành một lực lợng kinh tế hùng mạnh chi phối các thành phần kinh tế
khác, đi đầu trong việc ứng dụng khoa học, công nghệ tiến bộ, hiện đại, đi đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là lực lợng đóng góp xứng
đáng vào ngân sách nhà nớc, là công cụ và lực lợng vật chất để nhà nớc điều
tiết, hớng dẫn nền kinh tế, hạn chế những khuyết tật của cơ chế thị trờng,
chăm lo các chính sách xã hội, thực hiện mục tiêu dân giàu nớc mạnh, xã hội

công bằng, văn minh vững bớc đi lên chủ nghĩa xã hội. Tất cả những việc làm
đó là nhằm tạo ra nền tảng cho việc xây dựng chế độ xã hội mới. Đây là một
nội dung để khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nớc.
Nh vậy, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nớc nói lên vai trò trung tâm,
quyết định xu hớng vận động, phát triển của nền kinh tế. Song, việc quyết
định xu hớng vận động đó không phải bằng ý muốn chủ quan, mà phải bằng
sức mạnh của lực lợng vật chất. Do đó, điều kiện để thực hiện vai trò chủ đạo
của kinh tế nhà nớc là phải có một thực lực kinh tế đủ mạnh, với một cơ chế
quản lý thích hợp, có khả năng phát huy sức mạnh cộng hởng của các bộ phận
cấu thành kinh tế nhà nớc.

5


PHầN 2: Thc trng hot ng ca kinh t nh nc
1) Những thành tựu đã đạt đợc.
Nhìn khái quát, hệ thống kinh tế nhà nớc, mà chủ lực là hệ thống doanh
nghiệp nhà nớc đang đợc đổi mới, phát triển và ngày càng hoàn thiện hơn.
Điều này biểu hiện ở chỗ: hệ thống doanh nghiệp nhà nớc đang phát triển,
nắm giữ các lĩnh vực quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và chi phối các
thành phần kinh tế khác. Các bộ phận của kinh tế nhà nớc nh các quỹ dự trữ
quốc gia đảm bảo những cân đối lớn của kinh tế quốc dân; hệ thống bảo hiểm
đợc hình thành và phát triển, đã bảo hiểm và giúp các thành phần kinh tế an
tâm sản xuất; tài nguyên, đất đai, hầm mỏ đợc khai thác đạt hiệu quả nhiều
hơn. Cả hệ thống kinh tế này cùng với những thể chế thống nhất đồng bộ của
nhà nớc đang có tác dụng thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển theo
định hớng xã hội chủ nghĩa.
Điều đáng quan tâm là hệ thống doanh nghiệp nhà nớc- lực lợng nòng
cốt của kinh tế nhà nớc- qua nhiều lần sắp xếp, chuyển đổi đã từng bớc đợc
củng cố và có đóng góp tích cực vào thành tựu của quá trình đổi mới ở nớc ta.

Nhiều doanh nghiệp nhà nớc đã đứng vững trên thị trờng, sản xuất kinh doanh
có hiệu quả, đóng góp nhiều cho ngân sách. Trong giai đoạn 2000-2007 doanh
nghiệp nhà nớc đóng góp 39% GDP; 40% tổng thu ngân sách, 80% doanh
nghiệp kinh doanh có lãi; 8% doanh nghiệp hoà vốn và 12% doanh nghiệp
thua lỗ.Nhờ thực hiện sắp xếp lại và cổ phần hoá nên số doanh nghiệp có quy
mô vừa và lớn tăng lên. Năm 2007 cả nớc sắp xếp đợc 271 doanh nghiệp và bộ
phận doanh nghiệp, cổ phần hoá 150 doanh nghiệp nâng tổng số đơn vị đợc
sắp xếp là 5366 doanh nghiệp trong đó cổ phần hoá là 3756 doanh nghiệp; có
17 doanh nghiệp cổ phần hoá có vốn nhà nớc trên 100 tỉ đồng, một số doanh
nghiệp có vốn nhà nớc 1000 tỉ đồng nh công ty Phân đạm và hoá chất dầu khí,
tổng công ty bảo hiểm Việt Nam, ngân hàng ngoại thơngSo với tổng số
doanh nghiệp của cả nớc đang hoạt động doanh nghiệp nhà nớc tuy chỉ chiếm
3,6% nhng nó đã chiếm 32,7% tổng số lao động, 54,9% tổng số vốn,
51,1%giá trị tài sản cố định, 38,8% doanh thu. Việc liên doanh liên kết giữa
doanh nghiệp nhà nớc với các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là thành phần
kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài ngày càng phát triển đã thu hút thêm đợc nhiều
vốn, công nghệ, giải quyết việc làm cho ngời lao động. Phơng pháp sản xuất
kinh doanh và quản lý mới cùng trang thiết bị hiện đại đã từng bớc nâng cao
năng suất, chất lợng cho một số doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhà nớc
công ích trong hoạt động biết tiết kiệm chi phí, nhiều doanh nghiệp đã tự tạo

