Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Một số giải pháp quản lý công tác học sinh, sinh viên ở trường cao đẳng kinh tế kỹ thuật thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHAN VĂN THANH CẦN

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
CÔNG TÁC HỌC SINH, SINH VIÊN
Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ - KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Nghệ An, năm 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHAN VĂN THANH CẦN

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
CÔNG TÁC HỌC SINH, SINH VIÊN
Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ - KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số : 60.14.01.14

Người hướng dẫn : PGS.TS Nguyễn Văn Tứ


Nghệ An, năm 2015


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, lòng biết ơn sâu sắc tôi xin kính gửi đến:
Ban Giám hiệu, Khoa Giáo dục, Phòng Đào tạo Sau đại học, các giảng
viên của Trường Đại học Vinh và các cán bộ, giảng viên của Trường Đại học
Kinh tế - Công nghiệp Long An đã nhiệt tình giảng dạy và tạo mọi điều kiện
thuận lợi nhất cho tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu tại trường.
Đặc biệt, tôi xin trân trọng và chân thành cảm ơn tới PGS. TS Nguyễn
Văn Tứ đã trực tiếp hướng dẫn, hỗ trợ, giúp đỡ, chỉ bảo tận tình cho tôi trong
suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, các đơn vị và cán bộ, giảng viên,
nhân viên Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh, cùng với bạn
bè, dồng nghiệp và gia đình đã tạo điều kiện ủng hộ, giúp đỡ chúng tôi tham gia
khóa đào tạo trình độ thạc sĩ và hoàn thành luận văn này!
Tuy đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện đề tài, nhưng do điều
kiện nghiên cứu và khả năng còn hạn chế, chắc chắn luận văn không tránh khỏi
những sai sót, tác giả kính mong nhận được sự góp ý chân thành, sự chỉ dẫn của
Quý Thầy, Cô và Quý Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ!
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả

Phan Văn Thanh Cần


1
CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CBGV


: Cán bộ giáo viên

CBQL

: Cán bộ quản lý

CNH, HDH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNTT

: Công nghệ thông tin

CSVC

: Cơ sở vật chất

CT HSSV

: Công tác học sinh – sinh viên

ĐH
GD
GD&ĐT
GV

: Đại học
: Giáo dục
: Giáo dục và đào tạo

: Giáo viên

HSSV

: Học sinh – sinh viên

KT-XH

: Kinh tế - Xã hội

KTX

: Ký túc xá

QL

: Quản lý

QLGD

: Quản lý giáo dục

TCCN

: Trung cấp chuyên nghiệp


2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU


1

1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4. Giả thuyết khoa học
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
6. Phương pháp nghiên cứu
8. Cấu trúc của luận văn
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUẢN LÝ CÔNG TÁC
HỌC
6

SINH



SINH

VIÊN



TRƯỜNG

CAO

ĐẲNG



3
1.1.

Lịch

sử

vấn

đề



bản

nghiên

cứu

6
1.2.

Các

khái

niệm

của


đề

tài

13
1.3. Một số vấn đề về quản lý công tác HSSV trong các trường cao
đẳng
25
1.3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả quản lý công tác HSSV trong
các trường cao đẳng
1.3.2. Mục đích, yêu cầu quản lý công tác HSSV ở trường cao đẳng
1.3.3. Nội dung quản lý công tác HSSV trong các trường cao đẳng
1.3.4. Phương pháp quản lý công tác HSSV trong các trường cao đẳng
1.3.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc nâng cao hiệu quả quản lý công
tác HSSV trong các trường cao đẳng
Chương 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CÔNG TÁC HỌC SINH –
SINH VIÊN Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ - KỸ THUẬT TP
HỒ

CHÍ

MINH

35
2.1. Giới thiệu khái quát về Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật
TP.
35

Hồ


Chí

Minh


4
2.2. Thực trạng quản lý công tác học sinh – sinh viên Trường Cao
đẳng Kinh tế - Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh

41

2.2.1. Thực trạng về công tác quản lý hoạt động học tập và rèn luyện
của học sinh – sinh viên
2.2.2. Thực trạng về công tác quản lý HSSV nội trú, ngoại trú
2.2.3. Thực trạng về công tác quản lý thực hiện chế độ chính sách đối
với học sinh - sinh viên
2.2.4. Thực trạng quản lý học sinh – sinh viên trong việc tham gia các
phong trào ở trường và ngoài trường, quan hệ với môi trường xã hội
2.2.5. Thực trạng việc phối hợp giữa nhà trường – gia đình- xã hội trong
việc quản lý học sinh – sinh viên
2.3.

