Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

CHÍNH SÁCH HẠN MỨC TĂNG TRƯỞNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2007-2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.09 KB, 19 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
----------

BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài: “CHÍNH SÁCH HẠN MỨC TĂNG TRƯỞNG
TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 2007-2010 ”

Tp.Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2011


Chính sách hạn mức tăng trưởng tín dụngcủa NHNN Việt Nam giai đoạn 2007 2010

DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM

Họ và Tên
1. Ngô Thùy Duyên
2. Triệu Quốc Dương
3. Nguyễn Cao Huỳnh
4. Đinh Tuấn Kiệt
5. Nguyễn Hồng Loan
6. Huỳnh Tiến Lộc
7. Nguyễn Minh Nhựt
8. Nguyễn Trần Quyết
9. Trương Thị Phương Thảo
10. Lê Thị Trung Trinh
11. Phan Thanh Tòng
12. Đỗ Thị Kiều Vân


Mã số
KS9_TCC_9G_011
KS9_TCC_9G_012
KS9_TCC_9G_031
KS9_TCC_9G_033
KS9_TCC_9G_043
KS9_TCC_9G_044
KS9_TCC_9G_057
KS9_TCC_9G_064
KS9_TCC_9G_071
KS9_TCC_9G_090
KS9_TCC_9G_096
KS9_TCC_9G_100

2


Chính sách hạn mức tăng trưởng tín dụngcủa NHNN Việt Nam giai đoạn 2007 2010

I) Phần mở đầu:
1) Lí do chọn đề tài

Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2007 bắt nguồn từ khủng hoảng tài chính ở
Mỹ, là cuộc khủng hoảng bao gồm sự đổ vỡ hàng loạt của hệ thống ngân hàng, tình trạng
đói tín dụng, tình trạng sụt giá chứng khoán và mất giá tiền tệ quy mô lớn ở nhiều nước trên
thế giới. Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế đang trên đà hội nhập nên chịu ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, Việt Nam lại là một trong số ít
các nước vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong giai đoạn khủng hoảng 20072010. Để có được thành quả đó, không ai có thể phủ nhận vai trò của Nhà nước trong việc
đưa nền kinh tế Việt Nam vượt qua khó khăn và đứng vững trong cuộc khủng hoảng. Sự
quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế một cách phù hợp của Nhà nước là một trong những lý do

chính cho sự vực dậy nền kinh tế của nước ta. Có thể đạt được những thành tựu đã được cả
thế giới công nhận như vậy Nhà nước ta đã thực hiện hàng loạt các chính sách trong giai
đoạn này. Các chính sách được thực hiện thường xuyên và được điều chỉnh cho thích hợp
với tình hình kinh tế trong và ngoài nước theo từng giai đoạn phát triển. Trong đó hai chính
sách lớn nhất là chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa.
Chính sách hạn mức tăng trưởng tín dụng là một nội dung của chính sách tiền tệ mà
Nhà nước ta đã sử dụng để điều chỉnh mức cung tiền trong nền kinh tế. Giai đoạn này vấn
đề làm phát tăng cao là mối nguy hại lớn, biểu hiện là giai đoạn 2 năm 2007-2008 lạm phát
lên đến 12.68%. Việc kiểm soát tăng trưởng tín dụng là một trong những biện pháp nhằm
kiểm soát lạm phát hiệu quả, đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng, từ đó đảm bảo an
toàn cho cả nền kinh tế.
Trên tinh thần học tập và nghiên cứu về môn học Quản lý nhà nước về kinh tế, chúng
tôi tiến hành thực hiện bài tiểu luận: “ Chính sách hạn mức tăng trưởng tín dụng của Việt
Nam trong giai đoạn 2007-2010”. Nhóm thực hiện đề tài này nhằm gắn lý thuyết với thực
tiễn để có thể lý giải các hiện tượng kinh tế cũng như nắm vững, củng cố lại kiến thức đã
học. Qua đó cũng hiểu được lý do nền kinh tế được phục hồi, quá trình và cơ chế của sự
phục hồi đó từ lúc bắt đầu khủng hoảng đến năm 2010.
3


Chính sách hạn mức tăng trưởng tín dụngcủa NHNN Việt Nam giai đoạn 2007 2010
Không chủ động đi bao quát và chi tiết cả chính sách tiền tệ vì nội dung sẽ bị dàn trải,
thiếu cái nhìn và đánh giá đúng dẫn đến khó đi sâu phân tích rõ nội dung chính sách. Vì vậy
đề tài hướng đến nghiên cứu sâu một trong những công cụ thực hiện chính sách tiền tệ đó là
hạn mức tăng trưởng tín dụng. Đề tài thực hiện dựa trên những gì đã xảy ra để có thể phân
tích, nhận xét, đánh giá, từ đó hiểu một cách tường tận về một trong những công cụ chính
sách của Ngân hàng nhà nước.
2) Mục tiêu của đề tài

Thông qua việc phân tích chính sách hạn mức tăng trưởng tín dụng để làm rõ về quá

trình thực hiện, tác động của chính sách cũng như kết quả đạt được qua từng năm của giai
đoạn khủng hoảng.
Dựa trên những phân tích và đánh giá để xác định một cách chi tiết những hành động
của cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, làm rõ vai trò sự quản lý vĩ mô của nhà
nước đối với nền kinh tế.
Đưa ra được những nhận xét, đánh giá để làm cơ sở đề xuất các giải pháp, rút ra bài
học kinh nghiệm cho các trường hợp tương tự trong tương lai.
3) Câu hỏi nghiên cứu

Giai đoạn khủng hoảng kinh tế 2007-2010, nước ta đã vượt qua như thế nào?Cơ quan
quản lý Nhà nước về kinh tế đã thể hiện vai trò của mình như thế nào trong giai đoạn khủng
hoảng này?
Hạn mức tăng trưởng tín dụng là gì? Nó có tác dụng như thế nào? Tại sao lại xem đó
là một công cụ quan trọng và cần thiết? Quá trình tác động của chính sách này ra sao qua
từng năm trong giai đoạn đó? Kết quả đạt được những gì?
Có những đánh giá nào về chính sách? Có những hạn chế nào hay không? Có thể rút
ra được những gì?
II) Phần nội dung:
1) Cơ sở lý thuyết của đề tài – Lý giải các thuật ngữ
1.1)