6


đợc nguồn vốn cho mình chứ không chỉ trông chờ vào ngân sách nhà nớc do
đó phục vụ nhu cầu xã hội tốt hơn.
Tóm lại, hệ thống doanh nghiệp nhà nớc đã đợc tổ chức, sắp xếp lại theo
một cơ cấu mới, tiến bộ hơn về chất; cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc đợc xác định ngày càng rõ và hoàn thiện hơn; vai trò tự chủ kinh doanh và
rự chủ tài chính của các doanh nghiệp đợc xác lập và ngày càng mở rộng nhà
nớc từng bớc quản lý doanh nghiệp bằng pháp luật, nên môi trờng, hành lang

pháp lý ngày càng rõ ràng giúp quản lý và phát huy tính chủ động của doanh
nghiệp. Với những kết quả tiến bộ trên, doanh nghiệp nhà nớc đã tạo ra lực lợng vật chất cần thiết để tác động chi phối và hợp tác trong việc thực hiện các
cân đối chủ yếu của nền kinh tế, phát huy vai trò mở đờng và làm đòn bẩy để
thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển, góp phần giải quyết tốt hơn
những vấn đề xã hội hớng vào việc từng bớc thực hiện mục tiêu dân giàu, nớc
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, làm cơ sở cho việc hình thành
chế độ mới- chế đọ xã hội chủ nghĩa.
2) Những tồn tại và yếu kém.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt đợc, kinh tế nhà nớc vẫn còn những tồn
tại và yếu kém cha thể khắc phục. Hệ thống doanh nghiệp nhà nớc hiện nay
nổi cộm bốn vấn đề gay gắt trong cạnh tranh của kinh tế thị trờng, ảnh hởng
rất lớn đến khả năng nắm giữ có hiệu quả vị trí then chốt đối với nền kinh tế
thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa. Cụ thể nh sau:
Một là, quy mô và các mối quan hệ quản lý của doanh nghiệp nhà nớc
còn nhiều điểm cha hợp lý. Doanh ngiệp nhà nớc phát triển còn chồng chéo,
trùng lặp về ngành nghề, sản phẩm. Nguồn vốn hạn hẹp nhng lại đầu t, hinh
thành và phát triển nhiều doanh nghiệp nhà nớc có quy mô quá nhỏ bé không
đủ lực để tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Đây là một sự lãng phí lớn
trong đầu t phát triển.
Hai là, trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu đã và đang là lực cản lớn đối
với quá trình nâng cao năng suất, chất lợng và sức cạnh tranh các sản phẩm
trên thơng trờng. Nhiều loại vật t, nguyên liệu tồn kho đã lỗi thời, phẩm chất
đã giảm, không tiêu thụ đợc; nhng doanh nghiệp nhà nớc vẫntreo lại, chờ
nhà nớc có biện pháp xử lý. Do đó, doanh nghiệp phải tăng thêm chi phí bảo
quản cất giữ, gây ứ đọng vốn dẫn đến tình hình tài chính đã khó khăn lại càng
khó khăn hơn.
Ba là, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nớc giảm dần,
nợ nần nhiều, quan hệ phải thu phải trả ngày càng lớn, tình hình tài chính

7



thiếu lành mạnh. Nhà nớc phải giúp đỡ, hỗ trợ ngày càng nhiều trong khi ngân
sách nhà nớc còn eo hẹp, tỉ lệ vay nợ trong và ngoài nớc tăng.
Bốn là, doanh nghiệp nhà nớc cũng là một trong những địa chỉ của tệ
lãng phí, tham nhũng, gây thất thoát tổn thất nguồn tài lực của nhà nớc.Trong
những năm 2000-2002 số doanh nghiệp nhà nớc cổ phần hoá và đa dạng sở
hữu gần nh dẫm chân tại chỗ; nhiều bộ, ngành, địa phơng lại thành lập thêm
doanh nghiệp nhà nớc dù cha đủ cơ sở và điều kiện. Phần lớn doanh nghiệp
mới đợc thành lập không thuộc ngành mũi nhọn, then chốt mà chủ yếu hoạt
động trong lĩnh vực thơng mại, dich vụ, xây dựng ,thi công xây lắp, sản xuất
hàng tiêu dùng là những lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác có nhiều
lợi thế hơn.
Các tổng công ty 91 tuy là những doanh nghiệp có nhiều lợi thế và tiềm
lực nhng tình hình cũng chẳng sáng sủa hơn so với thực trạng chung của
doanh nghiệp nhà nớc. Về vốn, 17 doanh nghiệp này nắm giữ tới 80000 tỉ
đồng trên 126000 tỉ đồng, chiếm tới 63,5% tổng số vốn ngân sách tại các
doanh nghiệp nhà nớc, nắm giữ các sản phẩm quan trọng nhất và luôn đợc hởng các chính sách u đãi của Chính phủ mỗi khi gặp khó khăn. Thế nhng số
lãi trớc thuế của 17 tổng công ty trong 6 tháng đầu năm 2001 chỉ đạt 92% so
với cùng kì, chỉ bằng 47% kế hoạch năm. Vẫn còn 23% số các doanh nghiệp
thành viên bị thua lỗ.
3) Nguyên nhân của những tồn tại và yếu kém.
Nguyên nhân chủ yếu, bao trùm của những tồn tại và yếu kem của doanh
nghiệp nhà nớc là do quan hệ sản xuất cha phù hợp với trình độ phát triển của
lực lợng sản xuất , nhiều chủ trơng chính sách thuộc về quản lý vĩ mô của
nhà nớc con bất cập cha đồng bộ, trình độ chuyên môn và quản lý của cán bộ
trong doanh nghiệp nhà nớc cha theo kịp yêu cầu phát triển. Cụ thể là:
Thứ nhất, hệ thống thể chế, chính sách đối với doanh nghiệp nhà nớc cha
đợc cải tiến kịp quá trình đổi mới theo cơ chế quản lý của nền kinh tế thị trờng. Hệ thống thể chế, chính sách hiện nay va thể hiện lối t duy cũ, nặng cơ
chế xin- cho, ban phát, bảo trợ đến mức tối đa từ ngân sách nhà nớc, từ các

