Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

vai trò của yếu tố con người và các giải pháp phát huy vai trò của con người trong thời kỳ cnh hdh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.55 KB, 32 trang )

Mở Đầu
Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng
định Nguồn lực con ngời - yếu tố cơ bản để phát triển xã
hội, tăng trởng kinh tế nhanh và bền vững, Con ngời và
nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nớc
trong thời kỳ CNH,HĐH
Đây là một bớc phát triển quan trọng trong lý luận về
vấn đề con ngời. Nguồn lực con ngời là điểm cốt yếu nhất của
nội lực của một nớc, do đó phải bằng mọi cách phát huy yếu
tố con ngời và nâng cao chất lợng nguồn nhân lực. Vì vậy em
chọn đề tài : Vai trò của yếu tố con ngời và các giải
pháp phát huy vai trò con ngời trong thời kỳ CNHHĐH.
Để thấy đợc tầm quan trọng của yếu tố con ngời nguồn nhân lực có tác động quan trọng nh thế nào trong thời
kỳ CNH-HĐH ở nớc ta. Thông qua sự hớng dẫn tận tình
của thầy giáo: Nguyễn Vĩnh Giang và qua những lần đợc
thầy chỉnh, sửa các bản đề cơng sơ bộ, đề cơng chi tiết, và bản
thảo. Em đã hoàn thành đề án này. Tuy nhiên trong quá
trình hoàn thành đề án không tránh khỏi những sai lầm,
thiếu sót. Do vậy em mong đợc thầy chỉ bảo nhiều hơn nữa để
đề án của em hoàn thành tốt hơn. Nhất là đối với em, một
sinh viên kinh tế lao động sau này ra làm công tác quản lý
con ngời.

1


Nội Dung

Chơng I: Vai trò con ngời trong
sự nghiệp CNH, HĐH
I. Một số quan điểm về con ngời, nguồn lực con ngời


A.Quan điểm về con ngời
1.Quan điểm về con ngời trớc Mác
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về con ngời trớc Mác:
Các trờng phái triết học tôn giáo phơng Tây, đặc biệt là Kito giáo, nhận
thức vấn đề con ngời trên cơ sở thế giới quan duy tâm, thần bí. Trong Kitô
giáo, con ngời là kẻ có thể xác. Thể xác sẽ mất đI nhng linh hồn thì tồn tại
vĩnh viễn. Linh hồn là giá trị cao nhất trong con ngời. Vì vậy, phải thờng
xuyên chăm sóc phần linh hồn để hớng đến Thiên đờng vĩnh cửu.
Trong triết học Hy lạp cổ đại, con ngời đợc xem là điểm khởi đầu của t duy
triết học. Con ngời và thế giới là một tiểu vũ trụ trong vũ trụ bao la.
Prôtago, một nhà nguỵ biện cho rằng con ngời là thớc đo của vũ trụ.
Quan niệm của Arixtốt về con ngời, theo ông, chỉ có linh hồn, t duy, trí nhớ,
ý chí, năng khiếu nghệ thuật là làm cho con ngời nổi bật lên, con ngời là
thang bậc cao nhất của vũ trụ. Khi đề cao nhà nớc, ông xem con ngời là
một động vật chính trị.
Nh vậy triết học Hy Lạp cổ đại bớc đầu đã có sự phân biệt con ngừơI
với tự nhiên, nhng chỉ là hiểu biết bên ngoài về tồn tại con ngời.
Triết học Tây Âu trung cổ xem con ngời là sản phẩm của Thợng đế sáng tạo
ra. Mọi số phận, niềm vui, nỗi buồn, sự may rủi của con ngời đều do Thợng
Đế xếp đặt. Trí tuệ con ngời thấp hơn lý trí anh minh sáng suốt của Thợng
đế. Con ngời trở nên nhỏ bé trớc cuộc sống nhng đàng bằng lòng với cuộc
sống tạm bợ trên trần thế, vì hạnh phúc vĩnh cửu là ở thế giới bên kia.
Triết học thời kỳ phục hng-cận đại đặc biệt đề cao vai trò trí tuệ, lý tính của
con ngời, xem con ngời là một thực thể có trí tuệ. Đó là một trong những
yếu tố quan trọng nhằm giải thoát con ngời khỏi mọi gông cùm chật hẹp mà
chủ nghĩa thần học thời trung cổ đã áp đặt cho con ngời. Tuy nhiên, để nhận
thức đầy đủ bản chất con ngời cả về mặt sinh học và mặt xã hội thì cha có
trờng pháI nào đạt đợc. Con ngòi mới chỉ đợc nhấn mạnh về mặt cá thế, mà
xem nhẹ mặt xã hội.
Trong triết học cổ đỉên Đức, những nhà triết học nổi tiếng nh: Cantơ,

Hêghen đã phát triển quan niệm về con ngời theo khuynh hớng của chủ
nghĩa duy tâm. Hêghen, với cách nhìn của chủ nghĩa duy tâm khách quanm,
thông qua sự vận động của ý niệm tuyệt đối. Bớc diễu hành của ý niệm
tuyệt đối thông qua quá trình tự ý thức của con ngời đã đa con ngời trở về
giá trị tinh thần, giá trị bản thể và cao nhất trong đời sống con ngời. Hêghen
cũng là ngời trình bày một cách có hệ thống về các quy luật của quá trình t
duy của con ngời, là rõ cơ chế của đời sống tinh thần cá nhân trong mọi
hoạt động của con ngời. Mặc dù, con ngời đợc nhận thức từ góc độ duy tâm
khách quan, nhng Hêghen là ngời khẳng định vai trò chủ thể của con ngời
đối với lịch sử, đồng thời là kết quả của sự phát trỉên lịch sử.
T tởng triết học của nhà duy vật Phoiơbẵc đã vợt qua những hạn chế trong
triết học Hêghen để hy vọng tìm đến bản chất con ngời một cách đích thực.
Phoiơbẵc phê phán tính chất siêu tự nhiên, phi vật chất, phi thể xác về bản
chất con ngời trong triết học Hêghen, đồng thời khẳng định con ngời do sự
vận động của thế giới vật chất tao nên. Con ngời là kết quả của sự phát triển
của thế giới tự nhiên. Con ngời và tự nhiên là thống nhất, không thể tách
rời. Phoiơbẵc đề cao vai trò trí tuệ của con ngời với tính các là những cá thế
ngời. Đó là những con ngời cá biệt, đa dạng, phong phú, không ai giống ai.
Quan niệm này dựa trên nền tảng duy vật, đề cao yết tố tự nhiên, Phoiơbẵc
2


không thấy đợc bản chất xã hội trong đời sống con ngời, tách con ngời khỏi
những điều kiện lịch sử cụ thể . Con ngời của Phoiơbẵc là phi lịch sử, phi
giai cấp và trừu tợng.
Vậy các quan niệm con ngời trớc Mác, dù là đứng trên nền tảng thế
giới quan duy tâm, nhị nguyên luận hoặc duy vật siêu hình, đều không phản
ánh đúng bản chất con ngời. Nhìn chung, các quan niệm trên đều xem xét
con ngòi một cách trừu tợng, tuyết đối hoá về tinh thần hoặc thể xác con
ngời, tuyệt đối hoá về mặt tự nhiên- sinh học mà không thấy mặt xã hội

trong đời sống con ngời. Tuy nhiên một số trờng phái triết học vẫn đạt đợc
những thành tựu trong việc phân tích, quan sát con ngời, đề cao lý tính, xác
lập các giá trị về nhân bản học để hớng con ngời tới tự do. Đó là những tiến
đề có ý nghĩa cho việc hình thành t tởng về con ngời của triết học macxit.
2.Quan điểm Mác-Lênin về bản chất con ngời
Con ngời là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã
hội : Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con ngời là sản phẩm của
thế giới tự nhiên. Con ngời tự nhiên là con ngời mang tất cả bản tính sinh
học, tính loài. Yừu tố sinh học trong con ngời là điều kiện đầu tiên quy định
sự tồn tại của con ngời. Vì vậy, giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con ngời. Con ngời là một bộ phận của tự nhiên.
Là động vật cao cấp nhất, tinh hoa của muôn loài, con ngời là sản phẩm của
quá trình phát triển hết sức lâu dài của thế giới tự nhiên. Con ngời phảI tìm
kiếm mọi điều kiện cần thiết cho sự tồn tại trong đời sống tự nhiên nh thức
ăn, nớc uống, hang động để ở. Đó là quá trình con ngời đấu tranh với tự
nhiên, với thú dữ để sinh tồn. Trải qua hàng chục năm, con ngời đã thay đổi
từ vợn thành ngời, điều đó đã đợc chứng minh trong các công trình nghiên
cứu của Đácuyn. Các giai đoạn mang tính sinh học mà con ngời trải qua từ
hình thành, phát triển đến mất đi quy định bản tính sinh học trong đời sống,
là tổ chức cơ thể của con ngời và mối quan hệ của nó đối với tự nhiên.
Những thuộc tính, những đặc điểm sinh học, quá trình tâm lý-sinh lý, các
giai đoạn phát triển khác nhau nói lên bản chất sinh học của cá nhân con
ngời.
Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải yếu tố
duy nhất quy định bản chất con ngời với thế giới loài vật là mặt xã hội
tính xã hội của con ngời biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất, hoạt
động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con ngời.
Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con ngời sản xuất ra của cải vật
chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn
ngữ và t duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định
hình thành bản chất xã hội của con ngời, đồng thời hình thành nhân cách

cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển
của con ngời luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau,
nhng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên nh quy luật về sự
phù hợp cơ thể với môi trờng, quy luật về sụ trao đổi chất, về di truyền,
biến dị, tiến hoá, quy định phơng diện sinh học của con ngời. Hệ thống
các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học
của con ngời nh hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống
các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa ngời với ngời.
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn
chỉnh trong đời sống con ngời bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối
quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh
học và nhu cầu thẩm mỹ và hởng thụ các giá trị tinh thần
Với phơng pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ
giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng nh nhu cầu sinh học và nhu cầu xã
3


hội trong mỗi con ngời là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên
của con ngời với loài vật. Nhu cầu sinh học phảI đợc nhân hoá để mang
giá trị văn minh con ngời, và đến lợt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly
khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hoà
quyện vào nhau để tạo thành con ngời viết hoa, con ngòi tự nhiên-xã hội.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con ngời là tổng hoà
những quan hệ xã hội
Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con ngời vợt
lên thế giới loài vật trên cả phơng diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên,
quan hệ với xã hội, với quan hệ với chính bản thân con ngời. Cả ba mốí
quan hệ đó, suy cho cùng đề mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa
con ngời với con ngời là quan hệ bản chất, bao chùn tất cả các mối quan hệ

khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con ngời.
Do vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con ngời,C.Mác đã nêu lên luận
đề nổi tiếng Luận cơng về Phoiơbắc: Bản chất con ngời là tổng hoà những
quan hệ xã hội. Luận đề trên khẳng định rằng, con ngời luôn sống trong
điều kiện, hoàn cảnh lịch sử nhất định bằng những hoạt động thực tiễn của
mình, con ngời tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát
triển cả về thể lực và t duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ mối quan hệ xã hội
đó( nh quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế, quan
hệ cá nhân, gia đình,xã hội) con ngời mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội
của mình.
Con ngời là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con
ngời. Bởi vậy, con ngời là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của
giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là, con ngời luôn luôn là chủ
thể của lịch sử-xã hội. C.Mác đã khẳng định : Cái học thuyết duy vật chủ
nghĩa cho rằng con ngời là sản phẩm của những hoàn cảnh và giáo dục
cái học thuyết ấy quên rằng chính những con ngời làm thay đổi hoàn cảnh
và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải đợc giáo dục
Nh vậy với t cách là thực thể xã hội, con ngời hoạt động thực tiễn, tác động
vào tự nhiên, cải tiến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát
triển có sẵn của tự nhiên. Con ngời thì trái lại, thông qua hoạt động thực
tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự
nhiên thứ hai theo mục đích của mình.
Trong quá trình cải tiến tự nhiên, con ngời là sản phẩm của lịch sử, đồng
thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con ngời. Hoạt động
lao động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con ngời, vừa
là phơng thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở lắm
vững quy luật của lịch sử xã hội, con ngời thông qua hoạt động vật chất và
tinh thần, thúc đẩy xã hội phát trỉên từ thấp đến cao phù hợp với mục tiêu
và nhu cầu do con ngời đặt ra. Không có hoạt động của con ngời thì cũng

không tồn tại quy luật xã hội,và do đó, không co sự tồn tại của toàn bộ lịch
sử xã hội loài ngời.
B.Quan điểm về nguồn lực con ngời
Trong các nguồn lực có thể khai thác nh nguồn lực tự nhiên, nguồn
lực khoa học công nghệ, nguồn lực con ngời thì nguồn lực con ngời là quyết
định nhất, bởi lẽ nguồn lực khác chỉ có thể khai thác có hiệu quả khi nguồn
lực con ngời đợc phát huy. Những nguồn lực khác ngày càng cạn kiệt, ngợic
lại nguồn lực con ngời ngày càng đa dạng và phong phú.
Các lĩnh vực khoa học khác nhau, có thể hiểu nguồn lực theo những
cách khác nhau, nhng chung nhất nguồn lực là một hệ thống các nhân tố
mà mỗi nhân tố đó có vai trò riêng nhng có mối quan hệ với nhau tạo nên
sự phát triển của một sự vật, hiện tợng nào đó.
4