Chính sách tiền tệ

Chính sách tiền tệ có thể được hiểu là tổng hòa những phương thức mà ngân hàng
trung ương thông qua các hoạt động của mình tác động đến khối lượng tiền trong lưu thông,
nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời
4


Chính sách hạn mức tăng trưởng tín dụngcủa NHNN Việt Nam giai đoạn 2007 2010

kỳ nhất định (Theo giáo trình Nhập môn tài chính-tiền tệ, PGS. TS. Sử Đình Thành-PGS.
TS. Vũ Thị Minh Hằng, NXB Lao động xã hội năm 2008).
1.2)

Tín dụng

Một cách tổng quát có thể hiểu: Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh sự chuyển
nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang cho người sử dụng trong một thời gian
nhất định và với một khoản chi phí nhất định (Theo giáo trình Nhập môn tài chính-tiền tệ).
1.3)

Quản lý nhà nước về tín dụng

a) Quản lý nhà nước

Quản lý nhà nước là sự chỉ huy, điều hành để thực thi quyền lực nhà nước, do tất cả
các cơ quan nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tiến hành để tổ chức và điều chỉnh các
quá trình xã hội và hành vi hoạt động của công dân (PGS. TS. Đặng Xuân Hải-Đào Phú
Quảng, Bài giảng Quản lý hành chính nhà nước, Khoa sư phạm Đại học quốc gia Hà Nội,
Hà Nội năm 2007, trang 16).
b) Quản lý nhà nước về tín dụng

Cách hiểu cơ bản về hoạt động quản lý nhà nước về tín dụng được đúc kết từ các kiến
thức đã học và các tài liệu tham khảo như sau : Quản lý nhà nước về tín dụng là sự tác động
của các cơ quan quản lý nhà nước thông qua các công cụ pháp luật và hệ thống các kế hoạch
đã vạch ra lên các hoạt động tín dụng nhằm đạt mục tiêu của nhà nước.
Quản lý Nhà nước về tín dụng là sự tác động, điều chỉnh của Nhà nước đối với toàn bộ
hoạt động vay – cho vay nhằm định hướng, thiết lập trật tự kỷ cương, hướng đến mục tiêu
tăng trưởng và ổn đinh nền kinh tế.
1.4)


Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (gọi tắt là Ngân hàng Nhà nước) là cơ quan ngang bộ
của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng
và ngoại hối (gọi tắt là tiền tệ và ngân hàng), thực hiện chức năng của Ngân hàng trung
ương về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho
Chính phủ (Theo Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2010).
1.5)

Hạn mức tăng trưởng tín dụng
5


Chính sách hạn mức tăng trưởng tín dụngcủa NHNN Việt Nam giai đoạn 2007 2010
a) Hạn mức tín dụng

Hạn mức tín dụng là một công cụ thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước,
nhằm hạn mức dư nợ tín dụng tối đa đến với nền kinh tế của tổ chức tín dụng. Hạn mức tín
dụng được giao căn cứ tổng hạn mức tín dụng của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế,
được Thống đốc phê duyệt cho các tổ chức tín dụng theo các chỉ tiêu: Hạn mức tín dụng của
ngân hàng nhà nước đối với các các tổ chức tín dụng thông qua hình thức tái cấp vốn; Hạn
mức tín dụng của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế.
Chỉ tiêu hạn mức tín dụng đối với nến kinh tế giao cho tổ chức tín dụng là chỉ tiêu
khống chế tối đa, tổ chức tín dụng không được phép vi phạm trong suốt quá trình thực hiện
(Theo Quy chế về mua bán hạn mức tín dụng giữa các tổ chức tín dụng).
b) Tăng trưởng tín dụng

Tăng trưởng tín dụng có thể hiểu là sự gia tăng của các khoản cho vay cho các doanh

nghiệp, tổ chức, cá nhân, hoặc tổ chức công cộng…trong một thời kỳ nhất định (Từ trang
web www.taichinhdautu.com).
c) Hạn mức tăng trưởng tín dụng

Hạn mức tăng trưởng tín dụng là việc dùng công cụ hạn mức tín dụng nhằm kiểm soát
tốc độ tăng trưởng tín dụng ở một giới hạn nhất định tùy vào từng thời kỳ và mục đích của
Nhà nước, và được thực hiện bởi ngân hàng nhà nước (quan điểm rút ra từ nhiều tài liệu).
III) Tình hình thực hiện chính sách hạn mức tăng trưởng tín dụng của Ngân hàng Nhà

nước Việt Nam giai đoạn 2007-2010:
Toàn cầu hoá bên cạnh việc mang lại những cơ hội lớn cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc
thì đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ trong đó có nguy cơ khủng hoảng toàn cầu. Lí
thuyết trên không loại trừ bất kì một quốc gia nào, kể cả Việt Nam. Nhìn lại cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu từ năm 2007 đã tác động đến hầu hết các nền kinh tế trên thế giới.
Và nếu Việt Nam không tiến hành hội nhập thì ở một giác độ nào đó tác động của cuộc
khủng hoảng tín dụng đến Việt Nam sẽ bị hạn chế rất nhiều. Toàn cầu hóa rõ ràng là một
con dao hai lưỡi: cơ hội và thách thức. Hoa Kỳ là điểm xuất phát và là trung tâm của cuộc
khủng hoảng, bong bóng tài chính và bất động sản cùng với giám sát tài chính thiếu hoàn
thiện ở Hoa Kỳ đã dẫn tới một cuộc khủng hoảng tài chính ở nước này từ năm 2007, bùng
phát mạnh từ cuối năm 2008. Khủng hoảng tài chính Mỹ bắt nguồn từ việc các ngân hàng
6


