Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

Quá trình xây dựng nông thôn mới ở nghệ an từ năm 2008 đến năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.45 MB, 124 trang )

cccccccccccccccccc

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
………..………..

PHAN ĐẠI NGHĨA

QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI Ở NGHỆ AN
TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ


NGHỆ AN - 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
………..………..

PHAN ĐẠI NGHĨA

QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI Ở NGHỆ AN
TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2015
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.03.13
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học
PGS. TS. TRẦN VĂN THỨC




NGHỆ AN - 2015


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện Đề tài, chúng tôi đã nhận được sự qu an tâm
giúp đỡ rất nhiệt tình, có hiệu quả của Trường Đại học Vinh, Tỉnh ủy, Ủy
ban nhân dân tỉnh, các ban, sở, ngành cấp tỉnh và các huyện, thành, thị ủy.

Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu, các nhà giáo, nhà
khoa học trong Hội đồng khoa học và Đào tạo khoa Lịch sử, Phòng Đào tạo
sau Đại học, Trường Đại học Vinh, đã luôn quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn. Đặc biệt,
xin trân trọng bày tỏ biết ơn sâu sắc đến PGS, TS Trần Văn Thức, người thầy
đã trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành bài luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn Tỉnh ủy Nghệ An, Ủy ban nhân dân tỉnh, các
ban xây dựng Đảng của Tỉnh ủy, các sở, ban, ngành cấp tỉnh và các huyện,
thành, thị ủy, đặc biệt là Văn phòng Điều phối chương trình xây dựng nông
thôn mới của tỉnh đã giúp đỡ, cộng tác cùng chúng tôi để Đề tài được thực
hiện kịp tiến độ theo kế hoạch.

Xin trân trọng cảm ơn!
Nghệ An, ngày 10 tháng 10 năm 2015
Tác giả luận văn

Phan Đại Nghĩa



MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NTM:

Nông thôn mới

NQ/TW:

Nghị quyết Trung ương

CT/TW:

Chỉ thị Trung ương

QĐ/TTg:

Quyết định Thủ tướng

CP:

Chính phủ

NQ/CP:

Nghị quyết Chính phủ

CNH-HĐH:

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa


BCH:

Ban Chấp hành

HTX:

Hợp tác xã

UBND:

Uỷ ban nhân dân

HĐND:

Hội đồng nhân dân

MTTQ:

Mặt trận Tổ quốc

KHCN:

Khoa học công nghệ

BCĐ:

Ban Chỉ đạo

PTTH:


Phát thanh truyền hình

BQL:

Ban quản lý

GTNT:

Giao thông nông thôn

GTSX:

Giá trị sản xuất

PTNT:

Phát triển nông thôn

KHKT:

Khoa học kỹ thuật

MTQG:

Mục tiêu Quốc gia


XDCB:


Xây dựng cơ bản

ANTT:

An ninh trật tự

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Nông thôn là nơi sinh sống của một bộ phận dân cư chủ yếu sống làm
việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Nước ta hiện nay vẫn là một nước nông
nghiệp với hơn 70% dân cư đang sống ở nông thôn. Phát triển nông nghiệp
nông thôn đã, đang và sẽ còn là mối quan tâm hàng đầu, có vai trò quyết định
đối với việc ổn định kinh tế, xã hội đất nước. Nghị quyết Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định mục tiêu xây dựng nông thôn mới là:
“Xây dựng nông thôn mới ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn
minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội phát triển ngày càng hiện đại” [24, tr 67].
Xây dựng và phát triển nông thôn là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm, xuyên suốt mà Đảng và Nhà nước ta đã xác định trong mọi thời kỳ. Điều
này càng được thể hiện rõ nét hơn trong 10 năm gần đây thông qua một loạt
các chương trình triển khai xây dựng nông thôn mới trên phạm vi cả nước.
Năm 2001, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Ban

Kinh tế Trung ương Đảng (trước đây là thuộc Văn phòng Trung
ương Đảng) phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn đã triển khai Chương trình xây dựng mô hình “phát triển
nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hợp tác
hoá, dân chủ hoá” tại 218 xã điểm. Đến năm 2007, Bộ Nông



nghiệp và Phát triển nông thôn tiếp tục triển khai thí điểm Đề án
xây dựng Nông thôn mới cấp thôn, bản theo phương pháp tiếp
cận dựa vào nội lực và do cộng đồng làm chủ; đề án thí điểm này
được triển khai ở 17 thôn thuộc 14 tỉnh đại diện cho các vùng
kinh tế văn hoá khác nhau, với nội dung thực hiện gồm: Đào tạo
nâng cao năng lực phát triển cộng đồng; nâng cấp điều kiện sống
cho người dân nông thôn; hỗ trợ người dân phát triển sản xuất
hàng hoá nông nghiệp, dịch vụ nông thôn để nâng cao thu nhập
và phát triển mỗi làng một nghề. Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân khác nhau, trong đó có các nguyên nhân chính là: nhận
thức, cách làm chưa thống nhất, thiếu đồng bộ trong việc triển
khai thực hiện; thiếu nguồn lực, chưa có cơ chế đặc thù, và đặc
biệt là chưa xây dựng được tiêu chí cụ thể trong xây dựng nông
thôn để xác định mục tiêu, kế hoạch phát triển ngắn, dài hạn, nên
các chương trình nêu trên đều gặp nhiều khó khăn, không đi vào
cuộc sống.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 7 (khoá X) đã ban hành Nghị
quyết số 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, một lần nữa nhấn
mạnh và thể hiện sự quyết tâm xây dựng nông thôn mới, với mục tiêu phấn
đấu đến 2015 có 20% số xã và 2020 có 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới.
Để triển khai thực hiện tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW, Ban Bí