Từ cách hiểu nh vậy, nguồn lực con ngời là những yếu tố ở trong con ngời
có thể huy động, sử dụng để thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về nguồn lực con ngời. Ngân hàng
thế giới cho rằng nguồn nhân lực là toàn bộ vốn ngời ( thể lực, trí lực, kỹ
năng, nghề nghiệp,...) mà mỗi cá nhân sở hữu, có thể huy động đợc trong
quá trình sản xuất, kinh doanh, hay trong một hoạt động nào đó.
Qua các ý kiến khác nhau có thể hiểu, nguồn lực con ngời là tổng thể những
yếu tố thuộc về thể chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị
thế xã hội, ... tạo nên năng lực của con ngời, của cộng đồng ngời có thể sử
dụng, phát huy trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nớc và trong
những hoạt động xã hội.
Khi chúng ta nói tới nguồn lực con ngời là ta nói tới con ngời với t
cách là chủ thể hoạt động sáng tạo tham gia cải tạo tự nhiên, làm biến đổi
xã hội.
Nói tới nguồn lực con ngời là nói tới số lợng và chất lợng nguồn nhân

lực
Số lợng nguồn nhân lực đợc xác định trên qui mô dân số, cơ cấu độ
tuổi, sự tiếp nối các thế hệ, giới tính và sự phân bố dân c giữa các vùng, các
miền của đất nớc, giữa các ngành kinh tế, giữa các lĩnh vực của đời sống xã
hội.
Chất lợng nguồn nhân lực là một khái niệm tổng hợp bao gồm những
nét đặc trng về thể lực, trí lực, tay nghề, năng lực quản lý, mức độ thành
thạo trong công việc, phẩm chất đạo đức, tình yêu quê hơng đất nớc, ý thức
giai cấp, ý thức về trách nhiệm cá nhân với công việc, với gia đình và xã
hội, giác ngộ và bản lĩnh chính trị, ... Trong các yếu tố trên thì phẩm chất
đạo đức và trình độ học vấn là quan trọng nhất, nó nói lên mức trởng thành
của con ngời, qui định phơng phát t duy, nhân cách, lối sống của mỗi con
ngời.
Số lợng và chất lợng nguồn lực có quan hệ với nhan một cách chặt
chẽ. Nếu số lợng nguồn nhân lực quá ít sẽ gây khó khăn cho phân công lao
động xã hội và do vậy, chất lợng lao động cũng bị hạn chế. Chất lợng nguồn
nhân lực nâng cao sẽ góp phần làm giảm số lợng ngời hoạt động trong một
đơn vị sản xuất, kinh doanh hay giảm số ngời hoạt động trong một tổ chức
xã hội.
Xã hội muốn phát triển nhanh và bền vững phải quan tâm đào tạo
nguồn lực con ngời có chất lợng ngày càng cao. Muốn thực hiện đợc điều
đó, cần có sự quan tâm ngay trong quá trình đào tạo, trong quá trình sử
dụng và phân công lao động xã hội.
II. Vai trò con ngời và nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH,HĐH
1.Quan niệm về CNH,HĐH
Trong lịch sử, một số nớc đã tiến hành công nghiệp hoá bắt đầu từ
cuối thế kỷ XVIII, mở đầu là nớc Anh bằng cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ nhất. Thực chất của cộng nghiệp hoá trong thời đó là chuyển nền
kinh tế nông nghiệp với kỹ thuật thủ công sang nền kinh tế công nghiệp
với kỹ thuật máy móc. Ngày nay trên thế giới đang diễn ra cuộn cách mạng

khoa học và công nghệ, nó làm cho lực lợng sản xuất có bớc phát triển mới
về chất, thúc đẩy quá trình cấu trúc lại nền kinh tế thế giới, làm thay đổi
sâu sắc mọi mặt đời sống xã hội Vì thế, trong thời đại ngày nay, công
nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá, nghĩa là tranh thủ ứng dụng
những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại ngay trong
quá trình công nghiệp hoá.
công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động kinh tế xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử
5


dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phơng tiện và
phơng pháp tiên tiến, hiện đại, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Nh vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá có một phạm vi rộng lớn, bao
trùm nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, trong đó công nghiệp và khoa học-công
nghệ đóng vai trò rất quan trọng, cốt lõi của quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
Quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay: có những điểm mới
so với quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá trớc khi đổi mới. Thứ
nhất: Công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá . Nớc ta tiến hành công nghiệp
hoá trong điều kiện thế giới đang diễn ra cuộc Cách mạng khoa học và
công nghệ và một số nớc đã bắt đầu phát triển nền kinh tế tri thức, bởi vậy
không chỉ chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí hoá mà còn
phải tranh thủ ứng dụng rộng rãi những thành tựu khoa học và công nghệ
tiên tiến của thời đại.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã nêu lên quan điểm:
khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kết
hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại; tranh thủ đi nhanh vào
hiện đại ở những khâu quyết định
Thứ hai: CNH,HĐH trớc đây đợc tiến hành theo cơ chế kế hoạch

hoá, tập chung quan niêu, bao cấp, với các chỉ tiêu pháp lệnh. Ngày nay,
CNH,HĐH theo cơ chế thị trờng có sự quản lý nhà nớc. Kế hoạch chủ yếu
mang tính định hớng, thị trờng phản ánh nhu cầu xã hội, sẽ quyết định việc
phân bổ các nguồn lực cho sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế mới, lấy hiệu
quả kinh tế - xã hội làm thớc đo.
Thứ ba: CNH,HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nớc giữ vain trò chủ đạo. Phải giáo dục phát
động tổ chức để toàn cầu, mọi thành phần kinh tế tham gia tích cực vào quá
trình CNH,HĐH
Thứ t: CNH,HĐH phải lấy việc phát huy nguồn lực con ngời làm yếu
tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Trong mọi chủ trơng, chính
sách phải nhằm giải phóng mọi tiền năng của con ngời, thòng xuyên quan
tâm, bồi dỡng trí lực, thể lực, sử dụng nhân tài. Nâng cao đời sống vật chất
và văn hoá của nhân dân, phát triển văn hoá giáo dục, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, động viên toàn dân cần, kiềm để CNH,HĐH đất nớc
Thứ năm: CNH,HĐH xây dựng một nền kinh tế mở cả trong thị trờng trong nớc và với bên ngoài, đa dạng hoá, đa phớng hoá quan hệ đối
ngoại và kinh tế đối ngoại trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền, kết hợp
kinh tế với quốc phòng an ninh, xây dựng nền kinh tế mởi hớng mạnh vào
xuất khẩu, thay thế nhập khẩu bằng sản phẩm trong nớc sản xuất có hiệu
quả
Thứ sáu: CNH,HĐH phải lấy hiệu quả kinh tế- xã hội làm hiệu quả
làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phơng án phát triển, lựa chọn dự án đầu
t và công nghệ. Đầu t vào chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất
hiện có. Lựa chọn dự án đầu t với những quy mô thích hợp với từng
ngành, từng lĩnh vực, từng địa phơng, u tiên những dự án quy mô nhỏ và
vừa, đòi hỏi ít vốn, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh.
2. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội,
không qua chế độ t bản chủ nghĩa tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân. Bởi vì:

a. Chỉ có công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới có thể xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật cho chế độ mới, Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con
đờng thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nớc chung quanh, giữ đ6


ợc ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ đợc độc lập, chủ quyền và định hớng
phát triển xã hội chủ nghĩa.
Các nớc đã trải qua giai đoạn phát triển t bản chủ nghĩa, bớc vào thời
kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ cần điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện cơ
sở vật chất - kỹ thuật đã đáp ứng đợc theo yêu cầu chế độ mới và tiếp tục
ứng dụng những công nghệ mới nhất, hiện đại nhất.
Các nớc có nền kinh tế phát triển cha cao và các nớc công nghiệp lạc
hậu, sản xuất nhỏ còn phổ biến tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhất thiết phải
tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá để xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật để nhằm thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ khí hoá và một
phần tự động hoá (khi có điều khiển) trong các ngành của nền kinh tế quốc
dân; đồng thời trên cơ sở trình độ đã đạt đợc của cơ sở vật chất -kỹ thuật
mới cải biến cơ cấu kinh tế lạc hậu, què quặt, thúc đẩy quá trình phân công
lao động xã hội, mở rộng thị trờng, phát triển sản xuất và lu thông hàn hoá
trong nớc và quốc tế.
b. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo ra lực lợng sản xuất mới về
chất, tạo tiền đề cho sự hình thành nhiều mối quan hệ mới về kinh tế, xã
hội, chính trị trong toàn xã hội. Trên cơ sở lực lợng ản xuất phát triển, quan
hệ sản xuất từng bớc đợc hình thành, mở rộng và củng cố, đời sống của
nhân dân sẽ dần cải thiện, liên minh công-nông-trí thức và chính quyền nhà
nớc sẽ đợc củng cố và kiện toàn, cách mạng t tởng và văn hoá sẽ có nhiều
điều kiện thực hiện. Sự giúp đỡ của công nghiệp và thành thị đối với nông
nghiệp và nông thôn đợc tăng cờng và có hiệu quả hơn; tạo ra nhiều điều
kiện để thực hiện từng bớc sự bình đẳng về kinh tế giữa các dân tộc, giữa
các tầng lớp dân c, giữa các vùng trong nớc. Điều đó đa đến sự thống nhất