Chính sách hạn mức tăng trưởng tín dụngcủa NHNN Việt Nam giai đoạn 2007 2010
nước này quá dễ dãi, tùy tiện khi cho khách hàng vay tiền để mua bất động sản qua các hoạt
động cho vay không đạt tiêu chuẩn. Việc mua bán các loại chứng khoán phái sinh được đảm
bảo bằng những hợp đồng cho vay bất động sản có thế chấp này chính là nguyên nhân trực
tiếp dẫn tới khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Nếu như cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ nền kinh tế Mỹ ảnh hưởng ngay lập tức tới
các nền kinh tế hùng mạnh khác, thì cơn bão này đến Việt Nam chậm hơn một nhịp. Sức tàn

phá của cuộc khủng hoảng ở hầu hết các nước thể hiện đầu tiên và rõ nét nhất là hệ thống tài
chính, ngân hàng thì ở Việt Nam lại thể hiện trước hết là ở lĩnh vực xuất khẩu, nhập khẩu và
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Như vậy, trong giai đoạn tiền khủng hoảng (cuối năm 2007 đầu năm 2008), thị trường
Việt Nam nói chung và thị trường xuất nhập khẩu nói riêng không có biến động nhiều: xuất
khẩu hàng hoá tiếp tục phát triển, hầu hết các thị trường lớn đều tăng so với năm trước. Năm
2007 có 10 thị trường đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó Mỹ là 10 tỷ USD, tăng
gấp 10 lần so với 2001, tiếp đến là EU với 8,7 tỷ USD; ASEAN với 8 tỷ USD; Nhật Bản là
5,5 tỷ USD và Trung Quốc là 3,2 tỷ USD. Tăng trưởng kinh tế năm 2007 vượt mức là 8,5%.

7


Chính sách hạn mức tăng trưởng tín dụngcủa NHNN Việt Nam giai đoạn 2007 2010
Năm 2007, thị trường chứng khoán đang trên đà phát triển mạnh mẽ trở thành mảnh
đất màu mỡ cho các nhà đầu tư trong nước lẫn nước ngoài. Mặt khác, năm 2007 cũng là
năm mà các Ngân hàng thương mại dễ dàng huy động vốn và cho vay. Do đó, tăng trưởng
tín dụng năm 2007 tăng đáng kể so với năm 2006 cũng là điều tất yếu. Tuy nhiên, nguồn
vốn mà các tổ chức tín dụng cho nền kinh tế vay chủ yếu vào các lĩnh vực không tạo ra giá
trị gia tăng cho nền kinh tế như đầu tư chứng khoán, các dự án bất động sản, vàng và cho
vay tiêu dùng...; đồng thời tiềm ẩn nhiều rủi ro cho các tổ chức tín dụng này. Ngoài ra, các
Ngân hàng còn chủ động bơm tiền cho nền kinh tế nhằm đẩy mạnh tăng vốn điều lệ, mở
rộng mạng lưới của mình và tìm kiếm lợi nhuận.
Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, đến cuối tháng 12/2007, mức tăng trưởng tín
dụng ở Việt Nam đạt 51,39%, vượt xa so với chính sách hạn mức tăng trưởng tín dụng của
Ngân hàng Nhà nước đề ra cả năm là 18 - 22% . Tốc độ tăng trưởng cao đã dẫn đến hệ lụy
của nó: cung tiền trong lưu thông tiếp tục tăng, đẩy lạm phát lên cao. Mặt khác, khủng
hoảng tín dụng sẽ kéo theo khủng hoảng tài chính và khủng hoảng kinh tế. Để hạn chế
những tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính thế giới kéo dài tới năm sau, cuối năm
2007, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã đưa ra các giải pháp nhằm kiểm soát mức tăng

trưởng tín dụng, kiểm soát lạm phát theo chỉ thị số 18/2007/CT-NHNN ngày 1/8/2007.
Trong đó, các giải pháp chủ yếu được đưa ra là: kiềm chế việc mở rộng tín dụng của các
Ngân hàng Thương mại, tăng cường thanh tra giám sát và sửa đổi bổ sung cơ chế liên quan
đến hoạt động tín dụng. Mặt khác, việc tăng cường thanh tra, giám sát việc mở rộng quy mô
và chất lượng tín dụng theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước tại Chỉ thị số 03/2007/CTNHNN ngày 28/5/2007 bao gồm các vấn đề như: tập trung thanh tra, giám sát hoạt động của
các Ngân hàng Thương mại cổ phần, nhất là các Ngân hàng thương mại cổ phần có tỷ lệ dư
nợ tín dụng để đầu tư kinh doanh chứng khoán ở mức cao.
Tuy Việt Nam không chịu nhiều ảnh hưởng như các quốc gia có nền kinh tế phát triển
nhưng hậu quả để lại cũng không phải là con số nhỏ mà trước hết là hệ thống tài chính.
Bước qua năm 2008, đứng trước lạm phát cao do tăng trưởng tín dụng quá mức, Ngân hàng
Nhà Nước đã khống chế tăng trưởng tín dụng của ngân hàng ở mức không vượt quá 30%.
Vì vậy, ngay từ quý I năm 2008 Chính phủ đưa ra một loạt giải pháp để ngăn chặn, phòng
ngừa những hậu quả của “Cơn bão tài chính”. Ngân hàng trung ương dùng biện pháp hạn
8