thư Trung ương Đảng đã có Thông báo kết luận số 238-TB/TW về
triển hai thực hiện Đề án “xây dựng thí điểm mô hình nông thôn


mới trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, nhàm
mục tiêu xây dựng cho được các mô hình thí điểm để rút ra kinh nghiệm
trước khi nhân ra diện rộng, nhàm khắc phục những bất cập, hạn chế của
các chương trình phát triển nông thôn đã chỉ đạo những năm qua, đồng

thời nhanh chóng giải quyết những vấn đề bức xúc ở nông thôn đang đặt
ra. Với việc thành lập Ban chỉ đạo xây dựng thí điểm mô hình nông thôn
mới và lựa chọn 11 xã điểm đại diện ở các vùng miền trong cả nước để
xây dựng thí điểm mô hình nông thôn mới.
Từ kết quả nghiên cứu của Chương trình thí điểm, Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 491-QĐ/TTg về Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới với
5 nội dung, 19 tiêu chí cụ thể để định hướng về nội dung xây dựng nông thôn
mới; đồng thời, cũng từ mô hình thí điểm của Ban Bí thư, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Quyết định s ố 800/QĐ-TTg về việc phê duyệt

Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai
đoạn 2010 - 2020. Đây là bước phát triển có cơ sở khoa học và
thực tiễn của việc xây dựng nông thôn trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Các nội dung xây dựng nông thôn mới đang
được các bộ ngành, địa phương triển khai tích cực. Tuy nhiên,
thực tế cho thấy ở mỗi vùng nông thôn đều mang những sắc thái,
đặc thù riêng; từ đó, việc triển khai xây dựng nông thôn mới ở
các vùng này luôn có sự khác nhau nhàm phù hợp với đặc điểm
tự nhiên, kinh tế, xã hội mà mỗi địa phương cần biết để có những
cách vận dụng sáng tạo, linh hoạt và hiệu quả trong chỉ đạo.


Nghệ An bước vào thực hiện trong điều kiện hết sức khó khăn: diện
tích lớn, miền núi nhiều, địa hình phức tạp, theo kết quả điều tra hiện trạng
nông thôn (năm 2010), cho thấy điểm xuất phát xây dựng nông thôn mới của
Nghệ An là rất thấp: Toàn tỉnh chỉ có 01 xã đạt 12 tiêu chí (xã Nghi Liên,
thành phố Vinh), 20 xã đạt từ 9-11 tiêu chí, 126 xã đạt từ 5-8 tiêu chí, 238 xã
đạt từ 1-4 tiêu chí, đặc biệt có 50 xã không đạt tiêu chí nào.… Song với quyết
tâm chính trị cao của Cấp uỷ chính quyền các cấp, sự vào cuộc của cả hệ
thống chính trị, sự nỗ lực, đồng thuận của người dân, đặc biệt từ khi có chủ

trương hỗ trợ xi măng làm đường giao thông nông thôn và tăng cường sự lãnh
đạo, chỉ đạo của cấp uỷ chính quyền các cấp. Xây dựng nông thôn mới trên
địa bàn toàn tỉnh đã có nhiều chuyển biến tích cực, bộ mặt nông thôn ngày
càng khởi sắc. Từ tỉnh đến cơ sở đã thành lập Ban chỉ đạo, xây dựng Nghị
quyết của cấp ủy, lập đề án xây dựng nông thôn mới của địa phương, xác định
mục tiêu, yêu cầu, nội dung, tiến độ xây dựng nông thôn mới, bám sát 19 tiêu
chí của Chính phủ đề ra. Đồng thời tuyên truyền vận động nhân dân tích cực
tham gia xây dựng nông thôn mới, khảo sát đánh giá thực trạng, lập đề án, tập
trung vào việc quy hoạch các vùng sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn,
hiệu quả cao theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Thực hiện đường lối của Đảng, trong thời gian qua, phong trào xây
dựng nông thôn mới đã diễn ra sôi nổi ở khắp các địa phương trên cả nước,
thu hút sự tham gia của cả cộng đồng, phát huy được sức mạnh của toàn xã
hội. Quá trình xây dựng nông thôn mới đã đạt được thành tựu khá toàn diện.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội cơ bản đảm bảo, tạo sự thuận lợi trong giao
lưu buôn bán và phát triển sản xuât; kinh tế nông thôn chuyển dịch theo
hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề, đã xuất hiện nhiều mô hình
kinh tế có hiệu quả gắn với xây dựng nông thôn mới, nâng cao thu nhập và đời
sống vật chất tinh thần cho người dân; hệ thống chính trị ở nông thôn được
củng cố và tăng cường; dân chủ cơ sở được phát huy; an ninh chính trị, trật tự