ngày càng cao về chính trị và tinh thần trong xã hội.
c. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn là yêu cầu khách quan của việc
củng cố và tăng cờng khả năng quốc phòng, của sự thống nhất giữa sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp
hoá, hiện đại hoá còn là yêu cầu khách quan mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại...
Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cải biến nớc ta
thành một nớc công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cớ sơ cấu
kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của
lực lợng sản xuất. Nh vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế thực
chất là một cuộc cải biến cách mạng sâu sắc và toàn diện, trớc hết và chủ
yếu là từ phát triển lực lợng sản xuất, dẫn đến một loạt hệ quả tất yếu tác
động tích cực đến các mặt đời sống, xã hội hình thành những yếu tố của
hình thái xã hội mới.
Đại hội toàn quốc lần thứ VII đã khẳng định: phát triển lợng sản
xuất, công nghiệp hoá đất nớc theo hớng hiện đại gắn liền với việc phát
triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bớc
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng
nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng nhấn mạnh : đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong
thời gian tới ở nớc ta.
3. Vai trò nguồn lực con ngời trong sự nghiệp CNH-HĐH:
a. vai trò nguồn lực trong lĩnh vực kinh tế
Trong lĩnh vực này, cần xem xét con ngời với t cách là lực lợng sản
xuất và vai trò trong quan hệ sản xuất
Trong bất cứ xã hội nào, ngời lao động là yếu tố quan trọng nhất
trong lực lợng sản xuất. Ngày nay, khoa hoc-công nghệ ngày càng phát
triển, hàm lợng chất xám trong giá trị hàng hoá ngày càng cao, thì vai trò
7



của ngời lao động có trí tuệ lại càng quan trọng trong lực lợng sản xuất. V.I.
Lê nin đã chỉ ra : lực lợng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là
công nhân, là ngời lao động.
Con ngời khi đợc làm chủ những t liệu sản xuất, đợc đào tạo một
cách chu đáo những kiến thức quản lý kinh tế sẽ có điều kiện khai thác một
cách có hiệu quả tiềm năng đất đai, biết kết hợp các yếu tố của quá trình
sản xuất nh huy động vốn, động viên khuyến khích ngời lao động làm việc
có hiệu quả, quản lý chặt chẽ nguyên liệu vật t, do vậy, hiệu quả kinh doanh
sẽ tốt hơn. Ngày nay vai trò ngời quản lý trong sản xuất kinh doanh ngày
càng trở nên quan trọng, do vậy, các quốc gia thờng rất quan tâm tới đào
tạo, bồi dỡng đội ngũ cán bộ này.
Trong quá trình xây dựng đất nớc tiến nên chủ nghĩa xã hội, ngời lao
động trở thành những ngời làm chủ đất nớc, làm chủ trong quá trình tổ chức
quản lý sản xuất, từ việc xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh tới tổ chức
sản xuất kinh doanh và làm chủ trong quá trình phân phối sản phẩm. Điều
đó tạo ra những điều kiện thuận lợi để phát huy nguồn lực con ngời, phát
triển kinh tế-xã hội nhanh và bền vững, làm cho đất nớc ngày càng giàu
đẹp.
b. Vai trò nguồn lực trong lĩnh vực chính trị
Xét nguồn lực trên lĩnh vực chính trị, khi mà ngời dân có tri thức, có
năng lực, thấy đợc trách nhiệm của mình trong việc lựa chọn những ngời
có đức, có tài vào các cơ quan nhà nớc sẽ góp phần xây dựng nhà nớc vững
mạnh.
Cán bộ nhà nớc có hiểu biết lý luận, hiểu biết thực tiễn, thấy đợc
trách nhiệm của mình đối với nhân dân, sẽ hết lòng phụng sự nhân dân và
thực sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân sẽ đợc dân mến, dân tin, dân
ủng hộ.
Cán bộ tích cực tuyên truyền đờng lối của đảng, phổ biến luật phát

của nhà nớc đến nhân dân, làm cho dân hiểu dân tin; ngời dân chủ động
tích cực thực hiện đờng lối đó, có ý thức tôn trọng luật phát, thực hiện
những nghĩa vụ công dân, hiểu rõ quyền lợi của mình, kiên quyết đấu tranh
với sức mạnh của nhà nớc xã hội chủ nghĩa.
Nói về vai trò của quần chúng tham gia công việc của nhà nớc, Hồ
Chí Minh đã viết: khi ngời dân ... biết hởng quyền dân chủ, biết dùng
quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm, thì việc gì khó khăn mấy họ
cũng làm đợc, hy sinh mấy họ cũng không sợ.
Có thể khẳng định, nguồn lực con ngời là yếu tố quan trọng trong
việc xây dựng nhà nớc xã hội chủ nghĩa, nhà nớc của dân, do dân, vì dân;
trong quá trình đấu tranh bảo vệ những thành quả cách mạng, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa ; đấu tranh làm thất bại mọi âm mu phá hoại của kẻ
thù.
c.Vai trò nguồn lực con ngời trong lĩnh vực văn hoá
Một khi , con ngời có tri thức, có hiểu biết về các hình thức nghệ
thuật có giá trị cao nh: những bộ phim hay, những điệu múa đẹp, những tác
phẩm văn học có nội dung phong phú,... Những công trình văn hoá, nghệ
thuật nh vậy dễ đi vào lòng ngời, có tác dụng giáo dục đạo đức, góp phần
hình thành nhân cách cho mỗi con ngời trong xã hội.
Con ngời văn hoá cũng là những ngời có nghĩa vụ bảo tồn những di
sản văn hoá tinh thần của đất nớc, của nhân loại. Do vậy, nếu mỗi con ngời
có ý thức, năng lực thực hiện tốt công việc này, thì những giá trị văn hoá
tinh thần, giá trị văn hoá vật chất của xã hội đợc bảo tồn,lu giữ, đợc nâng
cao.
Trong điều kiện giao lu quốc tế ngày càng mở rộng, mỗi con ngời
chúng ta có điều kiện tiếp cận với nền văn hoá nhiều nớc trên thế giới. Trình
8


độ tri thức của mỗi ngời về văn hoá sẽ là tiền đề cho họ tiếp nhận những giá

trị tốt đẹp của dân tộc khác, loại bỏ những yếu tố không phù hợp để làm
giàu cho nền văn hoá dân tộc mình, làm phong phú đời sống tinh thần cá
nhân.
Con ngời có tri thức khoa học, có năng lực nghiên cứu tạo ra những
khả năng cho họ có những đóng góp xứng đáng trong sự phát triển khoa
học của đất nớc. Đảng và Nhà nớc ta luôn luôn quan tâm đào tạo, bồi dỡng
đội ngũ tri thức, tạo điều kiện cho họ cống hiến hết khả năng trí tuệ cho đất
nớc, cho sự phát triển của xã hội. Nh vậy, con ngời không chỉ là chủ thề của
hoạt động sản xuất vật chất, mà còn là chủ thể của quá trình sản xuất tinh
thần của xã hội. Bằng hoạt động thực hiện, trớc hết là lao động sản xuất ,
con ngời cải tạo tự nhiên, biến đổi xã hội, bắt tự nhiên phục vụ cho mình, và
làm đẹp cho tự nhiên; đồng thời trong quá trình đó con ngời cải tạo chính
bản thân mình. Do vậy, sự phối hợp giữa các thành viên trong cộng đồng
đó cũng tạo ra sức mạnh to lớn trong việc phát huy nguồn lực con ngời để
nhận thức, cải tạo tự nhiên và xã hội. Ngợc lại, sự thiếu thống nhất, sự phối
hợp không ăn khớp của các thành viên trong xã hội sẽ làm giảm đi, thậm
chí triệt tiêu cả động lực phát triển tự nhiên và xã hội.
Nguồn lực con ngời, xét về mỗi cá nhân, còn là những tiềm năng yếu
tố cấu thành con ngời có thể đợc khai thác. Nhng hiệu quả việc phát huy
nguồn lực con ngời lại tuỳ thuộc vào chế độ xã hội, tuỳ thuộc vào cách tổ
chức xã hội, phụ thuộc vào năng lực và nghệ thuật của quản lý xã hội, phụ
thuộc vào cơ chế và chính sách xã hội.
Nguồn lực con ngời không khai thác, không phát huy đợc là lãng phí
lớn nhất. Đặc biệt, là đội ngũ trí thức càng hoạt động, càng phong phú và
sâu sắc. Nớc ta đang còn là một nớc nghèo, kinh tế kém phát triển, thì việc
phát huy nguồn lực con ngời để xây dựng đất nớc càng trở nên quan trọng.

9



Chơng II: Đánh giá vai trò con ngời và nguồn nhân
lực trong sự nghiệp CNH,HĐH hiện nay
1.Vai trò con ngời và nguồn nhân lực đã đóng góp những mặt tích cực
cho sự nghiệp CNH-HĐH:
a.Ngay từ đầu thành lập nớc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (1946),
nhất là sau năm 1945, đất nớc thống nhất. Hơn 30 năm sự nghiệp giáo dục,
dạy nghề không ngừng phát triển, đặc biệt là 20 năm đổi mới cùn với những
thành tựu to lớn trong việc thực hiện chiến lợc phát triển kinh tế xã hội
thời kỳ 1991-2000 và 2001-2010 Đảng và Nhà nớc Việt Nam đã luôn luôn
quan tâm phát triển nguồn nhân lực, đầu t mạnh vào vốn con ngời và đã
đạt đợc kết quả quan trọng. Trình độ dân trí và chất lợng, tính năng động xã
hội của nguồn nhân lực đợc nâng lên đáng kể. Đến nay tỷ lệ ngời lớn biết
chữ đạt 94%, trong đó tỷ lệ lao động biết chữ đạt 97%; số năm đi học trung
bình của dân c là 7,3 năm. Đến năm 2000, cả nớc đã hoàn thành mục tiêu
xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; bắt đầu phổ cập trung học cơ sở ;
đến cuối năm 2003 đã có 19 tỉnh, thành phố đạt tiêu chuẩn phổ cập trung
học cơ sỏ ; đào tạo cao đẳng; đại học phát triển phát triển mạnh, năm học
2003-2004 sinh viên cao đẳng, đại học lên tới 298975 ngời
Tăng gấp 8 lần năm học1986-1987; đến năm 2003 lao động qua đào tạo đạt
25%, trong đó qua đào tạo nghề là 17,5%. Sự nghiệp dạy nghề tuy có
những bớc thăng trầm nhng xu hớng chung là ngày càng phát triển. Từ năm
1969 đến nay đã thay đổi nhiều cơ quan quản lý lĩnh vực dạy nghề. Từ
năm 1969-1978 là Tổng cục đào tạo công nhân kỹ thuật thuộc Bộ Lao
Động;10 năm sau đó (1978-1987) là Tổng cục dạy nghề trực thuộc Chính
Phủ ; từ năm 1987-1998 công tác dạy nghề thuộc chức năng quản lý Nhà nớc của Bộ Giáo Dục-Đào tạo; từ năm 1998 đến nay Tổng cục dạy nghề đợc
tái thành lập thuộc Bộ Lao động- Thơng binh và Xã hội, dạy nghề đã đợc
phục hồi và có nhiều tiến bộ. Đến năm 2003, cả nớc có 213 trờng dạy nghề
tăng 82 trờng so với năm 1999; số trung tâm dạy nghề từ 121 trung tâm
năm 1999 tăng lên 221 trung tâm, ngoài ra có 141 trờng trung học chuyên
nghiệp, cao đẳng và đại học có tham gia dạy nghề. Trong 3 năm (20012003) đã dạy nghề cho 2,97 triệu ngời . Chất lợng dạy nghề đợc nâng lên, tỷ

lệ học sinh tốt nghiệp chiếm 90%, tỷ lệ học sinh ra trờng tìm đợc việc làm
hoặc tự đào tạo việc làm trung bình khoảng 70% nhiều trờng thuộc các
doanh nghiệp, tổng công ty, tỷ lệ này khoảng 90%(nguồn số liệu lấy từ số
243(từ 16-31/7/2004)-LĐ&XH).
b.Theo nguồn số liệu năm 2002,trong báo cáo phát triển con ngời
2004, giá trị chỉ số phát triển con ngời (HDI) nớc ta đã đạt 0,691, tăng hơn
mức 0,688 của báo cáo năm 2002 và năm 2003. Nh vậy, sau hai năm giá trị
chỉ số HDI không thay đổi, năm nay giá trị này đã tăng đợc 0,003. Trong ba
thành phần chỉ số HDI, năm nay chỉ số GDP đã tăng từ 0,5 năm 2003 lên
0,52. Có đợc mức tăng này là do GDP bình quân đầu ngời của nớc ta tính
bằng đôla Mỹ theo phơng pháp sức mua tơng đơng đã tăng từ 2070 năm
2003 lên 2300. Tuy nhiên , về thứ hạng, vị trí của nớc ta năm nay là 112
trên 177 quốc gia tham gia tính HDI.
Theo nhận định của Báo cáo thì so với Pakítan có cùng mức thu nhập
nhng Việt Nam có HDI cao hơn nhờ có chỉ số tuổi thọ và chỉ số giáo dục
cao hơn. Có thể thấu rõ điều này qua số liệu của một số quốc gia khác. GDP
bình quân đầu ngời tính bằng đôla Mỹ theo phơng pháp sức mua tơng đơng
của ấn Độ là 2670, chỉ số GDP là 0,52 bằng Việt Nam nhng thứ hạng HDI
là 133.
So sánh với nớc ASEAN về chỉ số HDI, với vị trí xếp hạng và giá trị
chỉ số HDI nh trên, Việt Nam giữ vị trí thứ 7/10, năm 2002 và 2003 là 6/10.
10