Chính sách hạn mức tăng trưởng tín dụngcủa NHNN Việt Nam giai đoạn 2007 2010
chế tín dụng hà khắc để áp dụng cho các ngân hàng thương mại. Đến quý III năm 2008, các
biện pháp kiềm chế lạm phát của chính phủ cùng với tác động của khủng hoảng tài chính,
suy thoái kinh tế toàn cầu khiến giá nguyên liệu giảm dẫn đến làm giảm gánh nặng trợ cấp
giá nguyên liệu của ngân sách nhà nước.
Sau hàng loạt các điều chỉnh tăng về lãi suất, lạm phát đạt mức cao nhất 28,3% vào
tháng 8 và dần dần dịu bớt do đó chính phủ phải chuyển hướng tập trung vào các biện pháp
kích thích tăng trưởng do nền kinh tế có dấu hiệu chững lại. Theo Ngân hàng nhà nước Việt
Nam, tốc độ tăng trưởng tín dụng của Việt Nam trong năm 2008 là từ 21 - 22%, thấp hơn rất
nhiều so với giới hạn 30% do các chính sách kiềm chế cho vay nhằm ngăn chặn lạm phát
leo thang và thâm hụt thương mại ngày càng lớn. Những chính sách mà Ngân hàng nhà
nước đưa ra đã giúp nước ta cơ bản kiểm soát được tình trạng khủng hoảng, do độ trễ của
chính sách tăng trưởng tín dụng (là một phần trong chính sách tiền tệ) là khoảng 6 tháng nên
cuối năm 2008, đã để lại những tác động tốt cho nên kinh tế trong tương lai, cụ thể là năm

2009.
Để đưa nước ta dần vượt qua tình trạng khủng hoảng, mục tiêu và nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội năm 2009 là: điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt để chủ động kiểm soát
mức tăng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế, lãi suất và tỷ giá ở mức hợp lý, tăng khả năng
thanh khoản và an toàn thanh toán của hệ thống ngân hàng nhằm kiểm soát lạm phát, góp
phần tích cực để ngăn chặn đà suy giảm cũng như duy trì tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh
tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Theo đó trong năm 2009, Ngân hàng Nhà nước đặt ra mục
tiêu tăng trưởng tín dụng đạt 30%. Tính đến 6 tháng đầu năm 2009, tăng trưởng tín dụng đã
tăng 17,01% so với năm 2008. Theo văn bản số 193/TB-VCCP của Văn phòng Chính phủ
ngày 06/07/2009, trong buổi làm việc với Ngân hàng Nhà nước về việc điều hành Chính
sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm và giải pháp thực hiện chính sách tiền
tệ 6 tháng cuối năm vào ngày 26/06/2009, Thủ tướng đã yêu cầu giảm mục tiêu tăng trưởng
tín dụng từ 30% xuống khoảng 25% - 27%, điều hành tổng phương tiện thanh toán tăng
khoảng 25% nhằm phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế 5%, khống chế lạm phát ở mức
một con số trong năm 2009. Như vậy với mục tiêu mới, 6 tháng cuối năm tín dụng chỉ được
phép tăng trưởng thêm từ 8 – 10%.
9


Chính sách hạn mức tăng trưởng tín dụngcủa NHNN Việt Nam giai đoạn 2007 2010
Theo báo cáo tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng trong tháng 4/2009 của
Ngân hàng Nhà nước, nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế ước tăng tới 4,86% so với cuối
tháng trước và tăng 11,16% so với cuối năm 2008, thấp hơn so với mức tăng của cùng kỳ
năm 2008 (14,73%), cao hơn mức tăng 9,79% của cùng kỳ năm 2007.
Đáng chú ý là mức tăng trong tháng 4/2009 đã có sự đột biến so với những tỷ lệ rất
thấp trong 3 tháng trước đó. Theo các báo cáo định kỳ của Ngân hàng Nhà nước, so với
tháng liền trước, tháng 1 ước chỉ tăng 0,52%, tháng 2 ước tăng 0,23%; riêng tháng 3 đã gợi
mở sự chuyển biến khi có mức tăng ước khoảng 1,92%. Đây cũng là tín hiệu tốt đối với cầu
vốn của nền kinh tế, nhất là khi lãi suất cho vay nói chung, và cho vay doanh nghiệp thuộc
diện hỗ trợ kích cầu nói riêng, đang thuận lợi. Theo thống kê, GDP quý II năm 2009 tăng

4,46 %, mặc dù mới bằng 79% tốc độ tăng của cùng kỳ năm trước, nhưng vẫn tăng 1,4% so
với quý I năm 2009 đã cho thấy chúng ta cơ bản đã vượt qua giai đoạn khó khăn. Tính
chung 6 tháng đầu năm 2009, việc GDP của Việt Nam tăng 3,9% so với cùng kỳ năm trước
tuy thấp so với những năm gần đây, nhưng nếu xét trong bối cảnh thế giới suy thoái thì mức
tăng này cũng đã là khả quan.
Tuy nhiên, cũng theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, tốc độ tăng trưởng huy động
của hệ thống trong tháng 4 vẫn chưa có thay đổi lớn so với tháng trước đó, chỉ tăng 3,74%
so với tháng trước (tháng 3 tăng 3,4%; tháng 2 tăng 1,62%; tháng 1 tăng 0,18%, riêng huy
động bằng VND giảm 0,47%).
Nguy cơ lạm phát cao sẽ tái diễn khi các ngân hàng mở cửa tín dụng nhưng kiểm soát
thiếu chặt chẽ. Tổng Thư ký Hiệp hội ngân hàng Việt Nam Dương Thu Hương thừa nhận
nguy cơ lạm phát là tất yếu khi tín dụng tăng nhanh, nhất là khi Quốc hội cho phép bội chi
ngân sách 7% GDP. Nguy cơ lạm phát cao trở lại cũng được Tổng cục Thống kê thừa nhận
trong báo cáo 6 tháng đầu năm 2009. Theo đó, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2009 đã
tăng 2,68% so với tháng 12/2008 và tăng 10,27% so cùng kỳ 2008.
Không những vậy, tín dụng tăng trưởng cũng đồng nghĩa nguy cơ nợ xấu lớn theo, tính
đến tháng 6/2009 nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng khoảng 2,62%, tăng 0,45% so đầu
năm. Ngược lại với tín dụng VNĐ, dù các ngân hàng đang giảm dần lãi suất huy động lẫn
cho vay USD nhưng thị trường ngoại hối vẫn chưa cải thiện như mong đợi. Lãi suất cho vay
USD còn khá cao, trung và dài hạn từ 3,5% - 5%/năm (ở các ngân hàng thương mại Nhà
10