an toàn xã hội được giữ vững; vị thế của giai cấp nông dân ngày càng được
nâng cao. Những thành tựu đó đã góp phần thay đổi toàn diện bộ mặt nông
thôn, tạo cơ sở vững chắc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân.
Tuy nhiên, quá trình xây dựng nông thôn mới còn bộc lộ nhiều khó
khăn hạn chế, nhất là về công tác quy hoạch. Quy hoạch nông thôn mới là
một vấn đề mới, liên quan đến nhiều lĩnh vực và phải mang tính chiến lược
phát triển kinh tế, xã hội. Đội ngũ cán bộ còn nhiều hạn chế về năng lực, nên

trong quá trình triển khai còn nhiều lúng túng. Bên cạnh đó chúng ta còn gặp
khó khăn về huy động nguồn vốn cho xây dựng nông thôn mới. Đời sống của
người dân nông thôn còn nhiều khó khăn. Mặt khác, trong nhận thức nhiều
người còn cho rằng xây dựng nông thôn mới là dự án do nhà nước đầu tư xây
dựng nên còn có tâm lý trông chờ, ỷ lại. Chính vì vậy trong thời gian tới bên
cạnh việc đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, chúng ta cần phải đẩy
mạnh công tác giáo dục tuyên truyền chủ trương đường lối của Đảng, để mọi
người dân đều nhận thức rằng: "Xây dựng nông thôn mới là công việc thường
xuyên của mỗi người, mỗi nhà, mỗi thôn xóm và từng địa phương; tất cả cùng
chung sức dưới sự lãnh đạo của Đảng..." nhằm thực hiện thành công xây
dựng nông thôn mới.
Thực tiễn cũng cho thấy, những xã hội tiến bộ bao giờ cũng chú ý tới
việc thu hẹp khoảng cách sự phát triển giữa thành thị và nông thôn, phát triển
lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và quan hệ xã hội, cải thiện điều kiện
sinh hoạt ở nông thôn, làm cho thành thị và nông thôn xích lại gần nhau.
Chính vì vậy, bên cạnh phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn quá trình xây dựng nông thôn mới, chúng ta cần học tập kinh
nghiệm của các nước trên thế giới và trong khu vực về phát triển nông thôn
tiên tiến hiện đại, để xây dựng hoàn thiện hệ thống các quan điểm lý luận về
phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn làm cơ sở khoa học cho thực


tiễn. Xây dựng nông thôn nước ta trở nên văn minh, tiên tiến hiện đại nhưng
vẫn mang đậm bản sắc văn hóa và nét đẹp truyền thống của nông thôn Việt
Nam.
Với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình trong quá trình
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và công tác xây

dựng Đảng của tỉnh Nghệ An ngày càng vững mạnh, tôi chọn đề
tài: "Quá trình xây dựng nông thôn mới ở Nghệ An từ năm 2008 đến

năm 2015" làm Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới là một vấn
đề hoàn toàn mới, được Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) ban hành
nghị quyết tại Hội nghị lần thứ 7 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và đã
được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học tuy nhiên vẫn còn ít công trình
nghiên cứu được xuất bản. Có thể khái quát một số công trình như sau:
- Trên thế giới, trước hết phải kể đến công trình khoa học: “Chính sách
nông nghiệp trong các nước đang phát triển” của tác giả Frans Ellits do Nhà
xuất bản Nông nghiệp xuất bản năm 1994. Trong tác phẩm này, tác giả đã nêu
lên những vấn đề cơ bản của chính sách nông nghiệp ở các nước đang phát
triển thông qua việc nghiên cứu lý thuyết và khảo cứu thực tiễn ở nhiều nước
châu Á, châu Phi và châu Mỹ la tinh. Cuốn sách đã đề cập những vấn đề
chính sách phát triển vùng, chính sách hỗ trợ đầu vào, đầu ra cho sản xuất
nông nghiệp, chính sách thương mại nông sản, những vấn đề phát sinh trong
quá trình đô thị hoá. Điều đặc biệt cần lưu ý là công trình này đã xem xét nền
nông nghiệp của các nước đang phát triển trong quá trình chuyển sang sản
xuất hàng hoá gắn liền với thương mại nông sản trên thế giới, đồng thời cũng
nêu lên những mô hình thành công và thất bại trong việc phát triển nông
nghiệp, nông thôn và giải quyết vấn đề nông dân.


Công trình khoa học: “Một số vấn đề về nông nghiệp, nông dân ở các
nước và Việt Nam” của các tác giả Benedict J.tria kerrkvliet, Jamesscott,
Nguyễn Ngọc và Đỗ Đức Định sưu tầm và giới thiệu, Nhà xuất bản Hà Nội xuất
bản năm 2000. Các tác giả đã nghiên cứu về vai trò, đặc điểm của nông dân,
thiết chế nông thôn ở một số nước trên thế giới và những kết quả bước đầu trong
nghiên cứu làng nghề truyền thống ở Việt Nam. Công trình này có giá trị tham
khảo cho việc giải quyết những vấn đề của chính sách phát triển nông thôn nước
ta hiện nay như tương lai của các trang trại, nông dân với khoa học.