mệnh lệnh theo ý muốn chủ quan của các cơ quan hành chính, quản lý cấp
trên để không chệch hớng và mong muốn nó làm đợc vai trò then chốt, cạnh
tranh thắng lợi trên thị trờng. Do vậy, quyền tự chủ, tự quyết định của doanh
nghiệp nhà nớc trên thơng trờng bị tớc bỏ, quyền tự chịu trách nhiệm trớc
pháp luật về những quyết định, quyết đoán cũng không cònĐiều đó gây tâm
lý ỷ lại nặng nề, dựa dẫm vào sự bảo trợ của nhà nớc, va triệt tiêu động lực,

8


vừa không khuyến khích nâng cao năng suất, chất lợng, hiệu quả và sức cạnh
tranh của mình. Trong khi đó, chính sách tiền lơng bất hợp lý kéo đài trong
nhiều năm không động viên, đảm bảo đợc cuộc sống cho ngời lao động, nhất
là những ngời tài giỏi. Đó là một trong những nguyên nhân chính làm chảy
chất xám và nạn tham nhũng trong doanh nghiệp nhà nớc.Ngoài ra, còn phổ
biến tình trạng luật đá luật, chồng chéo trái ngợc nhau bởi sự chi phối của
tính cục bộ và lợi ích của các bộ, ngành, các cấp quản lý ở địa phơng ngay từ
khi soạn thảo các dự án luật và các văn bản dới luật.
Thứ hai, tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp cha hợp lý. Với bộ máy
quản lý hiện nay, hệ thống doanh nghiệp nhà nớc phải gánh chịu hai gọng
kìm: một bên là bộ, ngành, cấp chủ quản của doanh nghiệp và một bên là các
tổ chức thanh tra, kiểm tra thuộc bộ quản lý chuyên ngành. Tức là tất cả các
bộ, ngành với hệ thống dọc, ngang đều có quyền thực hành chức năng của
mình tại doanh nghiệp để hớng dẫn, chỉ đạo, giám sát, thanh tra, kiểm tra và
trên thực tế nhiều khi đó là những sự nhũng nhiễu phiền hà, gây tổn thất cho
doanh nghiệp, hiệu quả đem lại thấp và không rõ rệt.
Đáng lu ý là sự tồn tại lâu dài của cơ chế bộ, ngành và cấp chủ quản với
hai chức năng song hành là vừa đại diện chủ sở hữu nhà nớc, vừa làm nhiệm
vụ quản lý nhà nớc đối với doanh nghiệp đã tạo cơ sở pháp lý cho các cấp can
thiệp quá sâu vào mọi lĩnh vực trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp. Cơ chế trên một mặt gây tâm lý ỷ lại, thói quen bị động, xin xỏ các
điều kiện thuận lợi trong kinh doanh và là địa chỉ tin cậy để cầu mong sự
thông cảm hoặc bao che khi doanh nghiệp có điều sai trái, vi phạm pháp
luật; mặt khác tạo ra thói quan liêu, hách dịch, mệnh lệnh, làm cho cấp dới
thi hành với nhiều gậy chỉ huy, nhiều ngời quản lý nhng cuối cùng không có ai
chịu trách nhiệm từ các mệnh lệnh đó.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp nhà nớc cha đợc chỉ huy và
cha thể hiện đợc năng lực, bản lĩnh cần phải có. Yêu cầu đối với giám đốc
trong điều kiện mới không chỉ có năng lực, trình độ về nghiệp vụ kinh doanh
mà còn phải có óc sáng tạo, tinh thần trách nhiệm, sự nhanh nhẹn trong việc
thu thập và xử lý thông tin, sáng suốt trong việc dự đoán các tình huống trên
thơng trờng, có phẩm chất vững vàng với ý thức vì nhân dân phục vụ. Trách
nhiệm không chỉ thuộc bản thân từng giám đốc mà lớn hơn, cao hơn thuộc về
hệ thống tổ chức và cán bộ trong việc theo dõi, đề bạt, bổ nhiệm giám đốc nói
riêng và đội ngũ cán bộ chủ chốt trong từng doanh nghiệp nói chung.