Chính sách hạn mức tăng trưởng tín dụngcủa NHNN Việt Nam giai đoạn 2007 2010
nước) và 4% - 6%/năm (ở các ngân hàng thương mại cổ phần). Vì vậy, dư nợ cho vay USD
đang tăng khá chậm do chênh lệch lãi suất vay giữa VNĐ và USD vẫn còn thấp, khoảng 3%
- 5%.
Như vậy, thị trường ngân hàng năm 2009 vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp và ảnh
hưởng trực tiếp đến lợi nhuận cũng như tăng trưởng quy mô của các ngân hàng. Năm 2009,
Ngân hàng nhà nước áp dụng chính sách tiền tệ mở rộng nhằm tích cực tăng trưởng mức tín

dụng.
Tuy mức tăng trưởng tín dụng của năm 2009 tăng khá cao (37,73%) so với hạn mức
tín dụng 30% của Ngân hàng Nhà nước đã đề ra nhưng tốc độ huy động vốn của các tổ chức
tín dụng còn thấp, gây khó khăn cho các tổ chức này trong việc cân đối. Có nhiều nguyên
nhân ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2009 vừa qua. Thứ nhất, tăng trưởng
tín dụng với tốc độ cao năm 2009 là do tác động của gói hỗ trợ lãi suất 4% của Chính phủ.
Chính sách hỗ trợ lãi suất vừa khuyến khích các doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng tiền đồng
vay tiền và các doanh nghiệp nhập khẩu vay tiền đồng để mua ngoại tệ vừa buộc các ngân
hàng thương mại phải cho doanh nghiệp đủ điều kiện vay vốn được tiếp cận với nguồn vốn
vay. Thứ hai, lãi suất cơ bản hạn từ mức 14% xuống 7% và được duy trì trong suốt năm
2009. Kết quả là cuối năm 2009, tín dụng tiền đồng tăng nhanh và vượt xa chỉ tiêu của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam.
Nhìn chung, tăng trưởng tín dụng của năm 2009 là dấu hiệu phục hồi cho nền kinh tế
quốc dân. Toàn hệ thống tín dụng đảm bảo hoạt động ổn định, hiệu quả, an toàn và duy trì
được khả năng thanh khoản. Tuy nhiên, khi tín dụng cho nền kinh tế tăng cao đã gây ảnh
hưởng đến mục tiêu kiềm chế lạm phát. Do đó, Ngân hàng Nhà nước đã tăng cường kiểm
soát mức tăng trưởng tín dụng trong các năm tiếp theo. Ngân hàng Nhà nước thực hiện việc
giảm bớt nới lỏng chính sách tiền tệ, theo đuổi mục tiêu tăng trưởng tín dụng ở mức 25%.
Việc kiểm soát mức tăng trưởng tín dụng trên đã làm cho tăng trưởng tín dụng đầu năm
2010 diễn biến chậm.
Trong giai đoạn 6 tháng đầu năm 2010, việc tăng trưởng tín dụng diễn biến chậm do
việc Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh việc giảm lãi suất huy động và hạn chế mức huy động
từ thị trường liên ngân hàng không được vượt quá 20% tổng số huy động từ các tổ chức cá
nhân. Ngoài ra, việc không khuyến khích cho vay bất động sản và vay tiêu dùng cũng như
11


Chính sách hạn mức tăng trưởng tín dụngcủa NHNN Việt Nam giai đoạn 2007 2010
khủng hoảng kinh tế thế giới vẫn còn tác động, lĩnh vực sản xuất chưa phục hồi làm các
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân không vay vốn từ ngân hàng nên trong thời gian này, tăng

trưởng tín dụng đạt 10,52%.
Tuy nhiên, do nền kinh kế mang tính chu kỳ ở nước ta, trong quý III các doanh nghiệp
sẽ tiến hành vay vốn để sản xuất kinh doanh phục vụ cho tiêu dùng nội địa tăng mạnh trong
quý IV,cộng với việc lãi suất huy động và lãi suất cho vay ở các Ngân hảng thương mại tăng
cao, các ngân hàng bắt đầu thống nhất hạ lãi suất huy động và cho vay từ tháng 7/2010, các
ngân hàng sẽ tiếp tục điều chỉnh giảm lãi suất để dần tiến tới mục tiêu lãi suất cho vay VNĐ
khoảng 12%/năm và lãi suất huy động VNĐ trong khoảng 10%/năm. Các ngân hàng thương
mại quy mô lớn sẽ giảm ngay lãi suất cho vay VNĐ đối với ba đối tượng khách hàng ưu tiên
là sản xuất nông nghiệp và nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa theo đúng mức
khoảng 12% - 12,5%/năm. Tăng trưởng tín dụng nước ta lấy lại đà phát triển vượt qua mục
tiêu và tăng vọt lên gần 30% gây những thách thức to lớn trong điều hành kinh tế vĩ mô và
chính sách tiền tệ năm 2011 đối với Ngân hàng Nhà nước. Tốc độ tăng trưởng tín dụng năm
2010 đã vượt mục tiêu 25% và tăng tới 27,65% so với năm 2009.