- Nhóm những công trình nghiên cứu trong nước về nông nghiệp, nông
thôn nói chung.
Đề tài khoa học cấp nhà nước do GS.TS Hoàng Chí Bảo (chủ nhiệm đề
tài): Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay, đề tài khoa học
cấp nhà nước, Hà Nội, 1992.
Công trình nghiên cứu: Chính sách nông nghiệp, nông thôn sau Nghị
quyết X của Bộ chính trị do PGS.TSKH Lê Đình Thắng chủ biên, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia ấn hành năm 1998 đã đề cập nhiều nội dung quan
trọng liên quan đến quá trình phát triển nông nghiệp của Việt Nam dưới sự tác
động của hệ thống chính sách, đi sâu phân tích một số chính sách cụ thể như
chính sách đất đai, chính sách phân phối trong phát triển nông nghiệp, nông
thôn Việt Nam.
Vũ Oanh: Nông nghiệp và nông thôn trên con đường công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và hợp tác hoá, dân chủ hoá, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1998.
Phan Đại Doãn, Nguyễn Quang Ngọc: Quản lý xã hội nông thôn
nước ta hiện nay - Một số vấn đề và giải pháp, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội 2001.
Những nghiên cứu chuyên sâu về chính sách phát triển kinh tế xã hội
nói chung và chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng được rất


nhiều người quan tâm. Công trình nghiên cứu: Nông nghiệp, nông thôn Việt
Nam thời kỳ đổi mới của PGS.TS. Nguyễn Sinh Cúc, Nhà xuất bản Thống kê,
năm 2003. Công trình này nghiên cứu về quá trình đổi mới nông nghiệp Việt
Nam sau gần 20 năm. Công trình còn cung cấp hệ thống tư liệu về phát triển
nông nghiệp, nông thôn nước ta như một niên giám thu nhỏ. Tác giả này đã
luận giả rõ quá trình đổi mới, hoàn thiện chính sách nông nghiệp, nông thôn
nước ta trong những năm đổi mới, những thành tựu và những vấn đề đặt ra
trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Những gợi mở

về những vấn đề cần giải quyết của phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta
được tác giả lý giải với nhiều luận cứ có tính thuyết phục.
- Nhóm công trình nghiên cứu của tỉnh Nghệ An về nông nghiệp, nông
thôn, như: Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nghệ An (1999), Lịch sử Đảng bộ
Nghệ An, Tập II, 1954-1975, Nxb Nghệ An. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh
Nghệ An (2008), Lịch sử Đảng bộ Nghệ An, Tập III, 1975-2005, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nghệ An (2005), Văn
kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI (2005-2010), Nxb Nghệ
An. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nghệ An (2010), Văn kiện Đại hội
đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII (2010-2015), Nxb Nghệ An. Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh Nghệ An (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
lần thứ XVII (2010-2015), Nxb Nghệ An. Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An
(8/2012), Kỷ yếu hội thảo khoa học xây dựng Nông thôn mới ở Nghệ An Thực trạng và giải pháp. Trường Chính trị tỉnh Nghệ An, Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, Văn phòng Điều phối Chương trình MTQG Xây dựng
NTM Nghệ An (2014), Kỷ yếu Hội thảo vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ
sở Nghệ An trong việc tổ chức, vận động nhân dân xây dựng nông thôn mới.
- Nhóm các luận văn thạc sĩ tại Trường Đại học Vinh nghiên cứu về
nông nghiệp, nông thôn, như: Trần Văn Tám: Nâng cao hiệu quả thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện


Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp (Qua khảo sát ở xã Bình Thạnh, huyện Cao Lãnh,
tỉnh Đồng Tháp), Trường Đại học Vinh, năm 2012. Phạm Đình Hoàng: Vai
trò của người dân trong việc tham gia xây dựng mô hình nông thôn mới tại xã
Ích Hậu - huyện Lộc Hà - tỉnh Hà Tĩnh, Trường Đại học Vinh, năm 2012.
Nguyễn Thị Mai: Thực trạng và một số giải pháp về xây dựng nông thôn mới
ở huyện Yên Thành tỉnh Nghệ An, Trường Đại học Vinh, năm 2012. Trương
Vĩnh Từ: Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong xây dựng nông thôn mới
trên địa bàn huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, Trường Đại học Vinh, năm
2014. Hoàng Thị Thu Hoài: Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

trong xây dựng nông thôn mới, Trường Đại học Vinh, năm 2014.
Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu khoa học được đăng tải trên
các Tạp chí xây dựng Đảng; Tạp chí Lịch sử Đảng; các Báo, Đài Trung ương
và địa phương...
Qua các công trình công bố có thể thấy mảng đề tài về Chương trình
mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới đã thu hút được sự quan tâm,
nghiên cứu của nhiều tác giả, của nhiều công trình nghiên cứu.
Trong các công trình đó đã phản ánh ở mức độ khác nhau về sự lãnh
đạo của Đảng đối với Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn
mới nói chung và quá trình quán triệt, tổ chức chỉ đạo thực hiện của các Đảng
bộ, chi bộ trong thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông
thôn mới ở Nghệ An nói riêng. Hầu hết các công trình, tác phẩm đã phác họa
rõ bối cảnh, tình hình mới đòi hỏi thực hiện mạnh hơn nữa việc xây dựng
nông thôn mới, nêu lên những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
về Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới trong sự phát
triển kinh tế, xã hội tỉnh và cả nước nói chung; quán triệt quan điểm của
Đảng, Nhà nước tại Đảng bộ các địa phương, trong đó Đảng bộ tỉnh Nghệ An
đã tổ chức chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng
nông thôn mới, góp phần thay đổi diện mạo các địa phương.