Báo cáo phát triển con ngời 2004 của UNDP cũng cho biết chỉ số
HDI của nớc ta từ năm 1990 đến năm 2002 có xu hớng tăng lên một cách
vững chắc. Trong 13 năm , từ năm 1990 đến năm 2002, chỉ số HDI của nớc ta đợc cải thiện đáng kể, tăng 0,081, từ 0,610 năm 1990 đến năm 2000
là 0,686, năm 2002 là 0,691; trung bình mỗi năm tăng 0,0062
Năm
1990

1995
2000
2002
Giá trị chỉ số HDI
0,610
0,649
0,686
0,691
(Nguồn Báo cáo phát triển con ngời của UNDP 2004)
Chỉ số phát triển giới (GDI) của nớc ta trong Báo cáo 2004 có giá trị
chỉ số là 0,689, xếp thứ 87/144 quốc gia tham gia tính GDI. Năm 2003 nớc
ta xếp thứ 89/144 nớc giá trị chỉ số là 00,687. Trừ Brunei và Myanmar
không tham gia tính GDI, Việt Nam đứng thứ nớc ASEAN tham gia tính
GDI . Nếu ở chỉ số HDI, Inđônêsia đứng trên Việt Nam 1 bậc, xếp thứ 111
thì ở chỉ số GDI Inđônêsia lại kém ta 3 bậc, xếp thứ 90/144 nứoc với giá trị
chỉ số GDI là 0,685.Nhìn chung, Việt Nam đợc đánh giá là một trong
những nớc có chỉ số GDI tốt trong khu vực. Với 27,3% đại biểu quốc hội là
nữ , nớc ta đang có tỉ lệ nữ tham gia chính trị cao nhất trong kh vực.
Khi đề cập vai trò con ngời và nguồn nhân lực đã đóng góp những
mặt tích cực cho sự nghiệp CNH-HĐH không thể không nói đến tinh thần
hiếu học- một truyền thống hết sức tốt đẹp và quan trọng của dân tộc ta.
Hiếu học, là sự coi trọng việc học của cộng đồng và sự nỗ lực rùi mài kinh
sử của bản thân ngòi học nhằm tiếp thu các kiến thức KHKT, những kinh
nghiệm sống trong nhà trờng đến thực tế trong lao động sản xuất, trong
mọi lúc mọi nơi theo phơng châm câu ngạn ngữ Đi một ngàu đàng học,
một sàng khôn. Ngày nay, truyền thống hiếu học của ông cha ta đang đợc
Đảng ta phát động và khuyến khích thông qua các chủ trơng:Giáo dục cho
mọi ngời; cả nớc trở thành một xã hội học tập và học tập thờng xuyên, suốt
đời. Theo đó, nhiều địa phơng (nh Hải Dơng, Thái Bình, Lai Châu(cũ), Hà
Nội, Thanh Hoá,... ) đã thành lập các trung tâm học tập cộng đồng-một mô

hình đào tạo xuất phát từ ý tởng xây dựng một xã hội học tập, thực hiện
giáo dục suốt đời, đợc UNESCO đề xớng vào những năm 1970, sau đó đã
đợc nhiều nớc chấp nhận, đợc đánh giá là một trong những động lực thúc
đẩy phát triển của cộng đồng đơng đại. Tại đây ngời dân có thể học văn
hóa- nâng cao học vấn, cũng có thể học những nghề thiết thực theo nhu
cầu, hoặc học cả hai.
Vấn đề hạn chế khả năng tiếp thu các kiến thức khoa học và công
nghệ do trình độ học vấn còn thấp đang là thực trạng chung của lao động
nông thôn nớc ta hiện nay. Tuy nhiên trong đó, phải nói đồng bào các dân
tộc thiểu số là những ngời gặp nhiều khó khăn nhất. Để thấy đợc sự lỗ lực
của toàn Đảng toàn dân nhằm vợt qua thách thức về lĩnh vực này, lấy các
dẫn chứng bằng những thành tựu do chính các dân tộc thiểu số nớc ta đã
đạt đợc nhờ kiên trì phấn đấu nâng cao trình độ học vấn và trình độ dân trí
nói chung qua các số liệu ở Bảng 4 dới đây
Bảng 4 Tình hình dân số và học vấn các dân tộc thiểu số qua hai
kỳ Tổng điều tra dân số (1989,1999) chia theo cấp đào tạo và số lợng
dân tộc
Đơn vị tính:Ngời
TT
Dân số và học vấn
1989
1999
1 Tổng dân số các dân tộc thiểu số 8268480
10527455
2 Học vấn tính từ THPT trở lên
Tốt nghiệp THPT
113242
752255
Cao đẳng-đại học
11471

113070
Sau đạo học
126
642

11


Nguồn: Xử lý số liệu Tổng điều tra dân số 1989- Ban chỉ đạoTổng
điều tra dân số TW, Hà Nội-1991, và Tổng điều tra dân số-nhà ở 1999Nxb.Thống kê,Hà Nội-200.
Qua các số liệu trong bảng, có thể thấy sự tiến bộ về trình độ học vấn
của đồng bào các dân tộc thiểu số nớc ta cụ thể nh sau:
Nếu nh năm 1989, số ngời tốt nghiệp PHTH mới chiếm tỉ lệ 1,3%
tổng số thì đến năm 1999 tỉ lệ này đạt 7,15%, tăng gấp 5,5 lần.
Nếu nh năm 1989, số ngời tốt nghiệp CĐ-ĐH mới đạt 0.13% thì đến
năm 1999, tỉ lệ này đạt 1,07%, tăng gấp 8,2 lần.
Nếu nh năm 1989, số ngời có trình độ sau đại học mới đạt tỉ lệ
0,0001%, thì đến năm 1999, tỉ lệ này là 0,007%, tăng gấp 70 lần( tính để
tham khảo thêm, đợc biết tỉ lệ tăng tơng ứng ở dân tộc Kinh là 3,16 lần).
Tham khảo thêm các số liệu Bảng 5, có thể thấy đợc một khía cạnh khác về
thành tựu này của nhân dân các dân tộc thiểu số, cụ thể là:
Bảng 5. Tình hình học vấn các dân tộc thiểu số qua 2 kỳ Tổng điều tra dân
số(1989,1999) chia theo cấp đào tạo và số lợng dân tộc

12


Bảng 5. Tình hình học vấn các dân tộc thiểu số qua hai kỳ Tổng điều
tra dân số (1989,1999) chia theo cấp đào tạo và số lợng dân tộc
Đơn vị tính:Dân tộc

TT
1
2
3

Số lợng dân tộc
1989
1999
Cha có ngời tốt nghiệp THPT
7
0
Cha có ngời tốt nghiệp CĐ-ĐH
12
3
Cha có ngời có trình độ sau đạo học
42
32
Nguồn: Xử lý số liệu Tổng điều tra dân số 1989 và Tổng điều tra dân
số-nhà ở 1999. Sđd.
Năm 1989, còn 7 dân tộc thiểu số cha có ngời tốt nghiệp THPT(khi
đó gọi là cấp 3), thì đến năm 1999, ở mức độ nhiều ít khác nhau, tất cả các
dân tộc thiểu số đều đã có ngời tốt nghiệp cấp học này.
Năm1989, 12 dân tộc cha có ngời tốt nghiệp CĐ-ĐH, đến năm 1999,
trong số 42 dân tộc nói trên đã có thêm 10 dân tộc nữa có ngời đạt trình độ
sau đại học
Nh vậy, sau 10 năm (1989-1999) vừa thực hiện chủ trơng đổi mới
toàn diện đất nớc do Đại hội VI đề ra (1986), vừa tiếp tục thực hiện các
Nghị quyết Đại hội VII(1991) và Đại hội VIII(1996), cơ hội học tập dành
cho đồng bào các dân tộc thiểu số đã tăng lên đáng kể và sự phấn đấu nâng
cao trình độ học vấn của đồng bào các dân tộc thiểu số cũng thật đáng ghi

nhận, đặc biệt là ở trình độ cao, từ CĐ,ĐH trở lên.
Về chuyên môn kỹ thuật, nhằm khắc phục hiện trạng yếu kém của
đội ngũ lao động nông thôn, Đảng ta đã chủ trơng: Mở rộng hệ thống các
trờng lớp dạy nghề và đào tạo công nhân lành nghề, và: Ưu tiên đào tạo
nhân lực phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn, miền núi. Nhờ đó,
sau những bớc khởi đầu chậm chạm mang tính thí điểm, khoảng mấy năm
lại đây, công tác dạy nghề cho lao động nông nghiệp- nông thôn đã đợc
triển khai mạnh hơn. Nhiều trung tâm dạy nghề, các trờng lớp dạy nghề cho
nông dân đã đợc hình thành và đi vào hoạt động ở nhiều huyện, cụm xã, tại
hầu hết các tỉnh, thành phố. Các cơ sở đào tạo này đã thực hiện nhiều khoá
học ngắn hạn và trung hạn với phơng châm thiết thực cần gì học, dạy nấy,
nhờ vậy tỉ lệ lao động nông thôn qua đào tạo-bồi dỡng đợc gia tăng, đặc
biệt trong đó là sự gia tăng về số ngời qua đào tạo nghề bằng nhiều hình
thức khác nhau mà số liệu ở hai bảng 2 và 3 trên đây đã nói lên điều đó.
Nh vậy, có thể nói, những hạn chế về học vấn và CMKT của nguồn
nhân lực nông nghiệp-nông thôn hiện nay chỉ là những khó khăn trớc mắt,
tạm thời. Trong tơng lại không xa, thiết nghĩ với một nguồn nhân lực dồi
dào nh đã trình bày, lại đợc đào tạo, đợc trang bị những kiến thức KHKT để
kết hợp giữa sử dụng đất đai với bảo vệ tài nguyên môi trờng sinh thái, sử
dụng phân bón hoá chất bảo vệ thực vật, thức ăn gia súc gắn với vệ sinh an
toàn thực phẩm, bảo đảm sức khỏe con ngời, chắc hẳn các sản phẩm hàng
hoá do nông dân làm ra sẽ không chỉ ngày càng nhiều về số lọng, mà còn
đáp ứng yêu cầu cạnh tranh ngày càng cao về số lợng của thị trờng trong nớc, khu vực và quốc tế.
Thực tế đã chứng minh, những năm qua có một số nông dân nhờ
năng động làm ăn, chủ động tìm thầy để học hoặc mày mò học hỏi, đã trở
thành nhữ nông dân sản xuất giỏi, những chủ trang trại, trở nên giàu có,
thành những tỉ phú nhà nông.
Thực tế cũng cho thấy, một mặt nhờ đổi mới co chế quản lý nông
nghiệp, mặt khác nhờ thực hiện cơ chế thị trờng, nên những năm vừa qua ở
khu vực nông thôn đã có động lực phát triển, có nhiều cơ hội việc làm hơn