Đánh giá chính sách
Nhìn chung, từ năm 2007-2010, Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng những chính sách
khác nhau để hạn chế mức tăng trưởng tín dụng nhằm kiểm soát lạm phát cũng như ổn định
những mục tiêu kinh tế vĩ mô. Bên cạnh đó, những chính sách này còn có tác dụng tích cực
trong việc đưa nước ta thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng, duy trì được mức tăng trưởng
kinh tế. Việc tăng trưởng nóng của tín dụng ở nước ta qua các năm tuy có tác dụng tốt cho
nền kinh tế trong tương lai gần nhưng nó sẽ để lại những hậu quả không tốt cho nền kinh tế
trong tương lai do các Ngân hàng thương mại chưa quan tâm đến khả năng thanh khoản.
Ngoài ra, chính sách tuy đem lại những kết quả có thể xem là tích cực cho toàn nền
kinh tế nói chung nhưng cũng còn tồn tại nhiều hạn chế cần được xem xét và điều chỉnh
trong thời gian tới. Có thể kể đến một vài hạn chế như: Chính sách hạn mức tăng trưởng tín
dụng mang khuynh hướng cào bằng, chưa chú ý đến chi tiết cụ thể. Như hạn mức áp dụng
trong lĩnh vực bất động sản không phân loại đối với nhũng dự án nhà ở xã hội, nhà ở cho
người thu nhập thấp đã gây khó khăn nhiều cho khía cạnh này. Mức tăng trưởng tín dụng
không đồng đều ở các ngân hàng thương mại. Ngân hàng có vốn nhà nước chiếm vốn tín

12


Chính sách hạn mức tăng trưởng tín dụngcủa NHNN Việt Nam giai đoạn 2007 2010
dụng lớn thì tăng trưởng thấp, trong khi một số ngân hàng khác còn thừa vốn thì không thể
đẩy vốn ra ngoài do chính sách hạn mức không cho phép. Chính sách này cũng ảnh hưởng
đến các doanh nghiệp gây cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh. Thêm nữa là lạm phát vẫn
chưa được khống chế hiệu quả nhất. Từ những tồn tại hạn chế đặt ra yêu cầu sửa đổi cho
nhà quản lý, cần có nhiều hơn nữa những giải pháp hỗ trợ cho chính sách đạt hiệu quả hơn.
IV) Một số giải pháp kiến nghị:

Từ thực tế tăng trưởng tín dụng ở nước ta giai đoạn 2007 – 2010 cho thấy, mặc dù hạn
mức tăng trưởng tín dụng là một biện pháp hành chính có tác dụng mạnh nhưng cũng vì vậy
mà nó đã gây ra nhiều tác dụng phụ cho nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, chúng tôi đề ra
một số điều chỉnh đối với chính sách này theo hướng điều chỉnh hạn mức tăng trưởng tín
dụng linh hoạt hơn.
1. Điều chỉnh hạn mức tăng trưởng tín dụng theo quý thay vì theo năm

Chúng tôi đề ra biện pháp này trên cơ sở thống kê sự tăng trưởng CPI qua các năm
như sau:

Qua biểu đồ ta có thể thấy rằng CPI biến động khá rõ ràng qua các quý: quý I và quý
IV là quý có mức tăng trưởng CPI cao nhất, lí do là bởi tại Việt Nam đây là khoảng thời
gian Tết Âm lịch và Tết Dương lịch, do đó nhu cầu về hàng hóa dịch vụ tăng lên rất cao.
Trong khi đó, quý II và quý III lại ít có sự biến động lớn. chính vì nhu cầu hàng hóa dịch vụ
tăng cao kéo theo nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng tăng cao.
Nhu cầu về vốn trong giai đoạn này trở thành vấn đề bức xúc của các doanh nghiệp. Do đó,
Ngân hàng Nhà nước nên cho phép hạn mức tín dụng tăng cáo hơn vào quý I và quý IV và
có thể giảm bớt để bù lại vào quý II và quý III.
Nếu vẫn duy trì hạn mức tín dụng cho cả một năm có thể dẫn đến việc Ngân hàng sử

dụng hết “room” tín dụng trước giai đoạn cuối năm – là giai đoạn cần vốn lớn của các
doanh nghiệp. Và điều này sẽ gây ra sự “khát” vốn của nền kinh tế.
13


Chính sách hạn mức tăng trưởng tín dụngcủa NHNN Việt Nam giai đoạn 2007 2010
Việc sử dụng cách thức này cho phép Ngân hàng Nhà nước linh hoạt hơn trong việc
điều chỉnh hạn mức tăng trưởng tín dụng cho các ngân hàng thương mại. Điều này được
thấy rõ ở chỗ : giả sử nền kinh tế có nguy cơ lạm phát vào đầu năm buộc Ngân hàng Nhà
nước phải siết chặt tín dụng trong giai đoạn đầu năm bằng cách quy định hạn mức tăng
trưởng tín dụng thấp. nhưng đến giữa năm nguy cơ lạm phát được giải quyết thì Ngân hàng
Nhà nước có thể dễ dàng điều chỉnh để cho phép các ngân hàng thương mại được tiếp tục
duy trì mức tăng trưởng tín dụng như trước khi có nguy cơ lạm phát. Điều này khó có thể
xảy ra nếu vẫn duy trì hạn mức tăng trưởng tín dụng cố định theo năm.
2. Phân bổ hạn mức tăng trưởng tín dụng theo quy mô vốn của các ngân hàng thương

mại
Trên thực tế, một số ngân hàng thương mại cổ phần có nguồn vốn cho vay lớn, nhu
cầu vay vẫn nhiều và tập trung vào nhóm khách hàng khá an toàn nhưng lại không thể cho
vay do vướng trần hạn mức tăng trưởng tín dụng. Trong số bốn ngân hàng thương mại lớn
nhất hệ thống hiện nay - chiếm khoảng 50% thị phần thì có tới ba ngân hàng gần như không
còn khả năng cho vay do các nguyên nhân như: không thể duy trì tình trạng cân đối tín
dụng, việc huy động vốn từ dân cư rất khó khăn. Ngân hàng Nhà nước quy định huy động
10 đồng thì chỉ được cho vay 8 đồng còn thực tế ngân hàng thương mại huy động được 8
đồng thì cho vay tới 9 hoặc 10 đồng. Thậm chí, một số ngân hàng phải lấy vốn trên thị
trường 2 đẩy vào thị trường 1.
Có thể thấy một thực trạng rằng, có sự phân hóa tương đối sâu sắc trong việc tăng
trưởng tín dụng giữa các ngân hàng lớn với các ngân hàng nhỏ. Trong khi các ngân hàng lớn
nhanh chóng sử dụng hết hạn mức tăng trưởng của mình thì các ngân hàng nhỏ lại gặp nhiều
khó khăn trong việc duy trì tăng trưởng tín dụng. việc phân bổ hạn mức tăng trưởng tín

dụng căn cứ theo quy mô tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng là một cách để giải quyết
sự bất cân đối này. Để đạt mục tiêu đó có thể thực hiện theo ba phương án sau:
Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước sẽ thống kê, đánh giá và xếp loại các ngân hàng
thương mại theo khả năng cung cấp vốn cho nền kinh tế. Trên cơ sở đó, Ngân hàng Nhà
nước sẽ định ra hạn mức tăng trưởng tín dụng khác nhau cho các nhóm ngân hàng. Những
ngân hàng có mức tăng trưởng tín dụng các năm trước cao thì sẽ được cho phép có mức
tăng trưởng tín dụng cao trong năm và ngược lại đối với các ngân hàng có mức tăng trưởng
14