Đánh

giá

chung

55

Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ CÔNG TÁC HỌC SINH
– SINH VIÊN Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ - KỸ THUẬT TP
HỒ

CHÍ

MINH

59
3.1.

Các

nguyên

tắc

đề

xuất

giải

pháp

59
3.2. Một số giải pháp quản lý công tác HSSV ở Trường Cao đẳng
Kinh tế - Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh

59


3.2.1. Nâng cao nhận thức cho cán bộ, giảng viên Nhà trường về sự
cần thiết phải tăng cường quản lý công tác HSSV
3.2.2. Nâng cao chất lượng việc xây dựng kế hoạch quản lý công tác
HSSV ở Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh


5
3.2.3. Tổ chức, chỉ đạo chặt chẽ thực hiện công tác HSSV ở Trường
Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh
3.2.4. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá công tác HSSV ở Trường Cao
đẳng Kinh tế - Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh
3.2.5. Đảm bảo các điều kiện thực hiện quản lý công tác HSSV ở
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh
3.3. Tổ chức thực hiện các giải pháp quản lý công tác HSSV ở
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh
74
3.4. Thăm dò sự cần thiết và tính khả thi của các giải pháp đề xuất
77
KẾT

LUẬN



KIẾN

NGHỊ

83

TÀI

LIỆU

THAM

KHẢO

87
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại kinh tế tri thức, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, thế hệ
trẻ Việt Nam nói chung và học sinh, sinh viên (HSSV) nói riêng đều có có ý
chí vươn lên trong học tập, lao động, tu dưỡng, có hoài bảo khát vọng lớn để
khẳng định bản thân mình trong cuộc sống, trong xã hội. Tuy nhiên, dưới tác
động của nền kinh tế thị trường, cơ chế mở cửa và do nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan khác, hành vi lệch chuẩn của thanh thiếu niên có xu hướng
ngày càng tăng và diễn biến ngày càng phức tạp. Một số hành vi vi phạm pháp
luật của HSSV khiến gia đình vả xã hộ lo lắng như: vi phạm giao thông, đua xe
trái phép, bạo lực học đường, quay cóp mua điểm, cờ bạc nghiện rượu, trong
gia đình trẻ em thiếu kính trên nhường dưới, không vâng lời cha mẹ người


6
lớn... Một số hành vi lệch chuẩn khác về mặt đạo dức như: sống hưởng thụ,
chạy theo đồng tiền, xa hoa lãng phí, lười lao động và học tập thiếu ý thức rèn
luyện, không dám đấu tranh với cái sai, thờ ơ vô cảm, vị kỷ... cũng ngày càng
nhiều hơn ở đối tượng còn ngồi trên ghế nhà trường.
Những thói quen, hành vi lệch chuẩn ấy là kết quả của sự giáo dục không