9


Thứ t, mô hình và cơ chế lãnh đạo của Đảng trong doanh nghiệp nhà nớc
còn nhiều bất cập nên cha phát huy đợc tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của
thủ trởng doanh nghiệp. Mặt khác doanh nghiệp nhà nớc còn là cái tui chứa
đựng nhiều loại lao động.
Ngoài ra, sự yếu kém của doanh nghiệp nhà nớc còn do vốn sản xuất
kinh doanh thiếu nghiêm trọng nhng việc sử dụng và quản lý lại kém hiệu quả,
thêm vào đó, tình trạng chiếm dụng vốn trong kinh doanh càng làm cho vốn
thiếu nhiều hơn; trang thiết bị kĩ thuật cũ kĩ và lạc hậu, hiệu quả sử dụng thấp.
Từ sự phân tích nhiều mặt nh trên cho thấy việc thua lỗ, kém hiệu quả
thậm chí phá sản của một bộ phận doanh nghiệp nhà nớc không phải do bản
chất của doanh nghiệp nhà nớc mà chủ yếu do con ngời- từ khâu hoạch định

thể chế, chính sách, cơ chế tổ chức bộ máy quản lý cho đến việc quản lý, điều
hành từng doanh nghiệp cũng nh cả hệ thống.

10


PHầN 3 : Giải pháp để tăng cờng vai trò chủ đạo của thành phần
kinh tế nhà nớc trong nền kinh tế th trờng định hỡng xã hội chủ nghĩa ở
nớc ta hiện nay
Xuất phát từ thực trạng và vai trò của kinh tế nhà nớc, từ xu hớng quốc tế
hoá, hội nhập trong thời đại ngày nay- những thuận lợi, đồng thời cũng là
những thách thức cho nhiều quốc gia có nền kinh tế kém phát triển- khu vực
kinh tế nhà nớc phải đạt đợc sự tăng trởng không chỉ nhanh về tốc độ, mà còn
phải đảm bảo cả về chất lợng để có thể cạnh tranh với các tổ chức kinh tế nớc
ngoài. ở nớc ta dới sự lãnh đạo của Đảng, nhà nớc hoàn toàn có đủ năng lực
và quyền lực để xây dựng những chính sách, giải pháp khắc phục tồn tại, xử lý
những hậu quả để kinh tế nhà nớc đảm nhiệm đợc vị trí then chốt với hiệu quả
cao, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển. Trớc mắt cần tập trung giải
quyết những vấn đề sau:
Một là, tận dụng và sử dụng có hiệu quả cao nhất nguồn lực vật chất to
lớn của kinh tế nhà nớc để đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nền
kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, dịch vụ với tốc độ nhanh
hơn. Trong đó mục tiêu u tiên hàng đầu là củng cố các doanh nghiệp nhà nớc
đã có cơ sở kinh tế vững chắc, đồng bộ, đã và đang có nhiều tiềm lực về năng
suất, chất lợng, hiệu quả làm nòng cốt để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
nâng cao tốc độ tăng trởng. Trớc mắt cần tập trung tháo gỡ các vớng mắt trong
việc hình thành đồng bộ các thể chế kinh tế thị trờng: vốn, lao động, đất đai,
địa ốc, thông tin, khoa học và công nghệĐồng thời, để thực hiện đợc yêu cầu
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu nông nghiệp- nông thôn nói
riêng, phải đổi mới kinh tế và phơng hớng đầu t của nhà nớc. Cải cách thực

hiện hệ thống tài chính- ngân hàng theo hớng tập trung đầu t cho chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và tôn trọng các cam kết với các tổ chức kinh tế- tài chính quốc
tế.
Cần tổ chức chỉ đạo triển khai cải cách đồng bộ, có hiệu quả bốn lĩnh vực
then chốt: cải cách thể chế( chính sách, luật pháp); cải cách hành chính, bộ
máy tổ chức, nhân sự; cải cách hoạt động tài chính- ngân hàng; nâng cao chất
lợng nguồn nhân lực. Trong đó cải cách chế độ chính sách tiền lơng phải đợc
coi là khâu đột phá để xoay chuyển toàn bộ tình hình, tạo điều kiện thuận lợi
cho thực hiện cải cách ở các lĩnh vực khác. Hiện nay tuy nhà nớc đã có nhiều
điều chỉnh về chính sách tiền lơng nhng vẫn cha thực sự hiệu quả.
Hai l,Vn ci cỏch th ch kinh t cn c nh nc ch o khn
trng ng b t c s thng nht chung gia cỏc b,ngnh v cỏc cp
11