Có thể nói, thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng
nông thôn mới của tỉnh Nghệ An chưa có công trình nào nghiên cứu một cách
đầy đủ, có hệ thống. Sự chỉ đạo cụ thể của tỉnh Nghệ An đối với thực hiện
Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới? Các địa phương
triển khai, tổ chức thực hiện như thế nào, có những đặc điểm gì? Sự sáng tạo
của tỉnh Nghệ An trong quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện Chương trình mục
tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới để góp phần phát triển nhanh, bền
vững kinh tế, xã hội của tỉnh? Những kinh nghiệm về lãnh đạo thực hiện
Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới... Những vấn đề

đó vẫn còn là những nội dung cần được tập trung nghiên cứu một cách thấu
đáo hơn. Cần phải khảo sát thực tế một cách cụ thể, để có được những đánh
giá khách quan có cơ sở khoa học về những mặt đạt được và chưa đạt được
trong quá trình lãnh đạo thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây
dựng nông thôn mới của tỉnh Nghệ An.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tập hợp các nguồn tư liệu, luận văn tập trung trình bày về
các yêu cầu cấp thiết cần phải xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Nghệ
An, từ đó trình bày những thành tựu, tồn tại hạn chế của công cuộc xây dựng
nông thôn mới trên địa bàn toàn tỉnh Nghệ An từ năm 2008 đến năm 2015.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để làm rõ sự quá trình xây dựng nông thôn mới ở Nghệ An từ năm
2008 đến năm 2015, luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề sau:
- Trình bày khái quát về cơ sở lý luận, thực tiễn để Đảng ta ban hành
nghị quyết xây dựng nông thôn mới.
- Luận văn đi sâu nghiên cứu quá trình quán triệt, vận dụng những chủ
trương, chính sách đó của tỉnh Nghệ An từ năm 2008 đến năm 2015.
- Tập trung trình bày những thành tựu, tồn tại, hạn chế trong quá trình


triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới
ở tỉnh Nghệ An.
- Đưa ra một số nhận xét, một số giải pháp và một số ý kiến đề xuất để
đẩy mạnh công cuộc xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Nghệ An
trước mắt và lâu dài.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Quá trình xây dựng nông thôn mới ở Nghệ An từ năm 2008 đến năm
2015.

4.2. Phạm vi nghiên cứu.
- Thời gian: Luận văn tập trung trình bày quá trình triển khai thực hiện
chương trình xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Nghệ An từ năm 2008 đến năm
2015.
- Không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu về những thành tựu, tồn tại,
hạn chế trong quá trình triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia
về xây dựng nông thôn mới ở trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
Tuy nhiên, để làm rõ những nhiệm vụ khoa học và thực tiễn đề tài đặt
ra, chúng tôi có dành một phần nội dung để trình bày về cơ sở lý luận và thực
tiễn để Đảng ta ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Hội
nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về "nông nghiệp,
nông dân và nông thôn".
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu.
5.1. Nguồn tài liệu. Để thực hiện luận văn này, tác giả sử dụng các
nguồn tư liệu chủ yếu là các văn kiện đại hội, Hội nghị Trung ương Đảng, các
chỉ thị, nghị quyết, báo cáo sơ, tổng kết, các phân tích đánh giá của Đảng và
Nhà nước; văn kiện đại hội, chỉ thị, nghị quyết, báo cáo của Đảng bộ tỉnh
Nghệ An trong từ năm 2008 đến năm 2015; các báo cáo sơ, tổng kết về
Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới của các huyện,


thành, thị; các bài viết liên quan về tỉnh Nghệ An và các tài liệu khảo sát
thực tế.

5.2. Phương pháp nghiên cứu. Với đề tài này, luận văn sử dụng 2
phương pháp chính là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Bên
cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp cụ thể như:
- Phương pháp thu thập, đánh giá, phân tích tài liệu.
- Phương pháp tham khảo ý kiến các chuyên gia.
- Phương pháp điều tra, khảo sát, thâm nhập thực tế.

6. Những đóng góp của luận văn.
- Luận văn đã trình bày khái quát về cơ sở lý luận, thực tiễn để Đảng ta
ban hành nghị quyết xây dựng nông thôn mới và quá trình quán triệt, vận
dụng những chủ trương, chính sách đó của tỉnh Nghệ An từ năm 2008 đến
năm 2015.
- Luận văn nêu nội dung, yêu cầu của việc xây dựng nông thôn mới,
từ đó phân tích chủ trương của tỉnh Nghệ An với việc thực hiện Chương
trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn từ năm
2008 đến năm 2015.