đồng bộ giữa gia đình nhà trường và xã hội. Việc giáo dục đạo đức trong nhà
trường thường chú trọng tới nề nếp kỷ cương với nội quy, như bài học giáo
huấn, hình thức chiếu lệ, không chú trọng đến hành vi ứng xử thực tế. Chương
trình sách giáo khoa quá ôm đườm, nặng nề lý thuyết, thiếu kỹ năng sống,
không tạo được dấu ấn hình thành nhân cách cho học sinh. Trong khi đó
chương trình giáo dục đạo đức, giáo dục công dân xuyên suốt từ bậc mầm non,
tiểu học, đến trung học và trung học chuyên nghiệp, CĐ-ĐH, có đầy đủ tất cả
những bài học về các giá trị đạo đức, phẩm chất công dân. Nhưng hệ thống lại
không tấy rõ phẩm chất nào là trọng tâm, chỗ nào cần nhấn mạnh. Học rất
nhiều nhưng rất khó nhớ, khó nhập tâm bên cạnh đó, giáo viên hiện nay chỉ lo
truyền thụ kiến thức, học sinh thì cố gắng đạt điểm cao trong học tập nhưng
quan hệ thầy trò nhợt nhạt, về nhà, cha mẹ bận lo công việc, các em không
được trang bị những kỹ năng tối thiểu cũng như cách ứng xử trong cuộc sống.
Cách quản lý học sinh – sinh viên của các nhà trường, các cơ sở đào tạo vẫn
nặng về mệnh lệnh, quan liêu bao cấp, đồng nhất tất cả mọi đối tượng, hoàn
cảnh, không phù hợp với tâm lý lứa tuổi của thế hệ trẻ trong thời đại ngày nay.
Lứa tuổi học trò là lứa tuổi ước mơ và cuộc sống lý tưởng; nhưng hiện nay, họ
chưa có một mẫu người lý tưởng; những tác động tiêu cực rình rập một cách
thường trực trong quá trình sinh sống, học tập. Chính vì thế những mối tình sét
đánh, những nhân vật ăn chơi sành điệu, những sát thủ tàn bạo trên phim ảnh
đã trở thành thần tượng của biết bao cô cậu học trò. Những hiện tượng như vậy
không ngững ảnh hưởng đến đạo đức, lối sống của thế hệ trẻ nói chung mà nó
còn tác động tới chất lượng, hiệu quả giáo dục toàn diện, đào tạo nghề nghiệp
của các cơ sở đào tạo nghề hiện nay.


7
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/01/2013 của Hội nghị lần thứ 8, Ban
chấp hành trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã xác định mục tiêu
của giáo dục – đào tạo là phải tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng,
hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo
vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam
phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi
cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu
quả. Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý
tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học
tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân
chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền
giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực [8].
Đối với giáo dục nghề nghiệp, tập trung đào tạo nhân lực có kiến thức, kỹ
năng và trách nhiệm nghề nghiệp. Hình thành hệ thống giáo dục nghề nghiệp
với nhiều phương thức và trình độ đào tạo kỹ năng nghề nghiệp theo hướng
ứng dụng, thực hành, bảo đảm đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ thuật công nghệ
của thị trường lao động trong nước và quốc tế [8].
Trước thực trạng nhận thức pháp luật hiện nay của HSSV cho thấy sự
cần thiết phải tăng cường và đẩy mạnh hơn nữa công tác giáo dục chính trị tư
tưởng cho đối với học sinh, sinh viên. Điều này đang đặt ra một thách thức
rất lớn với các trường cao đẳng nói chung và với Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Thành Phố Hồ Chí Minh nói riêng. Trong đó, quản lý công tác quản
lý HSSV cũng cần phải đổi mới để nâng cao nhận thức, hiểu biết của HSSV,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới về việc đào tạo nguồn nhân lực. Tuy nhiên, vấn
đề này chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống, ngoài một số bài viết
mang tính chất kinh nghiệm, chưa xuất phát từ những cơ sở khoa học của quản
lý giáo dục, quản lý nhà trường trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo


8
dục – đào tạo hiện nay [25].

Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Một số giải pháp
quản lý công tác học sinh – sinh viên ở Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật
Thành phố Hồ Chí Minh” nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động quản lý người học, quản lý nhà trường trong bối cảnh đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục – đào tạo hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất một số giải
pháp quản lý công tác HSSV ở Trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Thành
phố Hồ Chí Minh
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Vấn đề quản lý công tác HSSV ở trường cao đẳng kinh tế – kỹ thuật.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Một số giải pháp quản lý công tác HSSV ở Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
4. Giả thuyết khoa học
Có thể nâng cao hiệu quả quản lý công tác HSSV ở Trường Cao đẳng
Kinh tế - Kỹ thuật Thành Phố Hồ Chí Minh nếu đề xuất và thực hiện được các
giải pháp có cơ sở khoa học, có tính khả thi.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề quản lý công tác HSSV ở trường
cao đẳng kinh tế – kỹ thuật
- Nghiên cứu thực trạng vấn đề quản lý công tác HSSV ở Trường Cao
đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Thành Phố Hồ Chí Minh
- Đề xuất một số giải pháp quản lý công tác HSSV ở Trường Cao đẳng
Kinh tế - Kỹ thuật Thành Phố Hồ Chí Minh