13


so với trớc, đồng thời, nông dân đã dó quyền tiếp cận với các nguồn lực,
đặc biệt là đất đai
Theo đó, cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động nông thôn đã và đang có sự thay
đổi theo chiều hớng tích cực. Một số vùng nông thôn đã có 30-50% lao
động tham gia các hoạt động kinh tế ngoài nông nghiệp, sự phát triển của
các hộ nông nghiệp kiêm ngành nghề đã thể hiện rõ xu hớng phá thế thuần
nông truyền thống trong nông nghiệp nớc ta. Riêng trong lĩnh vực nông
nghiệp cũng có sự chuyển dịch từ độc canh cây lúa sang đa dạng hoá cây
trồng, vật nuôi, góp phần tăng thêm đáng kể thu nhập cho các hộ gia đình.
Đồng thời, sự phân bố và sử dụng nguồn nhân lực nông thôn, xét trên phơng
diện cơ cấu hoạt động, phơng thức và hiệu quả sử dụng quỹ thời gian lao
động nói chung cũng đã có những chuyển biến đáng kể; các hoạt động
trong lĩnh vực nông nghiệp, nhất là tiêu thủ công nghiệp, xây dựng và các
dịch vụ sinh hoạt trong c dân nông thôn cũng đã có nhiều tiến bộ, đa dạng
và phong phú hơn.
Đại hội IX của Đảng ta đã nhận định: Còn đờng công nghiệp hoá của
nớc ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nớc đi trớc, vừa có những
bớc tuần tự, vừa có bớc nhảy vọt. Thực tế những gì đã trình bày, phân tích,
cho thấy nhận định của Đảng vừa có co sở thực hiện vừa có co sở khoa học.
Qua đó, với truyền thống hiếu học, tinh thần tơng thân, tơng ái giúp đỡ lẫn
nhau, với quyết tâm không can chịu đói nghèo thua chị kém em , cộng
với tính chăm chỉ cần cù vốn có trong lao động sản xuất, nông dân nớc ta
những ngời đã từng hoàn thành xuất sắc vai trò là đội quân chủ lực
trong cách mạng giải phóng dân tộc giành độc lập, tự do cho Tổ quốc và
đang đảm nhiệm vụ vai trò đội quân chủ lực trên mặt trận đảm bảo an toàn
lơng thực quốc gia , chắc chắn sẽ vợtv qua những khó khăn thử thách trớc

mắt, vơn lên đáp ứng yêu cầu lao động thời kỳ CNH-HĐH, hội nhập thành
công nền kinh tế khu vực và quốc tế
nguyên nhân
2.Những thách thức về con ngời và nguồn nhân lực trong sự nghiệp
CNH-HĐH
Bớc và thế kỷ XXI nguồn nhân lực nớc ta đang ở nhiều cấp độ, trình
độ của các nớc đã phát triển cao qua các cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ nhất, cách mạng công nghiệp lần thứ hai và trong thời đại công nghệ
thông tin. Chúng ta phải đào tạo, bồi dỡng nguồn nhân lực để chuyển từ
một nền kinh tế nông nghiệp sang một nền king tế công nghiệp trong ngữ
cảnh xây dựng nền kinh tế thị trờng định hớng theo XHCN theo đờng lối
hội nhập,mở cửa, tức là phải chú ý đến đội ngũ lao động đại bộ phận là lao
động nông nghiệp, đội ngũ lao động phục vụ cơ khí hoá, điện khí hoá lẫn
tin học hóa . Chúng ta phải chuẩn bị một nguồn nhân lực phục vụ cả 3 nền
kinh tế: kinh tế nông nghiệp, kinh tế công nghiệp, kinh tế tri thức.
Xem xét cụ thể, dân c nớc ta hiện nay đa số ở nông thôn, phần đáng
kể tổng sản phẩm quốc nội do khu vực nông nghiệp đóng góp (trên phạm vi
thế giới năm 1913 nông nghiệp đóng góp 70% vào thơng mại thế giới, nay
chỉ còn 17%); lao động nông nghiệp chiếm một phần lớn. Cơ cấu lao động
đang chuyển dịch theo hớng tăng lao động công nghiệp, lao động dịch vụ,
lao động trí thức, nhằm đáp ứng đợc chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu
kinh tế. Hội nghị Trung ơng 6 (khoá IX) họp vào tháng 7-2002 đánh giá
rằng bớc sang thế kỷ XXI, đội ngũ lao động của nớc ta đã có bớc phát triển
mới: Lao động có trình độ từ cao đẳng trở lên tăng 17,2%(từ 800000 năm
1995 lên 1300000 năm 2000). Số lao động đã qua đào tạo đạt 20% năm
2000(năm 1996 là 13%). Vậy chúng ta không đạt chỉ tiêu từ 25% lao động
đã qua đào tạo vào năm 2000 nh Nghị quyết Trung ơng (Khoá VIII) đã đề
ra ; tình hình nguồn nhân lực của nớc ta hiện nay đang ở trong tình trạng rất
14



phức tạp.Theo kết quả điều tra lao động và việc làm năm 2002 do Bộ lao
động -thơng binh-và xã hội công bố tháng10-2002, đến 1-7-12002 số ngời
trong độ tuổi lao động là 60,66% (khoảng 48,5 triệu ngời), trong đó khoảng
40,7 triệu ngời từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế thờng xuyên (khu vực
thành thị có khoản 9,7 triệu ngời, chiếm 23,87 % khu vực nông thôn
khoảng 31 triệu ngời, chiếm76,13%). Số lao động không biết chữ là 8,74%
và 80,31%lao động trình độ từ tiểu học trở lên: nhng có khác biệt khá lớn
giữa nông thôn và thành thị: tỷ lệ lao động cha biết chữ nông thôn cao gấp 6
lần thành thị, trong khi đó tỷ lệ lao động ở thành thịcó trình độ từ trung học
phổ thông trỏ lên cao gấp 8 lần ở nông thôn. Trong số lao động qua đào
tạo(chiếm 19,62% đội ngũ lao động), cũng có sự khác biệt lớn giữa nông
thôn và thành thị: ở thành thị, tỉ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật 44,60%, ở nông thôn là 11,89%. Tính đến tháng1-2000, trong khoảng
7,5 triệu ngời lao động thì đa số có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp
:khoảng 4,9 triệu ngời có trình độ sơ cấp hoặc chứng chỉ nghề; trình độ
THCN:1,4 triệu , trình độ
CĐ-ĐH: 1,3 triệu;thạc sĩ hơn 10000 ngời. Riêng tíên sĩ và tiến sĩ khoa học
đến tháng 5-2002 có khoảng13500 ngời. Vào cuối năm 2002 chúng ta có
1032 giáo s và 4563 phó giáo s .
Cơ cấu trình độ đào tạo của đội ngũ lao động tính theo tỷ lệ giữa lao
động trình độ ĐH, THCN và công nhân kỹ thuật là 1:1,75:2,3 vẫn là một cơ
cấu bất hợp lý và để kéo dài,dẫn đến tình trạng thừa thầy thiếu thợ, kỹ s làm
công việc của cán bổ trung cấp kỹ thuật.Trong cơ cấu đội ngũ lao động ở
các cơ sở sản xuất của nớc ta đội ngũ công nhân và lao động đơn giản
chiếm hơn 80% đội ngũ lao động; đội ngũ công nhân đã qua đào tạo; nhà
kỹ thuật; quản lý; phát minh và đổi mới công nghệ chỉ chiếm 18%.Trong 50
năm qua , chúng ta đã đào tạo đợc hơn 1 triệu cán bộ các ngành kỹ thuật có
trình độ đại học với cơ cấu ngành nh sau:
S phạm :

33,3%
Khoa học kỹ thuật :25,5%
Khoa học xã hội: 17%
Y dợc:
9,3%
Nông nghiệp:
8,1%
Khoa học tự nhiên:6,8%
Rõ ràng cơ cấu ngành đào tạo nh vậy là bất hợp lý, là một nớc nông nghiệp
mà chỉ có 8,1% cán bộ có trình độ đại học đợc đào tạo thuộc ngành nông
nghiệp, cha đáp ứng yêu cầu của CNH-HĐH.
Nớc ta tiến hành CNH-HĐH trên cơ sở đan xen giữa hai nền văn
minh chủ yếu là nông nghiệp và công nghiệp, cùng với một số nhân tố ban
đầu của văn minh tri thức. Song về cơ bản, nớc ta vẫn là một nớc nông
nghiệp lạc hậu: Dân số nông thôn chiếm gần 80% dân số cả nớc, đặc biệt
trong đó, dân số trẻ (dới 15 tuổi ) chiếm khá đông, hơn 1/3 tổng số; và lao
động nông thôn chiếm hơn 70% tổng nguồn lao động xã hội, trong đó phần
lớn lại cha qua đào tạo, hầu hết đang lao động thủ công, bằng những kinh
nghiệm, cổ truyền là chính. Nguồn nhân lực dồi dào ở khu vực nông thôn,
do đó chủ yếu vẫn đang ở dạng tiềm năng kinh tế sức mạnh của nó cha đợc
phát huy đầy đủ do trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật hạn
chế.
Nhiều nghiêm cứu đã chứng minh nếu tính chi phí trên một đơn vị
sản phẩm, lao động nông thôn nớc ta hiện nay đắt hơn so với lao động của
nhiều nền kinh tế khác, và : tình hình này dẫn đến hai hậu quả lớn đối với
nền kinh tế đang ở trong giai đoạn đẩy mạnh mở cửa và hội nhập kinh tế
quốc tế, đó là một môi trờng đầu t kém hấp dẫn và sức cạnh tranh thấp của
sản phẩm.
15



1. Theo sè liÖu thèng kª míi nhÊt c«ng bè n¨m 2003, lao ®éng n«ng
th«n níc ta cã 31012699 ngêi ®ang tham gia ho¹t ®éng kinh tÕ,
chiÕm76,18% tæng sè lao ®éng c¶ níc cã tr×nh ®é häc vÊn ®îc
ph¶n ¸nh trong b¶ng 1.