- Luận văn đã nêu rõ những thành tựu, tồn tại, hạn chế trong quá trình
triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới
ở tỉnh Nghệ An.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn là cơ sở khoa học để tỉnh Nghệ An
có những điều chỉnh, bổ sung về chủ trương, giải pháp thực hiện hiệu quả hơn
Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới ở địa phương.
7. Bố cục của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo nội dung
chính của luận văn gồm có 3 chương:


Chương 1: Xây dựng nông thôn mới ở Nghệ An - Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn.
Chương 2: Quá trình xây dựng nông thôn mới ở Nghệ An từ năm 2008
đến năm 2015 - thành tựu và hạn chế.
Chương 3: Một số nhận xét, giải pháp nhằm đẩy mạnh quá trình xây
dựng Nông thôn mới ở Nghệ An.

NỘI DUNG
Chương 1

XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở NGHỆ AN
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận của xây dựng nông thôn mới
1.1.1. Khái niệm về nông thôn, nông thôn mới
- Nông thôn. Theo quan điểm trước kia, khái niệm nông thôn

thường được gắn với làng, xóm, thôn..., là môi trường kinh tế sản
xuất gắn với nghề lúa nước cổ truyền, không gian sinh tồn, không
gian xã hội, cảnh quan văn hoá xây đắp nên nền tảng tinh thần, tạo
thành lối sống, cốt cách và bản lĩnh của người Việt chúng ta. Gần
đây, một số nhà nghiên cứu cho rằng nông thôn là vùng khác với
vùng thành thị ở chỗ tại đây có một cộng đồng chủ yếu là nông dân
sống và làm việc có mật độ dân cư thấp, có cơ sở hạ tầng kém phát
triển... hay vùng nông thôn là khu vực địa giới hành chính không


bao gồm địa bàn của phường, quận thuộc thị xã, thành phố.
Theo khái niệm mới nhất được viết trong Tài liệu tập huấn xây dựng
nông thôn mới của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn: "nông thôn là
phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị, thị trấn được quản lý bởi cấp
hành chính cơ sở là Uỷ ban nhân dân xã”.
- Nông thôn mới. Đã có nhiều diễn giải và phân tích về khái niệm thế

nào là nông thôn mới, theo đó khái niệm nông thôn mới trước tiên phải là
nông thôn chứ không phải là thị tứ,

là nông thôn mới chứ không phải nông

thôn truyền thống. Nếu so sánh giữa nông thôn mới và nông thôn truyền
thống, thì nông thôn mới phải bao hàm cơ cấu và chức năng mới. Sự

nhìn nhận chung của các nhà nghiên cứu về mô hình nông thôn mới là
những kiểu mẫu cộng đồng theo tiêu chí mới, tiếp thu những thành tựu
khoa học - kỹ thuật hiện đại, song vẫn giữ được những nét đặc trưng cơ
bản của nông thôn. Mô hình nông thôn mới được quy định bởi các tính
chất: đáp ứng yêu cầu phát triển; có sự đổi mới về tổ chức, vận hành và
cảnh quan môi trường; đạt hiệu quả cao nhất trên tất cả các mặt kinh
tế, chính trị, văn hoá, xã hội; tiến bộ hơn so với mô hình truyền thống;
chứa đựng các đặc điểm chung, có thể phổ biến và vận dụng trên phạm
vi quốc gia.
Như vậy, có thể hiểu rằng nông thôn mới là tổng thể những đặc

điểm, cấu trúc tạo thành một kiểu tổ chức nông thôn theo tiêu chí
mới, đáp ứng yêu cầu mới đặt ra cho nông thôn trong điều kiện
mới, là kiểu nông thôn được xây dựng với các tiêu chí so với mô
hình nông thôn cũ (truyền thống) ở tí nh tiên tiến về mọi mặt. Xây
dựng nông thôn mới là việc giải quyết các vấn đề nông nghiệp, nông


thôn, nông dân trong một bối cảnh xã hội, kinh tế, chính trị, văn hóa đặc
thù, là quá trình xây dựng các hình thái làng xã khác nhau trong những
thời điểm lịch sử khác nhau và tại các khu vực khác nhau, mang đặc tính
thời đại và ý nghĩa thực tế riêng. Hay nói cách khác, xây dựng nông thôn
mới là một công trình tổng hợp liên quan đến mọi mặt hoạt động thuộc
lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân, với nội dung đa dạng
phức tạp, là quá trình áp dụng các cơ chế, chính sách, các quy định do
chính phủ ban hành để huy động, tập trung các nguồn lực, các thành
phần kinh tế tham gia đầu tư, xây dựng một nông thôn theo những tiêu
chí mới đặt ra phù hợp với yêu cầu, tính chất của thời đại.
Một vấn đề cần lưu ý, bộ tiêu chí nông thôn mới có thể thay đổi, nhưng
việc xây dựng nông thôn mới qua các giai đoạn luôn phải giữ được các chức

năng cơ bản của nông thôn. Đây vừa là tiêu chí để phân biệt nông thôn với
thành thị, vừa là mục tiêu, định hướng để chúng ta hướng đến một nông thôn
mới phát triển bền vững. Các chức năng cơ bản của một nông thôn mới cần
có là:
+ Chức năng sản xuất nông nghiệp hiện đại . Khác với nông thôn

truyền thống, sản xuất nông nghiệp của nông thôn mới bao gồm cơ cẩu các ngành
nghề mới, các điều kiện sản xuất nông nghiệp hiện đại hoá, ứng dụng phổ biển khoa
học kỹ thuật tiên tiến và xây dựng các mô hình sản xuất nông nghiệp hiện đại.