9
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận

Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin lý luận để xây dựng
cơ sở lý luận của đề tài. Thuộc nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận có các
phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích – tổng hợp tài liệu.
- Phương pháp khái quát hoá các nhận định độc lập.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin thực tiễn để xây
dựng cơ sở thực tiễn của đề tài. Thuộc nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
có các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: phương pháp điều tra, phương
pháp tổng kết giáo dục, phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động,
phương pháp lấy ý kiến chuyên gia.
6.3. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phần mềm SPSS để xử lý số liệu thu được.
7. Đóng góp của luận văn
7.1. Về mặt lý luận
Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về quản lý công tác HSSV ở các trường
ĐH, CĐ nói chung, ở các trường cao đẳng kinh tế - kỹ thuật nói riêng.
7.2. Về mặt thực tiễn
Làm rõ thực trạng quản lý công tác HSSV ở Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Thành Phố Hồ Chí Minh. Từ đó đề xuất các giải pháp để nâng cao
hiệu quả quản lý công tác HSSV ở Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Thành
Phố Hồ Chí Minh
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn có 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận của việc quản lý công tác HSSV ở trường
cao đẳng


10
- Chương 2: Thực trạng công tác quản lý HSSV ở Trường Cao đẳng

Kinh tế - Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
- Chương 3: Một số giải pháp quản lý công tác HSSV ở Trường Cao
đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Thành Phố Hồ Chí Minh


11
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUẢN LÝ
CÔNG TÁC HỌC SINH – SINH VIÊN Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề quản lý công tác học sinh – sinh ở các trường học, cơ sở đào tạo
đã được nghiên cứu ở nhiều cấp độ, phương diện với tư cách là những tác động
tới đối tượng được giáo dục, được đào tạo. Vì vậy, vấn đề này đã được nhiều
nhà khoa học, nhà giáo dục, nhà quản lý nghiên cứu ở nhiều công trình, bài viết
khác nhau.
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Mặc dù với quan điểm chính trị, tôn giáo, quan điểm giáo dục khác nhau
và với các mức độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau, nhưng vấn đề quản lý
người học vẫn được quan tâm, lưu ý. Các nghiên cứu về người học (là học sinh
ở phổ thông, là sinh viên ở đại học – cao đăng) chủ yếu tập trung vào việc hình
thành, phát triển nhân cách phù hợp với mức độ tiếp thu tri thức, rèn luyện kỹ
năng và tính chất của các mối quan hệ của người học đối với xã hội, với gia
đình.
Ở Nhật Bản, công tác quản lý học sinh – sinh được xác định một cách
chặt chẽ trong hệ thống công tác quản lý các cơ sở đào tạo dù là trường công
lập, tư thục, của trung ương hay của địa phương. Ngoài các quy định có tính
chất pháp lý đối với người học, công tác quản lý người học được thông qua các
chương trình giáo dục công dân. Bằng môn giáo dục công dân, các môn học
được tích hợp và hoạt động trải nghiệm, hoạt động xã hội, học sinh – sinh viên
Nhật Bản được giáo dục về ý thức trách nhiệm của công dân, về phẩm chất của

người viên chức, về ý thức công cộng (ý thức chấp hành giao thông, ý thức giữ
gìn vệ sinh, ý thức đối với những người xung quanh,...). Chính vì HS-SV Nhật
Bản được rèn luyện, giáo dục từ trong nhà trường, trở thành những công dân,
những lao động có tinh thần trách nhiệm với đất nước, với xã hội, với cộng
đồng mẫu mực, tiêu biểu nhất thế giới [27].