16


Bảng 1. Trình độ học vấn của lao động nông thôn cả nớc chia theo
nông thôn- thành thị ( tính từ đủ 15 tuổi trở lên đang hoạt động kinh tế)
Đơn vị tính:Ngời
Thứ
Trình độ học vấn
Tổng số
Chia Theo
tự
Nông thôn
Thành thị
1
Cha biết chữ
1523001
1428735
94266
2
Cha tốt nghiệp Tiểu học
6434724
5629097
805627
3

Tốt nghiệp Tiểu học
12911678
10578521
2333157
4
Tốt nghiệp THCS
12400369
9710280
2690089
5
Tốt nghiệp THPT
7447084
3666066
3781018
Cộng
40716856
31012699
9704157
Nguồn Bộ lao động-Thơng binh và xã hội, Số liệu thống kê Lao động-Việc
làm ở Việt Nam 2002,Nxb. Lao động-Xã hội-Hà Nội,2003,tr.24 và 30.
Xét về trình độ học vấn (B.1), có 4,6% cha biết chữ(chiếm 93,81%
tổng số lao động cha biết chữ của cả nớc), 18,15% cha tốt nghiệp tiểu học,
34,11% tốt nghiệp tiểu học,31,31% tốt nghiệp THCS và 11,82% tốt nghiệp
THPT( so với các tỉ lệ tơng ứng của lao động thành thị là 0,97%, 8,3%,
24,04%, 27,72% và 38,96%).
Xét trên về trình độ chuyên môn kỹ thuật(B.2), lao động khu vực
nông thôn có 3751721 ngời đã qua đào tạo(B.2), mới đạt tỉ lệ 12,09% so với
chỉ tiêu 22-25% lao động cả nớc qua đào tạo do Đại Hội VIII đề ra. Cha
nói, phần lớn trong số này đang ở trình độ thấp (52,1% là những lao động
có trình độ sơ cấp / chứng chỉ nghề và CNKT không có bằng), còn lại,

CNKT:14,88%, THCN:20,43%, CĐ-ĐH: trở lên chiếm 12,59% (so với
21,98%, 30,58%,18,86%, và 28,57% là các tỉ lệ tơng ứng của lao động
thành thị).
Bảng 2. Trình độ chuyên môn-kỹ thuật của lao động cả nớc, chia
theo nông thôn- thành thị (từ đủ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế thờng
xuyên)
Đơn vị tính:Ngời
Thứ
Trình độ chuyên môn kỹ
Tổng số
Chia Theo
tự
thuật
Nông thôn Thành thị
1
Sơ cấp/ có chứng chỉ nghề
1300947
993782
307165
2
Công nhân kỹ thuật không
1592368
960745
631623
bằng
3
Công nhân kỹ thuật có bằng
1864015
558168
1305847

4
Trung học chuyên nghiệp
1571821
766611
805210
5
Cao đẳng, đại học và trên
1692646
472415
1220231
đạo học
Cộng
8021797
3751721
4270076
Nguồn Bộ lao động-Thơng binh và xã hội, Số liệu thống kê Lao động-Việc
làm ở Việt Nam 2002, Sđd, tr.181,183
2. Kết quả điều tra của Đề tài cấp Nhà nớc (thuộc Chơng trình KHCN
cấpNhà nớc KX05 2001-2005) về trình độ đào tạo của lao động nông
nghiệp nông thôn đợc tiến hành tại 7 tỉnh và thành phố trong cả nớc,
cũng cho biết một số thực trạng tơng tự.
Bảng 3.Trình độ chuyên môn-kỹ thuật của lao động nông thôn qua
điều tra khảo sát
Thứ
Trình độ chuyên môn kỹ thuật
Số ngời Chiếm tỉ
tự
lệ(%)
Tổng số
990

100,00
17


I

Cha qua đào tạo:

736

74,40

II
Đã qua đào tạo, chia theo cấp trình độ:
1
Nghề <6 tháng
79
7,96
2
Nghề 6-12 tháng
30
3,00
3
Nghề dài hạn(>1 năm)
37
3,76
4
Trung học chuyên nghiệp
68
6,88

5
Cao đẳng
15
1,50
6
Đại học
24
2,40
7
Sau ĐH
01
0,10
Nguồn số liệu Nhà nớc KX05-10. Số liệu điều tra, 3-2003
Các số liệu trong Bảng 3 cho thấy, quá nửa (57,50%) số lao động có
chuyên môn kỹ thuật ở đây cũng chỉ qua đào tạo nghề, số còn lại gồm
THCN chiếm 26,77% và CĐ-ĐH trở lên chiếm 15,74%.
3.Mặt khác, theo dự báo của nhiều nhà khoa học, trong nền sản xuất
công nghiệp hiện đại, với tốc độ phát triển nhanh chóng của khoa học và
công nghệ, với sự cạnh tranh quyết liệt của cơ chế thị trờng thì trung bình
mỗi ngời, trong cuộc đời lao động, có thể sẽ phải đổi nghề khoảng 4-5 lần.
Nh vậy, rõ ràng là ngời lao động, nếu muốn tiếp tục việc làm, phải không
ngừng học tập để nâng cao trình độ, cập nhật các kỹ nẵng, kiến thức mới
một cách liên tục hoặc theo hoặc theo định kỳ, thậm chí phải đợc đào tạo lại
mới có thể đáp ứng yêu cầu công việc,..
Nói tóm lại, những điều đã trình bày trên cũng nói rằng, muốn đáp
ứng đợc yêu cầu hội nhập nền kinh tế khu vực vơn tới một cuộc sống ấm
no, một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đáp ứng đòi hỏi của
CNH,HĐH đất nớc thì lao động nông thôn nớc ta sẽ phải cố gắng hơn nữa,
vợt qua mọi thách thức do thực tiễn CNH,HĐH đặt ra.
3.Nguyên nhân làm hạn chế phát triển nguồn lực con ngời

Những hạn chế trong việc xây dựng, bồi dỡng, phát huy nguồn lực con ngời
Việt Nam trong thời gian qua do những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, Nớc ta là một nớc nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã
hội, năng suất lao động còn rất thấp, đời sống của nhân dân còn nhiều khó
khăn, tình trạng nghèo đói còn tồn tại trong một bộ phận dân c, do vậy, việc
chăm sóc đầy đủ, đảm bảo những điều kiện cho con ngời phát triển toàn
diện còn hạn chế.
Thứ hai, Việt Nam trải qua nhiều năm chiến tranh, với khẩu hiệu tất
cả cho tiền tuyến, tất cả đánh thắng, chúng ta dồn sức ngời sức của để giải
phóng miền Nam thống nhất đất nớc, không có điều kiện chăm sóc cho con
ngơi.
Hiện nay, hậu quả chiến tranh còn để lại rất nặng nề đòi hỏi toàn
Đảng, toàn dân phải tiếp tục khắc phục.
Thứ ba, Những ảnh hởng của phong tục tập quán, thói quen của ngời
sản xuất nhỏ nh : thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, cách nhìn thiển cận, tâm lý tự
ty, tính vị kỷ, cục bộ địa phơng, kể cả tác phong gia trởng trong giáo dục và
đáng giá mỗi con ngời,...
Thứ t, Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trờng, mở rộng
giao lu quốc tế, một mặt cũng tạo ra những tác động tích cực, nhung mặt
khác cũng tạo ra những ảnh hởng tiêu cực nh : lối sống thực dụng, chỉ vì
chức quyền, vì tiền mà không ít ngời có thể làm mọi việc bất chấp luân thờng đạo lý. Điều đó gây ra những tác động xấu trong xã hội.
Thứ năm, Sự đầu t cho giáo dục đào tạo còn hạn chế, công tác quản
lý giáo dục-đào tạo có những mặt yếu kém bất cập. Tình trạng tiêu cực
trong giáo dục còn đang phổ biến ở nhiều nơi, chất lợng giáo viên còn hạn

18


chế. Những điều đó đang ảnh hởng tới chất lợng đào tạo, trực tiếp ảnh hởng
tới việc phát huy nguồn nhân lực trong giai đoạn hiện nay.

Thứ sáu, Những yếu kém trong quản lý nhà nớc, hệ thống luật phát
cha đồng bộ, tính gia trởng, sự bảo thủ trong một số cán bộ có chức có
quyền, tâm lý đố kỵ, ghen ghét với những ngời có năng lực của một số ngời
đang hạn chế phát huy nguồn nhân lực ở nớc ta hiện nay.

19


Chơng III: Một số giải pháp phát huy nguồn lực con
ngời trong quá trình CNH,HĐH ở nớc ta hiện
nay.
Để phát huy nguồn lực con ngời, cần thực hiện tốt những giải pháp sau:
Thứ nhất: Trong lĩnh vực kinh tế
Phải nâng cao vị thế của ngời lao động trong quá trình sản xuất. Cần nhanh
chóng khắc phục tình trạng tách ngời lao động ra khỏi t liệu sản xuất. Thực
hiện giao đất, giao rừng cho nông dân, tạo điều kiện cho mọi ngời dân làm
chủ cụ thể những t liệu sản xuất của toàn xã hội, ở mọi thành phần kinh tế.
Huy động rộng rãi nhân dân đóng góp ý kiến xây dựng kế hoạch phát
triển kinh tế-xã hội của đất nớc, của địa phơng, đóng góp ý kiến xây dựng
kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, của đơn vị.
Phát huy sáng kiến của ngời lao động, chăm lo đời sống vật chất tinh
thần của họ, thực hiện phân phối công bằng, công khai, dân chủ.
Động viên mọi ngời dân bỏ vốn ra sản xuất kinh doanh, khai thác thế
mạnh của các địa phơng, phát triển ngành nghề truyền thống, phát triển nền
kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa, phát huy trình độ tay nghề,
năng lực quản lý kinh doanh của mỗi thành viên trong xã hội, để cùng với
Nhà Nớc giải quyết những khó khăn của đất nớc.
Tăng cờng giáo dục đạo đức, khơi dậy lơng tâm nghề nghiệp, nêu cao
trách nhiệm của mỗi con ngời trong hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch
vụ. Cần làm cho mọi ngời thấy đợc trách nhiệm của mình phải lao động

nghiêm túc, có chất lợng, có hiệu quả, tạo ra hàng hóa tốt, nâng cao chất lợng dịch vụ. Điều đó vừa tạo điều kiện cho xã hội phát triển, vừa là điều
kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Phê phán mạnh mẽ
thói quen lời biếng, làm bừa, làm ẩu; ngăn ngừa làm ăn phi phát, phi đạo lý.
Thứ hai: Trong lĩnh vực chính trị
Nâng cao trình độ của cán bộ, đảng viên và nhân dân về nhận thức
chính trị(chủ nghĩa Mác-Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng
ta), về luật phát, về Nhà nớc của dân, do dân, vì dân, từ đó nâng cao trách
nhiệm và năng lực của họ tích cực tham gia vào công việc của Đảng, Nhà nớc và hệ thống chính trị của nớc ta.
Tăng cờng vai trò kiểm tra giám sát của quần chúng nhân dân trong
mọi hoạt động của bộ máy nhà nớc, thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội,
huy động đông đảo quần chúng nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh
chống tham nhũng.
Xây dựng cơ chế quản lý xã hội, quản lý nhà nớc để ngời dân có điều
kiện tham gia công việc Nhà nớc, công việc xã hội, thực sự là ngời làm chủ
đất nớc; khắc phục tình trạng trì trệ, bảo thủ trong một số cơ quan nhà nớc.
Phân rõ trách nhiệm của từng cấp, từng ngành, từng tập thể, từng cá
nhân trong từng công việc, khắc phục tình trạng chồng chéo, hay buông
lỏng quản lý nhà nớc trong một số ngành, một số địa phơng.
Giáo dục tinh thần yêu nớc, nâng cao ý thức tự cờng dân tộc, trách
nhiệm công dân, bản lĩnh chính trị của mỗi ngời dân. kiên quyết đấu tranh
với những hiện tợng tiêu cực, tình trạng vi phạm kỷ cơng, phép nớc và
những âm mu chống phá của kẻ thù, bảo vệ chế độ của mình
Trên cơ sở những thành qủa đạt đợc, mọi ngời mới có điều kiện học
tập, rèn luyện, phấn đấu về mọi mặt và cống hiến ngày càng nhiều cho xã
hội.
Thứ ba: trên lĩnh vực xã hội
Từng bớc khắc phục đi tới loại bỏ những phong tục tập quán lạc hậu,
những quan hệ không bình đẳng, xây dựng quan hệ mới giữa ngời với ngời
20