Nông

thôn phục vụ thành thị, ngược lại thành thị hỗ trợ nông thôn. Xây dựng
nông thôn mới không có nghĩa là biến nông thôn trở thành thành thị,
triệt tiêu sản xuất nông nghiệp mà chỉ là làm cho nông thôn có cuộc
sống phát triển, giảm dần khoảng cách chênh lệch giàu nghèo so với
thành thị, duy trì và phát huy nền sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện
đại ở nông thôn.


+ Chức năng giữ gìn văn hóa truyền thống . Kho tàng văn hoá truyền

thống được cấu thành từ bởi rất nhiều thành phần quan trọng
khác nhau. Các thành phần này không chỉ đóng vai trò không thể
thay thế trong sự nghiệp hiện đại hoá và phát triển xã hội, mà còn
là một bộ phận cấu thành quan trọng trong kho tàng văn hoá của
toàn nhân loại. Nền văn hoá truyền thống mang đậm màu sắc
thôn quê này đã được sản sinh trong một hoàn cảnh đặc biệt. Các
phương thức sản xuất, sinh sống cũng như cơ cấu tổ chức mang
tính đặc thù của xã hội nông thôn chính là nhân tố quyết định

nền văn hoá mang đậm màu sắc dân tộc. Xã hội làng xã nông
thôn thường mang đặc tính quê hương, xã hội và người thân, đó
là những phong tục tập quán đã được hình thành từ lâu đời, ở đó
con người đối xử tin cậy lẫn nhau, quan hệ huyết thống là mối
quan hệ quan trọng nhất ở làng xã vùng nông thôn. Chính các tập
thể nông dân cùng huyết thống đã giúp họ khắc phục được
những nhược điểm của kinh tế tiểu nông, giúp bà con nông dân
chống chọi với thiên tai, rủi ro. Cũng chính văn hoá nông thôn đã
sản sinh ra những sản phẩm văn hoá tinh thần quý báu như lòng
kính già yêu trẻ, giúp nhau canh gác bảo vệ, giản dị tiết kiệm, thật
thà đáng tin, yêu quý quê hương.vv.., tất cả những yếu tố đó
được sản sinh trong hoàn cảnh xã hội nông thôn. Các truyền
thống văn hoá quý báu này đòi hỏi phải được giữ gìn và phát


triển trong một hoàn cảnh đặc thù. Do vậy, chỉ có nông thôn với đặc
điểm sản xuất nông nghiệp mới là môi trường thích hợp nhất để giữ gìn và kế tục văn
hoá đặc sắc truyền thống.

Ngoài ra, nông thôn cũng chính là nơi kế tục của

nền văn minh, các cảnh quan nông thôn với những đặc trưng riêng đã
hình thành nên màu sắc văn hoá làng xã đặc thù, thể hiện các tư tưởng
triết học như trời đất giao hoà, thuận theo tự nhiên với sự tôn trọng tự
nhiên, mưu cầu phát triển hài hoà cũng như chú trọng sự kế tục phát
triển của các dân tộc. Việc xây dựng nông thôn mới nếu như phá vỡ đi các cảnh
quan làng xã đã được hình thành trong lịch sử thì cũng chính là phá vỡ đi sự hài hoà
vốn có của nông thôn, làm mất đi bản sắc làng quê nông thôn,

và điều này có tác


động tiêu cực đến việc giữ gìn sinh thái cảnh quan nông thôn và cảnh
quan văn hoá truyền thống nông thôn.
+ Chức năng sinh thái, môi trường. Chức năng này chính là một

trong những tiêu chí quan trọng phân biệt giữa thành thị với
nông thôn. Trong nông thôn truyền thống, con người và tự nhiên
sinh sống hài hoà với nhau, chức năng con người tôn trọng tự
nhiên, bảo vệ tự nhiên và từ đó hình thành nên tập quán, thói
quen làm việc theo quy luật tự nhiên. Quá trình công nghiệp hoá
và đô thị hoá khiến con người ngày càng xa rời tự nhiên, dẫn đến
những ô nhiễm trong môi trường nước và không khí. Nếu so
sánh với hệ thống sinh thái đô thị, thì hệ thống sinh thái nông
thôn một mặt có thể đáp ứng nhu cầu cung cấp các sản phẩm
lương thực, hoa quả cho con người, mặt khác cũng đáp ứng được
các yêu cầu về môi trường tự nhiên. Thuộc tính sản xuất nông


nghiệp đã quyết định hệ thống sinh thái nông thôn mang chức
năng phục vụ hệ thống sinh thái. Đất đai canh tác trong nông
nghiệp, hệ thống thuỷ lợi, các khu rừng... có tác dụng sinh thái
như điều hoà khí hậu, giảm ô nhiễm tiếng ồn, cải thiện nguồn
nước...
Các cảnh quan tự nhiên tươi đẹp cùng với môi trường sinh thái có thể
đáp ứng được nhu cầu về tự nhiên của con người. Nông thôn có thể bù đắp
được những thiếu hụt sinh thái của thành thị. Môi trường tự nhiên yên tĩnh có
thể điều hoà cân bằng tâm lý con người. Môi trường sinh vật phong