quản lí nhằm khắc phục những tồn tại hiện nay để tạo động lực phát
triển.trong 5 năm tới hình thành tương đối đồng bộ cơ chế quản lí nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,khắc phục những yếu kém tháo gỡ
những vướng mắc.
Vấn đề quan trọng cần đặt ra đối với cải cách thể chế doanh nghiệp nhà
nước là cần phải đạt được những yêu cầu cải cách các loại thể chế bao hàm
đầy đủ các nội dung sau :
Doanh nghiệp nhà nước có mặt đúng trận tuyến then chốt,đảm bảo được
sự định hướng và sự ổn định xã hội,an ninh nhân dân bất kì trong tình huống
nào.Không phát triển doanh nghiệp nhà nước tràn lan sang các lĩnh vực,ngành
nghề mà các thành phần kinh tế khác có thể làm.
Tạo lập cho được những cơ sở,những điều kiện tối thiểu,cần thiết ban
đầu cho doanh nghiệp nhà nước đủ sức hoạt động với thế mạnh về cạnh tranh
và nguồn lực trên 1 sân chơi bình đẳng; Các doanh nghiệp nhà nước cũng cần
cạnh tranh với nhau để phát triển

Không có sự can thiệp quá sâu của nhà nước với tư cách là chủ sở hữu để
quản lí trực tiếp về phướng án sản xuất kinh doanh,vốn,nhân sự,tiền
lương,phân phối lần đầu và kiểm tra,kiểm soát đối với doanh nghiệp nhà nước
làm cho người điều hành doanh nghiệp phải hoạt động trong thế bị động,lung
túng,khó khăn,không phát huy được tình chủ động,sáng tạo trong sản xuất
kinh doanh mà luật pháp đã quy định
Không có kẽ hở trong cơ chế,chính sách để bọn xấu có thể lợi dụng.Đặc
biệt cần loại bỏ ngay những kẻ ăn cắp,hám danh hám lợi thông đồng trong
ngoài để “Rút ruột nhà nước”.Đồng thời ko hình sự hóa các quan hệ kinh tế
dân sự,công tác thanh tra,kiểm tra có tác dụng thiết thực, vừa phát hiện nhân
tố mới,vừa phát hiện ngăn chặn sai lầm.
Xóa bỏ cơ chế chủ quản đối với doanh nghiệp nhà nước của các
bộ,ngành,cấp quản lí hành chính được phép trên cơ sở phân định rõ hai chức
năng của đại diện chủ sở hữu nhà nước và chức năng quản lí nhà nước.Doanh
12


nghiệp nhà nước chỉ chịu sự kiểm tra,quản lí,giám sát của luật pháp nói
chung,của các bộ quản lí chuyên ngành ở từng lĩnh vực nói riêng.Bộ trưởng
bộ tài chính được thủ tướng chính phủ ủy quyền làm đại diện chủ sở hữu nhà
nước thông qua 1 hệ thống tổ chức đầu tư vốn cho doanh nghiệp nhà nước
theo phương thức hoạch toán kinh doanh chứ không phải cấp vốn bằng hình
thức hành chính như trước.
Luật hóa về trách nhiệm thực hiện quy chế dân chủ và trách nhiệm của
người thủ trưởng thuộc cơ quan chủ quản và người giám đốc phải chịu trách
nhiệm bồi thường,chịu trách nhiệm hình sự trước pháp luật về sự tổn thất thua
lỗ của doanh nghiệp
Các chức danh có trách nhiệm chủ yếu về quản trị,điều hành doanh
nghiệp nhà nước cần áp dụng những phương pháp tuyển chọn nghiêm túc
đúng nghành,nghề đào tạo,chặt đứt những đường dây móc ngoặc trên dưới

trong ngoài về cán bộ, phải có sự cam kết trước pháp luật đối với cán bộ được
bổ nhiệm vảo các chức danh này
Yêu cầu cao nhất của các loại thể chế đối với doanh nghiệp nhà nước nói
riêng kinh tế nhà nước nói chung là 1 mặt phải thể hiện được những loại tài
sản,vốn liếng, cơ sở vật chất do nhà nước sở hữu,là tài sản có chủ chứ không
phải tài sản vô chủ,không thể bòn rút,đục khoét,ăn cắp …mặt khác cơ chế
quản lí không trói buộc doanh nghiệp nhà nước,làm cho nó rơi vào tình trạng
bị động,thụ động, ỷ lại tạo ra thói quen ăn gian nói dối,nịnh bợ không phát
huy được tính chủ động năng động và sáng tạo của chính nó
Ba là,trách nhiệm quản lí,điều hành doanh nghiệp nhà nước cần được
xác định rõ và giao cho một người là tổng giám đốc.Do vậy trong quy chế làm
việc của doanh nghiệp,nhà nước phải phân định rõ chức năng,nhiệm vụ,quyền
hạn,trách nhiệm và mối quan hệ giữa tổng giám đốc với bí thư đảng ủy; Tập
thể ban giám đốc với tập thể ban thường vụ đảng ủy doanh nghiệp.Khi trách
nhiệm rõ rành quyền hạn phân minh giữa cá nhân và tập thể thì mới tránh
được tình trạng chồng chéo giẫm đạp đùn đẩy ỷ lại nhau từ trong nội bộ
13