Chính sách hạn mức tăng trưởng tín dụngcủa NHNN Việt Nam giai đoạn 2007 2010
tín dụng các năm trước thấp. Nhưng Ngân hàng Nhà nước vẫn phải đảm bảo tổng mức tăng
trưởng tín dụng của toàn nền kinh tế không vượt quá hạn mức chung đã được định trước.
Thứ hai, dựa trên hạn mức tăng trưởng tín dụng đã được phân bổ cho các ngân hàng ở
phương án trên, Ngân hàng Nhà nước có thể cho phép các ngân hàng thương mại được mua
bán hạn mức tín dụng của nhau. Điều này cho phép các ngân hàng thương mại linh hoạt hơn
trong việc đảm bảo thực hiện đúng yêu cầu về tăng trưởng của Ngân hàng Nhà nước mà vẫn
phù hợp với khả năng của bản thân ngân hàng đó.
Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước có thể cho phép các ngân hàng thương mại được đấu giá
tín dụng để các ngân hàng thương mại được tự mình quyết định mức độ tăng trưởng tín
dụng mà ngân hàng đó có thể đảm bảo miễn là tổng hạn mức tăng trưởng tín dụng vẫn nằm
trong phạm vi kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước. Đồng thời Ngân hàng Nhà nước lại có
thêm một khoản thu đáng kể để sử dụng trong việc điều chỉnh và kiểm soát tín dụng ngược
trở lại.
3. Phân bổ hạn mức tín dụng theo mức độ phát triển của từng ngành, từng lĩnh vực

kinh tế
Theo thống kê năm 2010, các chỉ số tăng trưởng cho các ngành thể hiện một xu
hướng phục hồi rõ rệt của nền kinh tế. Công nghiệp tiếp tục là đầu tàu của tăng trưởng kinh
tế Việt Nam. Giá trị sản xuất công nghiệp 9 tháng đầu năm tăng 13,8% so với cùng kỳ năm

2009 và năm 2010 tăng khoảng 14% so với năm 2009. So với khu vực công nghiệp thì khu
vực dịch vụ cũng có sự phục hồi sau khủng hoảng kinh tế thế giới những ở mức độ thấp
hơn. Tốc độ tăng trưởng trong 9 tháng đầu năm là 7,24% và triển vọng tốc độ tăng trưởng
khu vực dịch vụ cả năm 2010 có thể đạt 7,5%. Đối với lĩnh vực nông nghiệp, năm 2010 gặp
nhiều khó khăn: đầu năm hạn hán nghiêm trọng, giữa năm nắng nóng gay gắt, cuối năm
mưa lũ lớn kéo dài ở miền Trung và Tây Nguyên. Những khó khăn này đã gây thiệt hại
nặng nề cho sản xuất vụ mùa, nuôi trồng thuỷ sản và chăn nuôi. Tuy nhiên, do thực hiện
nhiều chính sách và giải pháp hỗ trợ hộ nông dân và các doanh nghiệp về vốn, vật tư, tiêu
thụ kịp thời, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 9 tháng đầu năm đã tăng 2,89%
so với cùng kỳ năm 2009, và ước cả năm 2010 tăng khoảng 2,8%.
Trên cơ sở thống kê tình hình phát triển kinh tế năm 2010 có thể thấy rằng tốc độ phát
triển giữa các ngành có sự khác biệt khá rõ, nhất là giữa các nhóm ngành công nghiệp và
15


Chính sách hạn mức tăng trưởng tín dụngcủa NHNN Việt Nam giai đoạn 2007 2010
các ngành nông nghiệp. Kết hợp cùng với định hướng phát triển cơ cấu kinh tế của Nhà
nước, ngân hàng thương mại có thể quy định hạn mức tăng trưởng tín dụng cho từng ngành,
từng lĩnh vực cụ thể. Biện pháp này có thể giải quyết được nhiều vấn đề: nâng cao cơ hội
tiếp cận vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nằm trong những lĩnh vực ưu tiên cho vay
vốn, vừa có thể là một biện pháp để định hướng phát triển kinh tế của nhà nước thông qua
việc ưu tiên vay vốn ở một số ngành và hạn chế vay vốn ở một số ngành. Tuy nhiên, biện
pháp này tương đối phức tạp và đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước phải có khả năng kiểm soát
thực tế tình hình cho vay vốn của các ngân hàng thương mại để đảm bảo thực hiện chính
xác định hướng phát triển tín dụng cho từng ngành, từng lĩnh vực.
4. Một số giải pháp khác