trên tinh thần tơng trợ giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất kinh doanh, trong
đời sống xã hội. Xây dựng quan hệ bình đẳng hữu nghị giúp đỡ lẫn nhau
giữa các dân tộc, giữa các quốc gia.
Cần thực hiện những biện pháp làm giảm dần khoảng cách chênh
lệch giữa các tần lớp dân c, giữa các vùng lãnh thổ. Quan tâm tới những hộ
nghèo, những gia đình khó khăn, những hộ chính sách xã hội, những vùng
sâu, vùng xa tạo ra cơ hội phát triển cho mọi ngời, làm cho mọi ngời dân
đều đợc hởng những thành quả y tế, giáo dục, văn hóa,...
Thực hiện chính sách xoá đói, giàm nghèo, tập chung giải quyết
những vấn đề cấp bách về lao động việc làm; trên cơ sở đó, ngời mọi ngời
mới có điều kiện nâng cao trình độ tri thức, trình độ tay nghề, mới có môi
trờng rèn luyện phấn đấu, cống hiến sức mình cho đất nớc, cho xã hội.
Thứ t: Trên lĩnh vực t tởng, văn hoá, nghệ thuật
Đẩy mạnh cuộc đấu tranh trên lĩnh vực t tởng, phê phán những t tởng phản
động đang tìm cách phủ nhận con đờng mà Đảng và nhân dân ta lựa chọn.
Nâng cao chất lợng và hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục lý luận
chính trị, tạo nên sự thống nhất cao hơn nữa trong Đảng, sự đồng thuận
trong nhân dân. , đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, t tởng cơ hội, thực
dụng, chăn đà suy thoái về đạo đức, lối sống.
Trớc yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi
các nhà văn, nhà thơ, các nhạc sĩ, các nghệ sĩ phải nâng cao trách nhiệm
của mình trong sáng tác, biểu diễn, không vì đồng tiền mà bán rẻ lơng tâm,
vô trách nhiệm với đất nớc.
D luận xã hội phải lên tiếng ủng hộ những tác phẩm có hình thức, nội
dung hay, phê phán những tác phẩm có hình thức và nội dung dở. Cần tăng
cờng hơn nữa công tác quản lý của Nhà nớc trong hoạt động sáng tác, biểu
diễn, sao cho văn học nghệ thuật phải cổ vũ cho cái hay, cái đẹp, góp phần
xây dựng lối sống lành mạnh, nâng cao những giá trị nhân văn, phát huy
những giá trị tốt đẹp trong con ngời Việt Nam.

Đảng và Nhà nớc ta phải chăm lo tới việc bồi dỡng nâng cao chất lợng và
phát huy có hiệu quả nguồn lực con ngời Việt Nam, tạo nên sự phát triển
nhanh và bền vững đất nớc, nhanh chóng thực hiện mục tiêu dân giàu, nớc
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Thứ năm: Trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo
Để có nguồn nhân lực có chất lợng cao phải thông qua giáo dục và đào tạo,
vì vậy có các giải pháp sau đây để nâng cao chất lợng nguồn nhân lực:
a.Xã hội hoá giáo dục, đa dạng hoá các loại hình đào tạo và đào tạo
liên thông là lộ trình khoa học đảm bảo sự phát triển bền vững của nguồn
nhân lực Việt Nam
Xã Hội hoá giáo dục
Trong những năm qua, thực hiện Nghị Quyết 90/cp và Nghị Quyết 73/cp
của Chính Phủ, xã hội hoá giáo dục ở nớc ta đã phát triển đạt đợc những
thành tựu quan trọng, góp phần đáng kể cho sự phát triển của sự nghiệp
nứơc nhà: màng lới các cơ sở giáo dục phát triển,quy mô giáo dục tăng
nhanh,đặc biệt đã hình thành phong trào học tập sôi nổi trong cán bộ viên
chức .Quy mô giáo dục tăng nhanh, bứơc đầu đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Cả nứơc đã hoàn thành công tác xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học
và đang phổ cập trung học cơ sở, một số tỉnh, thành phố đang phổ cập trung
học phổ thông. Chất lợng giáo dục từng bớc đợc nâng cao. Cùng với việc
tăng ngân sách nhà nớc cho giáo dục hàng năm, nguồn tài chính ngoài ngân
sách nhà nớc đầu t cho giáo dục tăng lên đáng kể nhất là nguồn tài chính do
mở rộng hợp tác với các nớc,các tổ chức quốc tế các cá nhân nớc ngoài và
Việt Kiều. Đến nay nhận thức xã hộ hoá giáo dục đã có những chuyển biến

21


căn bản. Các cấp uy Đảng, các cấp chính quyền,các đoàn thể đã có nhiều
biện pháp huy động các lực lợng xã hội tham gia.

Sự nghiệp giáo dụcvà xây dựng môi trờng giáo dục lành mạnh.Đối với nớc
ta trong giai đoạn hiện nay việc thực hiện xã hội hoá giáo dục là rất cần
thiết bởi một số nguyên nhân sau:
Một là, để phát triển giáo dục trong giai đoạn hiện nay, không thể chỉ
sử dụng duy nhất một loại vốn vốn nhà nớc. Với múc thu nhập ngân sách
thấp, Nhà nớc sẽ không đủ khả năng chi ngân sách để tạo bớc chuyển cần
thiết, nhằm biến chuyển xã hội Việt Nam thành một xã hội học tập. Việc
thực hiện huy động các nguồn vốn phi Nhà Nớc sẽ là biện pháp tốt để mở
rộng quy mô giáo dục;
Hai là, kinh nghiệm phát triển giáo dục ở các quốc gia, đặc biệtlà
những quốc gia có những điều kiện gần gũi vời Việt Nam nh
Sinhgapor,Malaysia đã cho thấy rằng đầu t cho giáo dục là đầu t mang lại
hiệu quả cao nhất, tạo sự chuyển biến lớn nhất đối với sự phát triển. Đầu t
cho giáo dục chính là đầu t cho con ngời, vì con ngời, vì con ngời, mà con
ngời lại chính là động lực của sự phát triển. Do vậy, cần phát huy mọi
nguồn vốn có thể huy động đợc để đầu t cho giáo dục,quản lý có hiệu quả
các nguồn vốn đó, tức là phảI thực hiện xã hội hoá giáo dục;
Ba là, Việt Nam đang thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nớc đang chịu sự chi phối của xu thế chi thức hoá, toàn cầu hoá kink tế, đang
trên con đờng hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Việc thực hiện xã
hội hoá giáo dục chính là việc làm nhằm góp phần đa Việt Nam nhanh
chóng hội nhập với xu thế chung đó, nhằm rút ngắn sụ tụt hậu của Việt
Nam so với các nớc phát triển trong khu vực và thế giới;
Bốn là, việc xã hộ hoá giáo dục sẽ tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh
giữa các trờng công lập và ngoài công lập, tạo ra những cú hích nhằm
nâng cao chất lợng đào tạo. Rõ ràng, trong bối cảnh cạnh tranh lành mạnh
đó, các trờng tự phảI nâng cao chất lợng đào tạo, thực hiện cái đào tạo mà
thị trờng cần chứ không phảI cái mà mà mình có qua đó đảm bảo sự tồn
tại và phát triển của chín mình.
Để đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, việc làm trứơc mắt là phảI phát
triển các trờng ngoài công lập, gồm cac loại trờng nh dân lập, bán công

từng bớc mở rộng các trờng t thục trong điều kiện thực hiện kiểm tra và
giám sát chặt chẽ chất lợng và quy trình giáo dục của các trờng này.
Đối với các trờng công lập, cũng cần thực hiện xã hội hoá từng bớc.
Chính sách thu học phí, cấp học bổng ở các trờng đào tạo hiện nay là bớc đi
đúng, mang tính tạo nền tảng cho việc thực hiện xã hội hoá giáo dục ở các
trờng. Bớc tiếp theo cần mở rộng diện đào tạo, mở ra các đaò tạo ngắn hạn,
trung hạn nhằm cung cấp các kiến thức, kĩ năng cần thiết vừa phục vụ nhu
cầu của thị trờng lao động, vừa mang tính đi tắt, đón đầu nhằm đào tạo
nhân lực cho xã hội, đồng thời thực hiện chế độ thu học phí theo phơng
châm xã hội hoá. Cũng cần nghiên cứu, xem xét việc chuyển một số trờng
hợp công lập thành trờng ngoài công lập khi có đủ điều kiện thích hợp.
Việc thực hiện xã hội hoá giáo dục còn phảI mở rộng các quỹ khuyễn
học, quỹ bảo trợ giáo dục, khuyến khích các cá nhân và tập thể đầu t phát
triển giáo dục; đổi mới chế độ học phí của các trờng đại học, cao đẳng công
lập và ngoài công lập theo hớng đảm bảo tơng xứng với chất lợng dịch vụ
giáo dục mà nhà trờng có thể cung cấp,phù hợp với khả năng ngời học,
đồng thời miễn giảm cho các đối tợng chính sách, gia đình có công và ngời
nghèo. Cách làm này vừa có tính khuyến khích, tạo cơ hội học tập cho
nhiều ngời, vừa mang tính xã hội và nhân văn cao. Bên cạnh đó, việc mở
rộng và tăng cờng các mối quan hệ và nhà trờng với các ngành, địa phơng,
cơ quan, các tổ chức kinh tế-xã hội là một việc làm cần thiết nhằm đóng
22


góp xây dựng cơ sở vật chất, góp ý kiến cho việc quy hoạch phát triển nhà
trờng, điều chỉn cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ đào tạo, hỗ trợ kinh phí
cho ngời học và tiếp nhận ngời tốt nghiệp, giám sát các hoạt động giáo dục
và tạo lập môi trờng giáo dục lành mạnh.
Các trờng, đặc biệt là các trờng cao đẳng, đại học, trung học chuyên
nghiệp cũng cần phảI thiết lập mạng thông tin đào tạo, điều tra tổng thể nhu

cầu đào tạo và xác định những kiến thức, kỹ năng cần đào tạo nhằm xây
dựng nộ dung chơng trình đào tạo chuẩn phù hợp với nhu cầu của thị tròng
lao động, tạo sức hút xã hội lớn đối với việc đào tạo từng chuyền ngành.
Cũng cần thiết lập các trang website cho trờng, cho từn chuyên ngành đào
tạo, qua đó tăng cờng sự hợp tác, tăng cờng sự đầu t của xã hội cho giáo
dục- đào tạo.
Trong vấn đề xã hội hoá giáo dục, việc xây dựng nhà trờng trở thành
trung tâm văn hoá, môI trờng giáo dục lành mạnh, giáo dục toàn diện về
đức, trí, thể mỹ, phát huy truyền thống tôn s trọng đạo, xây dựng các một
đội ngũ các nhà giáo mẫu mực về mọi mặt; kiên quyết loại trừ các tệ nạn xã
hội , tiêu cực trong giảng dạy và học tập là việc làm cơ bản , cần thiết tạo cơ
sở cho việc xây dựng và củng cố niềm tin của nhà trờng đối với xã hội, tăng
cờng sức hút của nhà trờng, khuyến khích đầu t xã hội vào trờng. Để làm tốt
việc này nhà trờn cần có sự phối hợp chặt chẽ với xã hội trong vấn đề xây
dựng và phát triển trờng. Rõ ràng, để thực hiện những bớc đi nói trên, cần
có những cách làm thích hợp để nâng cao ý thức, nhận thức của ngời dân.
Cần tiếp tục hoàn thiện các cơ sở pháp lý về vấn đề xã hội hoá giáo dục và
tăng cờng sự lãnh đạo của các cấp lãnh đạo cấp uỷ Đảng, sự giám sát của
hội đồng nhân dân, sự giám sát của uỷ Ban nhân dân các cấp, phát huy vai
trò của các tổ chức Công Đoàn, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Đội thiếu
niên tiền phong, hội học sinh- sinh viên, hội cha mẹ học sinh, hội khuyến
học và các đoàn thể tổ chức xã hội khác trong việc huy động nguồn lực xã
hội tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục.
Với việc thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên, chúng ta sẽ thực
hiện đợc mục tiêu đặt ra là đến năm 2010, ở Việt Nam sẽ có 40%lực lợng
lao động đợc qua đào tạo và đến năm 2020, Việt Nam về cơ bản sẽ là một
nớc công nghiệp.
Đa dạng hoá các loại hình đào tạo
Mục tiêu cơ bản của giáo dục là tạo cơ hội cho ngời dân , có thể tham
gia vào quá trình giáo dục.Muốn thực hiện đợc mục tiêu đó, cần thực hiện