doanh nghiệp và mới có thể thành công trong kinh doanh.Để làm được việc
đó nhà nước phải chọn lựa thi tuyển,đề cử người có năng lực,trình độ,phẩm
chất xứng đáng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp.Đối với
tổng giám đốc doanh nghiệp nhà nước phải qua thi tuyển nghiêm túc,được sát
hạnh qua một hội đồng giám khảo về các phương án sản xuất kinh doanh,có
sự cam kết trách nhiệm trước pháp luật về sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp và bồi thường vật chất nếu để xảy ra tổn thất.Tổng giám đốc tuân thủ
và hoạt động theo luật pháp trong mọi lĩnh vực mà doanh nghiệp đang kinh
doanh,thực hiện nghiêm quy chế dân chủ cơ sở,quyết định các công việc của
doanh nghiệp và chịu trách nhiệm trước nhà nước trước pháp luật về những
quyết định đó.Nếu một,hai năm mà sản xuất kinh doanh không đạt hiệu quả

thì xem xét bãi nhiệm chức vụ,sau đó tùy sự việc vi phạm mà xử lí hành chính
hay truy tố trước pháp luật.
Bốn là,Xóa bỏ hẳn cơ chế chủ quản đối với doanh nghiệp nhà nước,có ý
kiến lo ngại rằng nếu nhà nước giao cho bộ tài chính đại diện chủ sở hữu vốn
nhà nước,thông qua hệ thống tổ chức dọc của ngành này để thực hiện đầu tư
vốn các loại doanh nghiệp nhà nước thì không đảm đương nổi nhiệm vụ.Và
quan trọng hơn họ còn cho rằng với cơ chế đó chỉ khác trước đây có nhiều bộ
cấp chủ quản thì nay tập trung vào 1 bộ - Bộ tài chính.Xoay quanh chủ đề này
ý kiến còn khác nhau là chuyện bình thường.Chúng tôi cho rằng,với cơ chế
này sẽ tạo ra sự thay đổi về chất trong quan hệ quản lí,sử dụng vốn và tài sản
của nhà nước trong các loại hình doanh nghiệp nhà nước.Bởi vì khi tập trung
vào 1 đầu mối chịu trách nhiệm chính trong việc đầu tư,quản lí và sử dụng
vốn nhà nước nhà nước thì chỉ có 1 địa chỉ chịu tránh nhiệm chính,chịu trách
nhiệm duy nhất trước nhà nước trước pháp luật về giữ gìn và phát triển các
loại tài sản thuộc sở hữu toàn dân.Mặt khác, sẽ giải quyết kịp thời,thống nhất
những vấn đề phát sinh trong thực tiễn về tài sản vốn liếng của nhà nước
trong quá trình hoạt động của các loại hình doanh nghiệp nhà nước.Trong thời

14


đại công nghệ thông tin phát triển,mỗi xí nghiệp cần có 1 trang web và hàng
ngày bộ tài chính có thể nắm trọn tình hình các doanh nghiệp
Điều đó khác với việc phân tán cho người đầu mối với tư cách là ngành
cấp hành chính chủ quản với hai chức năng vừa đại diện cho chủ sở hữu vừa
quản lí nhà nước theo cơ chế hiện hành trong việc đầu tư quản lí và sử dụng
nguồn vốn của nhà nước.Từ đó các bộ, ngành sẽ phải chuyên tâm hơn vào
chức năng quản lý nhà nước, còn doanh nghiệp sẽ giảm bớt được nhiều đầu
mối phải “trình bẩm”.
Chuyển đổi một cách hữu hiệu từ phương thức đầu tư quản lý vốn và sử

dụng vốn nhà nước theo cách quản lý hành chính thông qua việc cấp phát vốn
từ ngân sách nhà nước sang phương thức đầu tư quản lý và sử dụng vốn nhà
nước theo phương pháp hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa đối với quá
trình đầu tư vốn cho các loại hình doanh nghiệp nhà nước theo những mục
tiêu và các tiêu chí hiệu quả về kinh tế chính trị xã hội.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước, trước đây có nhiều bộ, ngành cấp
hành chính chủ quản thì nay chỉ có một cơ quan chủ quản duy nhất trong việc
đầu tư cho doanh nghiệp nhà nước. Đó là sự giải phóng, cởi trói đáng kể cho
doanh nghiệp nhà nước mà lâu nay họ đã từng gánh chịu mọi hậu quả của cơ
chế chủ quản. Giả sử những tiêu cực, nhũng nhiễu vẫn tiếp tục phát sinh với
một cơ quan chủ quản duy nhất, thì đó là địa chỉ để truy tìm, quy trách nhiệm
và xử lý.
Vấn đề quan trọng nhất, có tầm quyết định đến hiệu quả của mô hình
trên là về mặt tổ chức, phải chọn được người tài để quản lý, phải thực hiện
được ba lợi ích rất nghiêm minh đảm bảo người tài được hưởng thụ xứng
đáng. Chỉ có như vậy, chúng ta mới có đủ sức hội nhập và cạnh tranh trên
trường quốc tế. Do đó việc đổi mới tổ chức doanh nghiệp nhà nước là cấp
bách, phải kiên quyết loại bỏ mô hình không đem lại hiệu quả.
Việc nắm tình hình và chỉ đạo từ thủ tướng đến các bộ trưởng xuống
thẳng doanh nghiệp nhà nước thông qua mạng lưới thông tin trang web chung
15