phú khiến con người có thể cảm thụ được những điều tốt đẹp từ
cuộc sống. Đây cũng chính là lý do phải xây dựng nông thôn mới

với những đóng góp tích cực cho sinh thái. Chức năng sinh thái
chính là thước đo một khu vực nông thôn có thể coi là nông thôn
mới hay không.
1.1.2. Sự cần thiết phải xây dựng nông thôn mới
Nhìn chung, ở các nước đang phát triển, cư dân nông thôn là những
người chịu nhiều thiệt thòi về nhiều mặt, họ gặp nhiều khó khăn trong cuộc
sống. Sản xuất nông nghiệp hay công nghiệp, dịch vụ vùng nông nghiệp,
nông thôn thường là đem lại giá trị kinh tế thấp, dẫn đến thu nhập của người
nông dân vùng nông thôn thường thấp hơn so với vùng nội đồng và thành thị.
Điều kiện cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, đời sống dân sinh, xã hội thấp kém,
mức độ quan tâm hạn chế hơn thành thị. Các điều kiện về văn hoá, tinh thần,
các dịch vụ vui chơi giải trí còn thiếu và kém hơn rất nhiều so với thành thị.
Xuất phát từ những điều này, nông thôn đã trở thành đối tượng đặc biệt được
chính phủ của các quốc gia, các tổ chức khác nhau trên thế giới quan tâm.


Mục đích của công cuộc xây dựng nông thôn mới nhằm khắc phục
những khó khăn, cải thiện điều kiện sống, làm việc ở khu vực nông thôn, biến
khu vực nông thôn trở thành nơi có chất lượng cuộc sống ngày một tốt hơn,
hấp dẫn hơn để con người sinh sống, hưởng thụ và làm việc. Việc

xây dựng nông thôn mới đóng góp đáng kể vào sự phát triển
kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát
triển. Có thể nói, xây dựng nông thôn mới là chương trình phát
triển toàn diện, là chương trình được phát triển ở cấp quốc gia
hay từng địa bàn vùng nông thôn với các mục tiêu cụ thể. Đó
không chỉ đơn thuần là một dự án đầu tư xây dựng hạ tầng mà là
một chương trình phát triển tổng hợp, cả về phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân và xây
dựng hệ thống chính trị, bảo đảm quốc phòng an ninh, trật tự an

toàn xã hội trên địa bàn. Xây dựng nông thôn mới là một cuộc
vận động cách mạng rộng lớn, cần huy động sức mạnh của cả hệ
thống chính trị, nhà nước, nhân dân và các thành phần kinh tế
cùng tham gia.
Xây dựng nông thôn mới có ý nghĩa cả về mặt kinh tế, chính trị, xã hội,
môi trường và an ninh, quốc phòng. Nó không chỉ tạo dựng nên bộ mặt nông
thôn xanh, sạch, đẹp, cơ sở hạ tầng phát triển, cuộc sống của người dân ngày
càng sung túc hơn cả về vật chất, tinh thần, trẻ em được chă m lo, học hành

đầy đủ, người già được quan tâm, ốm đau được chữa trị..., mà
bên cạnh đó xét về chiều sâu đó là cả một xã hội nông thôn phát


triển, hệ thống chính trị ổn định, an ninh, quốc phòng được giữ
vững, những phong tục, tập quán, nét đẹp truyền thống được giữ
gìn; quan hệ con người với con người ngày càng tốt đẹp hơn,
khoảng cách giàu nghèo giữa người dân nông thôn với thành thị
được thu hẹp. Đây cũng chính là mục tiêu cơ bản mà chính phủ
của mỗi quốc gia hướng tới.
1.1.3. Chủ thể tham gia xây dựng nông thôn mới
Như phân tích ở trên, xây dựng nông thôn mới không chỉ là nhiệm vụ
của người dân sống ở nông thôn hay chính quyền địa phương, mà nó cần sự
tập trung, huy động của mọi nguồn lực và sự tham gia của cả cộng đồng, các
tổ chức, các thành phần kinh tế trong xã hội. Tuy nhiên, chúng ta cần phải xác
định rõ đâu là chủ thể chính trong công cuộc xây dựng nông thôn mới. Có ý
kiến cho ràng chủ thể xây dựng nông thôn mới phải là chính quyền, điều này
không đúng. Trên thực tế, người nông dân mới thực sự là chủ thể chính thực hiện
công cuộc xây dựng nông thôn mới.

Bởi vì, không phải là do nhà nước không


có đủ tiềm lực kinh tế để đóng vai trò chủ thể này, mà cho dù tiềm lực
kinh tế của nhà nước có mạnh đi chăng nữa thì cũng không thể thiếu sự
tham gia đóng góp tích cực của chính người nông dân, nhà nước không
làm thay được nông dân. Theo đó nông dân được tham gia ý kiến vào đề
án quy hoạch; được lựa chọn những công việc cần làm trước, làm sau để
thiết thực với yêu cầu của người dân và phù hợp với điều kiện của địa
phương; người dân tự quyết định mức đóng góp, cử đại diện tham gia
quản lý, giám sát các công trình xây dựng và tổ chức, vận hành bảo
dưỡng các công trình sau hoàn thành.
Bên cạnh đó, tham gia công cuộc xây dựng nông thôn mới không thể


×