đa dạng hoá các loại hình đào tạo. Nh vậy, đa dạng hoá các loại hình đào
tạo thực chất là việc tạo ra nhiều hình thức đào tạo, với sự đa dạng về thời
gian, không gian và kiến thức kỹ năng cần đào tạo đáp ứng nhu cầu học của
ngời dân, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho ngời dân tham gia học tập. Xã hội
đợc tác động củ các quan hệ cung- cầu trên thị trờng đào tạo tuỳ thuộc vào
thu cầu của xã hội đối với các loại hình đào tạo đó.
Trớc hết, cần đề cập loại hình đào tạo mới cho những ngời trên
thực tế cha qua đào tạo. Loại hình đào tạo này cũng có thể thực hiện đa
dạng hoá thông qua việc tạo cơ hội cho ngời học có thể học nhiều ngành
khác nhau,nhiều trờng khác nhau
Vấn đề đào tạo lại sẽ phải đợc đẩy mạnh khi các mối quan hệ thị
trờng trở nên phát triển . Doanh nghiệp, dới tác động của sự cạnh tranh, có
thể phảI thu hẹp quy mô sản xuất, dẫn đến sự d thừa lao động trên thị trờng. Sự cuốn hút của một số ngành nghề có thu nhập cao có thể tạo ra
những dòng di chuyển lao động từ ngành nghề này sang ngành nghề khác
Do vậy, nhu cầu đào tạo lại, dạy nghề mới, nâng cao tay nghề ngày càng
trở nên bức xúc. Cùng với sự đẩy mạnh CNH-HĐH, sự hội nhập nhanh
chóng với nền kinh tế khu vực và thế giới, những kiến thức thu đợc của ngời
23


lao động sẽ nhanh chóng trở nên lạc hậu, những đòi hỏi mới kiến thức
kỹ năng của ngời lao động luôn đợc đặt ra bởi thực tiễn, do vậy, cần phải
đẩy mạnh đào tạo bổ sung và đào tạo nâng cao cho ngời lao động. Hình
thức đào tạo bổ sung, đào tạo nâng cao vì thế sẽ có chỗ đứng ngày càng
vững chắc. Đối với đội ngũ cán bộ công chức ngành, vấn đề đào tạo lại, đào
tạo bổ sung, đào tạo nâng cao đã và đang đợc đặt ra, với mức độ bức xúc
ngày càng lớn do yêu cầu của sự phát triển kinh tế đất nớc đòi hỏi phải
chuẩn hoá cán bộ theo xu hớng chuyên môn hoá cao độ.
Trong điều kiện nền kinh tế đất nớc còn khó khăn, cần thiết phảI đẩy
mạnh đào tạo theo hớng tăng cờng cho xuất khẩu lao động. Đây là một cách

làm hiệu quả bởi xuất khẩu lao động, ngoài ra việc tạo ra đội ngũ lao động
có tay nghề cao, có tác phong làm việc công nghiệp còn góp phần tạo ra
việc làm, tạo thu nhập cho ngời lao động và gia đình họ, tăng thu cho ngân
sách cho đất nớc.
Song song với việc tổ chức các loại hình đào tạo theo tính chất của
quy mô đào tạo nói trên, cũng cần thực hiện đa dạng hoá cách thức đào
tạo, mở rộng đào tạo chính quy, tại chức, đào tạo từ xa, đào tạo từ nớc ngoài
Việc đẩy mạnh đào tạo chính quy tập chung không cần phảI bàn tính
nhiều do tính u việt của nó, do chỗ đứng của nó đã đợc khẳng định bởi chất
lợng đào tạo cao. Song việc đào tạo tại chức, cần phảI thực hiện nghiêm
minh quy chế đào tạo, coi đào tạo tại chức nh là đào tạo chính quy, nâng
cao chất lợng đào tạo tạo chức. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để xã hội thừa
nhận chất lợng đào tạo tại chức không thua kém chất lợng đào tạo chính
quy. Chỉ có nh vậy, đào tạo tạo chức mới có chỗ đứng lâu dài, bền vững,
phục vụ đắc lực cho đào tạo lại và đào tạo nâng cao nguồn nhân lực cho nề
kinh tế quốc dân.
Đào tạo từ xa, với phơng châm trọ giúp kiến thức, kỹ năng cho những
ai do điều kiện, hoà cảnh không tham dự đợc những khoá đào tạo chính
quy, là một trong những hình thức đào tạo đã và đang phát huy tác dụng.
Với cách thức đào tạo này, cần phải đẩy mạnh việc đào tạo từ xa theo hớng
liên kết các trờng đào tạo có uy tín trên thế giới, kết hợp các chuyên gia
quốc tế trong lĩnh vực đào tạo, thu hút các nguồn vốn quốc tế phục vụ cho
đào tạo. Cùng với việc đẩy mạnh đào tạo thông qua đẩy mạnh hình thức du
học, việc đẩy mạnh đào tạo từ xa đã và đang góp phần không nhỏ trong việc
đào tạo đội ngũ cán bộ theo hớng đi tắt, đón đầu và hội nhập, tạo đà cho sự
phát triển bền vữn của nền kinh tế đất nớc.
Đào tạo liên thông cho các bậc học
Đào tạo liên thông là quá trình cho phép công nhận và chuyển đổi kết
quả học tập và rèn luyện của ngời học từ một trình độ này tới một hay một
sổ trình độ khác hoặc tron các ngành khác nhau của một trình độ thuộc hệ

thống giáo dục và đào tạo. Nh vậy, có thể liên thông là sự chuyển đổi giữa
các chơng trình đào tạo, bồi dỡng, giữa các bậc học mà không cần lặp lại
những kiến thức đòi hỏi đã đợc tích luỹ. Trong nền kinh tế vận hành theo
nền kinh tế thị trờng ngày nay, với sự bùng nổ của cách mạng công nghệ
thông tin và tri thức hoá, toàn cầu hoá kinh tế, đào tạo liên thông giữa các
bậc học là một xu thế tất yếu khách quan. Điều đó đợc giảI thích bởi nhiều
nguyên nhân:
Một là, khi nền kinh tế chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trờng,
thị trờng lao động đợc hình thành, nhu cầu lao động trên thị trờng lao động
biến đổi nhanh chóng. Việc thực hiện chuyển giáo công nghệ, áp dụng
thành tựu khoa học-kỹ thuật mới vào trong sản xuất và quá trình làm việc
đòi hỏi một lực lợng lao động có khả năng cạnh tranh và thích nghi cao.
Việc toàn cầu hoá, tri thức hoá kinh tế cùng với nhu cầu của thị trờng đã
tạo nên nhu cầu cao của xã hội về lao động tri thức có trình độ chuyên môn
24


cao và thúc đẩy sự nỗ lực của mọi ngời của mọi ngời dân trong việc nâng
cao trình độ học vấn. Bên cạnh đó, sự cạnh tranh gay gắt trên thị trờng tiêu
thụ sản phẩm luôn tạo ra những bấp bênh trong vấn đề việc làm của ngời
lao động. Nhiều doanh nghiệp bị phá sản, ngời lao động mất việc làm. Một
số ngành nghề cũ bị mất đI thay vào đó là những ngành nghề mới. Chính thị
trờng, cùng với nhu cầu mạnh mẽ của ngời dân đã thúc đẩy mạnh mẽ sự đào
tạo liên thông không những chuyển đổi từ ngành này sang ngành
khác( cùng một cấp đào tạo) mà còn ở việc nâng cao cấp đào tạo.
Hai là, trong kỷ nguyên cách mạng công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học và sự bùng nổ về tri thức thì ngay cả những ngời đợc đào tạo tốt
khó mà theo kịp các sự biến đổi luôn diễn ra nhanh chóng về tri thức và
công nghệ. Những kiến thức mà ngời dân lĩnh hội đợc sẽ trở lên lạc hậu
nhanh chóng. Vì vậy việc tổ chức cập nhật, nâng cao ý thức của ngời dân

một cách thờng xuyên đóng vai trò rất lớn quan trọng trong thiết kế các chơng trình đào tạo.
Ba là, cùng với xu hớng toàn cầu hoá đang diễn ra, xu hớng quốc tế
của giáo dục-đào tạo càng trở nên mạnh mẽ xuất phát từ yêu cầu của việc
giao lu lao động quốc tế và giao lu kiến thức, giao lu về chơng trình giáo
dục-đào tạo của các nớc trên thế giới. Vấn đề liên kểt trong đào tạo, trao đổi
sinh viên với các quốc gia khác; du học của sinh viên; vấn đề giao lu lao
động quốc tế đang đặt ra những đòi hỏi mới về quốc tế hoá nội dung chơng trình đào tạo. Nh vậy, trong thiết kế nội dung chơng trình đào tạo, cần
tham khảo thêm nội dung đào tạo các cấp học của quốc gia khác nhằm
thiết kế chơng trình đào tạo mang tính chất chung giữa Việt Nam với các
nớc trong khu vực và thế giới.
Trong việc tìm tòi và thiết kế những cáI chung đó trong nội dung
chơng trình đào tạo giữa Việt Nam và các nớc trên thế giới, vấn đề liên
thông đào tạo quốc tế sẽ nảy sinh và phát triển mạnh mẽ. Nh vậy, việc liên
thông đào tạo không chỉ còn bó hẹp trong phạm vi của quốc gia mà mở
rộng dần ra trên bình diện quốc tế. Xu hớng này từ lâu đã bộc lộ rõ ở các nớc phát triển. Việc xúc tiến thành lập Đại học ASEAN và những nỗ lực
nhằm tiến tới sự công nhận chất lợng đào tạo theo những tiêu chuẩn chung
ở các nớc ASEAN trong các hội nghị Thợng đỉnh gần đây không nằm
ngoài xu thế chung đó.
Bốn là, đề giải quyết mối quan hệ số và chất lợng lao động theo
vùng, miền, theo ngành nghề trong lao động khi nguồn lực của Việt Nam
còn hạn hẹp, cần dựa trên sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống giáo
dục-đào tạo trên cơ sở nghiên cứu, tìm tòi những giải phóng nhằm phát huy
sức mạnh của toàn bộ hệ thống. Một hệ thống giáo dục -đào tạo mở, với các
chơng trình liên thông mềm dẻo có thể giúp cho việc tận dụng u thế của
mỗi cơ sở đào tạo, phát huy sức mạnh tổng hợp của các cơ sở này. Một hệ
thống mở nh vậy với những thể chế thích hợp có thể tạo ra hóng đi giúp cho
việc thực hiện giáo dục- đào tạo tại bất kỳ thời điểm nào trong cuộc đời, tạo
nhiều cơ hội cho ngời học thuộc dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùn xa làm
tăng tính công bằng xã hội.
Để thực hiện đào tạo liên thông, cần đa dạng hoá cơ cấu hệ thống

trình độ và hình thức đào tạo. Điều đó đòì hỏi những ngời thiết kế các chơng trình đào tạo phải tạo ra những điều kiện cần thiết nhằm hình thành sự
liên thông các trình độ đào tạo, giữa các hình thức đào tạo và giữa các trờng
lớp đào tạo. Điều đó phảI bố trí hợp lý các co sở đào tạo thành một mạng lới tối u có phân cấp phân quyền tự chủ và tự chịu tránh nhiệm trong đào
tạo. Mặt khác để cho sự liên thông trong đào tạo có hiệu quả, cần phảI
thống nhất về nguyên tắc, nội dung đào tạo, thiết lập các tiêu chuẩn chung
trong việc đánh giá chất lợng đào tạo, tạo ra sự thống nhất chung trong việc
25


×