Thứ nhất, nâng cao năng lực hành vi dân sự của doanh nghiệp hay chủ thể bảo lãnh và
hệ thống thẩm định đầu vào của các hồ sơ dự án đối với các khoản vay tín dụng. Để đạt
được điều này, các doanh nghiệp cần có bản thuyết minh mô tả hoạt động đầu tư, biết được

vị thế của mình trong nền kinh tế như thế nào, quan trọng nhất là kết quả kinh doanh. Ngoài
ra, tùy theo đối tượng vay nhiều hay ít, ngân hàng cần có sự thẩm định một cách nghiêm
ngặt các điều kiện cho vay, phân tích và đánh giá để quyết định cho khách hàng vay vốn,
góp phần nâng cao hiệu quả của hệ thống nói chung, tránh hiện tượng giống nền kinh tế Mỹ
không có sự thẩm định ràng buộc chặt chẽ gây ra tình trạng vỡ nợ.
Thứ hai, cần cải thiện hệ thống đòi nợ xấu, xiết chặt cho vay đầu vào. Đối với những
dự án tài chính nợ xấu thì cần có chính sách hoãn, giản nợ cho chủ nợ. Tuy nhiên, trong giai
đoạn đầu thẩm định hồ sơ của người đi vay, các ngân hàng cần xác định rõ khả năng trả nợ,
phương cách tạo thu nhập, các luồng tiền từ đâu có, có tài sản thế chấp không để vòng quay
nợ của hệ thống tín dụng luôn nằm trong vòng an toàn.
Thứ ba, phương pháp mới là khoán định mức tín dụng cho từng ngân hàng. Khoán
định mức tín dụng sẽ giúp các ngân hàng dễ dàng chủ động tìm kiếm khách hàng theo năng
lực và khả năng của từng ngân hàng. Ngân hàng trung ương chỉ nên đưa ra các định hướng,
chính sách vĩ mô thích hợp để phát triển kinh tế nước ta . Hệ thống tín dụng phát triển vững
mạnh về số lượng, chú trọng về chất lượng sẽ giúp uy tín của tín dụng ngân hàng được nâng
cao. Qua đó, giúp hình ảnh của quốc gia có sự cải thiện trong cách nhìn nhận của thế giới.
V) Kết luận:
16


Chính sách hạn mức tăng trưởng tín dụngcủa NHNN Việt Nam giai đoạn 2007 2010
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bắt đầu từ năm 2007 và kéo dài đến nay xuất phát
từ cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ đã gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế của nhiều nước.
Ở Việt Nam, với nền kinh tế hội nhập cũng đã bị ảnh hưởng của khủng hoảng, song nhờ có
sự quản lý vĩ mô của Nhà nước bằng các chính sách can thiệp kịp thời mà nước ta đã đứng
vững trong khủng hoảng. Chính sách hạn mức tăng trưởng tín dụng là một trong những
công cụ của chính sách tiền tệ được ngân hàng nhà nước Việt Nam sử dụng trong giai đoạn
này và đạt được những kết quả tích cực.
Công cụ hạn mức tín dụng mang tính chất hành chính nên hiệu lực là đáng kể. Từ năm
2007-2010 tốc độ tăng trưởng tín dụng đã được kiểm soát chặt chẽ, có những chuyển biến

trong hoạt động cho vay, chất lượng tín dụng được nâng cao, tăng trưởng tín dụng phù hợp
tăng trưởng huy động vốn thực tế, kiểm soát rủi ro tín dụng.
Hạn mức tăng trưởng tín dụng thật sự là một biện pháp quan trọng để kiềm chế lạm
phát. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, cung cầu tín dụng luôn biến
động không ngừng thì việc sử dụng chính sách này có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh
tế. Nhìn chung, giai đoạn 2007-2010, ngân hàng nhà nước đã thực hiện chính sách này theo
hướng thắt chặt, và kết quả đã chống được đà suy thoái kinh tế, đồng thời giữ vững tăng
trưởng, nhất là ngăn chặn lạm phát cao, đạt mục tiêu đặt ra mặc dù còn có một vài hạn chế.
Từ những nội dung đã phân tích trong bài luận này, có thể hiểu được những gì mà
ngân hàng đã thực hiện cụ thể hóa chính sách mà nhóm nghiên cứu tìm hiểu. Thực tế trong
mỗi thời kỳ, nhà nước không bao giờ chỉ sử dụng một biện pháp hay chính sách mà có sự
kết hợp của nhiều chính sách, công cụ cùng một lúc để đạt hiệu quả tối ưu. Tách rời một
chính sách ra khỏi đó thì chính sách không còn tác dụng nữa. Tóm lại là qua đó khẳng định
được vai trò quan trọng của sự quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế nước ta cả trong lúc
nền kinh tế gặp nguy cơ cũng như trong tương lai.

17


Chính sách hạn mức tăng trưởng tín dụngcủa NHNN Việt Nam giai đoạn 2007 2010

DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
-

Luật số 46/2010/QH12 Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam.

-

Nghị quyết số 06/NQ-CP năm 2009


-

Thông tư số 07/2010/TT-NHNN

-

Giáo trình Quản lý nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, Nxb khoa học và kỹ thuật, Hà Nội
năm 2009.

-

Bài giảng Quản lí Hành chính nhà nước, Đại học Quốc gia Hà Nội (2009)

-

Giáo trình nhập môn tài chính tiền tệ, PGS. TS. Sử Đình Thành, TS. Vũ Thị Minh Hằng,
Nxb lao động xã hội năm 2008.

-

Giáo trình Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, Lê Trung Thành, Trường Đại học Đà Lạt
năm 2002.

-

Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ, Đại học Kinh tế Quốc dân (2007), Nhà xuất bản Đại
học Kinh tế Quốc dân

-


Trang web chính phủ: www.chinhphu.vn.

-

Số liệu của Tổng cục Thống kê: www.gso.gov.vn

-

Báo cáo tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng trong tháng 4/2009 của Ngân hàng
Nhà nước: www.sbv.gov.vn

-

Cổng thông tin Bộ Kế hoạch và Đầu tư: www.mpi.gov.vn

-

Thời báo kinh tế Việt Nam – VNEconomy: www.vneconomy.vn

-

Báo Sài Gòn giải phóng: />
-

Tạp chí kinh doanh: />
-

Cổng thông tin dữ liệu, tài chính – chứng khoán Việt Nam : />
-


www.laodong.com.vn
18


Chính sách hạn mức tăng trưởng tín dụngcủa NHNN Việt Nam giai đoạn 2007 2010
-

www.thesaigontimes.vn

-

www.vnexpress.net

-

www.dantri.com.vn

19



×