gắn với trang web từng doanh nghiệp nhanh nhạy, kịp thời và không tốn phí
nhiều. Khi cần kiểm tra cụ thể một doanh nghiệp nhà nước sẽ cử một cán bộ
xuống trực tiếp kiểm tra. Việc quan trọng nhất là có giám đốc giỏi hạch toán
rõ ràng theo pháp luật, cập nhật đẩy đủ hàng ngày trên trang web. Có thể bắt
đầu thực hiện ở các tổng công ty 90, 91 sau đó đúc rút kinh nghiệm và nhân
rộng.
Xóa bỏ hẳn cơ chế bộ phận và cấp hành chính chủ quản thì gianh giới

giữa doanh nghiệp trung ương và doanh nghiệp địa phương cũng không còn
như trước. Nó sẽ được hình thành dưới dạng công ty mẹ, công ty con, hay
một doanh nghiệp lớn với những doanh nghiệp nhỏ cùng kinh doanh một
ngành nghề, một loại sản phẩm từ trên xuống dưới với tư cách là vệ tinh, thầu
phụ hoặc là tổng công ty lớn với những công ty thành viên không phải ép
buộc từ mệnh lệnh hành chính mà xuất phát từ ý thực tự nguyện để đạt được
hiệu quả cao. Như vậy chỉ có hai cơ quan thủ tướng chính phủ ủy nhiệm trong
việc quyết định thành lập và đâu tư vốn cho doanh nghiệp nhà nước là bộ Kế
hoạch và Đâu tư; bộ Tài chính. Trong đó bộ trưởng bộ Tài chính tổ chức đầu
tư vốn theo phương thức hạch toán kinh doanh, chứ không phải cấp vốn theo
phương thức quản lý hành chính từ ngân sách nhà nước và phải chịu trách
nhiệm trước thủ tưởng chính phủ trong việc tính toán đầu tư, quản lý và kinh
doanh vốn trong doanh nghiệp nhà nước sao cho đạt hiệu quả cao.
Năm là, mối quan hệ giữa đảng và chính quyền trong hoạt động của
doanh nghiệp nhà nước cũng cần được nghiên cứu, bổ sung, điều chỉnh. Các
đảng bộ, chi bộ trong doanh nghiệp thực hiện chức năng nhiệm vụ lãnh đạo
chính trị, tư tưởng, tổ chức cần nắm vững hành động của đảng viên. Đặc biệt
về phẩm chất đạo đức, lãnh đạo đảng viên hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn
được phân môn, thực hiện vai trò giám sát, kiểm tra, giữ vững nề nếp sinh
hoạt, phê và tự phê để quản lý đảng viên và giữ gìn đoàn kết nội bộ trong
đảng bộ theo điều lệ đảng, pháp luật của nhà nước.

16


Thông qua sự lãnh đạo về chính trị, tư tưởng, tổ chức trong các doanh
nghiệp nhà nước, các tổ chức cơ sở có đảng tìm ra những biện pháp để nâng
cao đạo đức, phẩm chất của đảng viên, sự năng động, sáng tạo, tài giỏi của
doanh nghiệp. Đồng thời tìm giải pháp tích tụ, tập trung vốn đầu tư đổi mới
công nghệ để mở rộng, phát triển doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ với ngân

sách ngày càng cao từ hiệu quả kinh doanh của mình. Doanh nghiệp nhà nước
phải nêu gương tốt về năng suất, chất lượng, hiệu quả, chấp hành tốt pháp
luật, giúp đỡ các loại hình doanh nghiệp khác cùng phát triển tạo việc làm cho
người lao động, giúp đỡ, hướng dẫn những vùng dân cư xung quanh trụ sở
doanh nghiệp thực hiện xóa đói giảm nghèo, từng bước biết cách làm ăn vươn
lên làm giàu.
Các doanh nghiệp nhà nước thực hiện tốt các vấn đề nêu trên sẽ góp
phần củng cố mối quan hệ liên minh công – nông – trí thức trong cơ chế mới
theo đường lối của đảng. Từ đó, tạo công ăn việc làm cho người lao động,
tăng thu nhập cho đời sống nhân dân thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn một cách thiết thực. Và như vậy, doanh nghiệp nhà
nước cũng sẽ góp phần giải quyết có hiệu quả thị trường tiêu thụ cung cấp
thông tin, xử lý vốn và tiếp cận với những tiến bộ khoa học sản xuất kinh
doanh hiện đang là những mặt yếu kém của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tạo
điều kiện để phát triển nhanh các loại hình doanh nghiệp kinh doanh trên địa
bàn, các vùng lãnh thổ, nhất là các vùng sâu, vùng xa tạo điều kiện để khép
dần khoảng cách giàu nghèo ngày càng giãn ra giữa thành thị và nông thôn
nói chung, trên từng vùng, từng địa bàn dân cư nói riêng. Vai trò, vị trí then
chốt của doanh nghiệp nhà nước trong cơ chế mới phải nhằm đạt được nhiều
mục tiêu yêu cầu như trên để thúc đẩy phát triển từ nội tại của đời sống kinh
tế xã hội nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả trên thị trường nội địa, trong
quan hệ kinh tế khu vực quốc tế. Đạt được điều đó chỉ có một phương cách
duy nhất là đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, chỉ đạo xây dựng đầy đủ quyết
tâm, quyết liệt để “tuyển dụng người giỏi, ưu đãi người tài, bảo vệ người
17


trung thực, loại bỏ kẻ nịnh bợ, xóa đi phương gian dối” bài trừ được tham
nhũng trong các đơn vị kinh tế nhà nước.


18


KếT LUậN
Phát triển kinh tế nhà nớc trở thành lực lợng kinh tế chủ đạo trong nền
kinh tế nhiều thành phần ở nớc ta hiện nay là một việc làm có ý nghĩa chiến lợc lâu dài nhằm đa nền kinh tế nớc ta phát tiển theo định hớng xã hội chủ
nghĩa.Nó góp phần củng cố mối quan hệ liên minh công-nông-trí thức trong
cơ chế mới theo đờng lối của Đảng. Từ đó, tạo công ăn việc làm cho ngời lao
động, tăng thu nhập cho đời sống nhân dân, thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp nông thôn một cách thiết thực. Và nh vậy, cũng sẽ góp
phần giải quyết có hiệu quả thị trờng tiêu thụ, cung cấp thông tin, xử lý vốn và
tiếp cận với những tiến bộ khoa học kỹ thuật sản xuất, kinh doanh hiện đang
là những mặt yếu kém của doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo điều kiện để phát
triển nhanh các loại hình doanh nghiệp dân doanh trên địa bàn, các vùnh lãnh
thổ, nhất là vùng sâu vùng xa, tạo điều kiện để khép dần khoảng cách giàu
nghèo ngày càng giãn ra giữa thành thị và nông thôn nói chung, trên từng
vùng, từng địa bàn dân c nói riêng. Vai trò, vị trí then chốt của kinh tế nhà nớc
phải nhằm đạt đợc những mục tiêu yêu cầu nh trên để thúc đẩy phát triển từ
nội tại của đời sống kinh tế- xã hội, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả trên
thị trờng nội địa, trong quan hệ kinh tế khu vực quốc tế. Đạt đợc điều đó chỉ
có một phơng cách duy nhất là Đảng lãnh đạo, Nhà nớc quản lý, chỉ đạo với
đầy đủ quyết tâm, quyết liệt để tuyển đúng ngời giỏi, u đãi ngời tài, bảo vệ
ngời trung thực, loại bỏ kẻ nịnh bợ, xoá đi phờng gian dối, bài trừ nạn tham
nhũng trong các đơn vị kinh tế nhà nớc.

19


DANH MụC TàI LIệU THAM KHảO
1) Đào Xuân Sâm- Bớc phát triển thăng trầm và cục diện mới ở Việt

Nam thời đoạn 1991- 2006.
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế(số 352 tháng 9/2007).
2) Đoàn Duy Thành- Để doanh nghiệp nhà nớc giữ vai trò then chốt
trong kinh tế thị trờng định hớng xã hội
chủ nghĩa(Việt Nam 20 năm đổi
mới và phát triển theo định hớng xã hội chủ nghĩa)- Nhà xuất bản Lao
động(2006)
3) Đổi mới để phát triển- Nhà xuất bản Chính trị quốc gia(2002).
4) Giáo trình Kinh tế chính trị Mác- Lênin- Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia(2007).

20


MụC LụC
Lời mở đầu
Phần 1: Lí luận về vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nớc trong
nền kinh tế nhiều thành phần ở nớc ta hiện nay.
1. Khái niệm về kinh tế nhà nớc.
2. Các bộ phận hợp thành kinh tế nhà nớc.
3. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nớc.
Phần 2: Giải pháp tăng cờng vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà
nớc trong nền kinh tế nhiều thành phần của nớc ta hiện nay.
1. Thực trạng hoạt động của kinh tế nhà nớc.
a) Những thành tựu đã đạt đợc.
b) Những tồn tại và yếu kém.
c) Nguyên nhân của những tồn tại và yếu kém.
2. Giải pháp tăng cờng vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nớc.
Kết luận.


21



×