12
Ở Anh Quốc, Hoa Kỳ, Otxtrayli,… công tác HSSV được các trường
quan tâm thông qua chương trình giảng dạy và tích hợp để giáo dục nhân cách
có sự đan kết qua những giờ học, thông qua vô số các hoạt động tương tác
hằng ngày giữa giáo viên và HSSV, các hoạt động tập thể của nhà trường. Nhà
trường, gia đình và cộng đồng sẽ tham gia một cách tích cực vào quá trình xây
dựng một môi trường an toàn, ở đó HSSV được khuyến khích để tự tin, kiếm
sống và tin tưởng thành công là hoàn toàn có thể đạt được. Giúp HSSV trong
việc phát triển ý thức trách nhiệm đối với chính bản thân, nhà trường và cộng
đồng. Đồng thời đáp ứng các như cầu của mỗi cá nhân trong một môi trường
tạo điều kiện thuận lợi để có thể đem lại sự thành công cho tất cả HSSV. Công
tác quản lý HS-SV trong hệ thống quản lý con người, quản lý dân sự nên rất
chặt chẽ về mặt luật pháp nhưng lại có những đặc trưng riêng theo quan điểm
tự do cá nhân của chủ nghĩa tư bản.
Ở Nga, Trung Quốc,.... việc quản lý người học theo mô hình quản lý
người học theo quan điểm của các nước của hệ thống xã hội chủ nghĩa trước
đây. Tính chất tập trung, hành chính, bao cấp trong quản lý người học nói
chung và đối với HS-SV đã phát huy tác dụng trong một giai đoạn lịch sử
tương ứng và hiện nay đang được đổi mới để phù hợp sự phát triển của nền
kinh tế - chính trị của mỗi quốc gia, tiệm cận với quá trình hội nhập quốc tế.
Nói chung, việc quản lý người học nói chung và HSSV trong các trường
ĐH-CĐ của các nước trên thế giới đã có quá trình phát triển từ lâu. Những kết
quả nghiên cứu, những giải pháp, cách thức trong quản lý người học của các

nước đó đã thể hiện quan điểm chính trị, bản sắc văn hóa dân tộc, quan niệm
tôn giáo cũng như những tập quán, thói quen của xã hội. Đó cũng là cơ sở để
trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục – đào tạo, chúng ta chọn
lọc những bài học kinh nghiệm để nâng cao nhiệu quả công tác quản lý HSSV
trong các trường ĐH-CĐ hiện nay.
1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam
Với mục tiêu của giáo dục – đào tạo là đào tạo những con người có đức,
trí, thể, mỹ, việc quản lý người học trong nhà trường Việt Nam đã được quan


13
tâm từ lâu. Trong cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất (1950), lần thứ hai
(1956), lần thứ ba (1980) và công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục –
đào tạo hiện nay, vấn đề này được coi trọng, bổ sung, phát triển để phù hợp với
từng giai đoạn. Vì vậy, công tác quản lý người học nói chung và quản lý HSSV nói riêng, đã được xem xét, nghiên cứu từ nhiều phương diện khác nhau.
Bộ Giáo dục và Đào tạo, các bộ ban ngành chủ quản của các trường đại
học, cao đẳng, các đại học, trường đại học,... đã có nhiều văn bản, chủ trương,
quy chế về quản lý HS-SV [2], [3], [4]. Đó là những văn bản được hình thành
từ các kết quả nghiên cứu, kinh nghiệm thực tiễn của các nhà khoa học, các nhà
quản lý.
Ngày 29 tháng 11 năm 2012, Bộ GD-ĐT đã ban hành Chương trình
Công tác học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên
nghiệp giai đoạn 2012-2016, trong đó nhấn mạnh việc đổi mới căn bản và toàn
diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa,
dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc
biệt coi trọng công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ý thức
chấp hành pháp luật, chăm sóc sức khỏe, thể chất, giáo dục truyền thống lịch sử
cách mạng, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý
thức trách nhiệm xã hội của HSSV. Đồng thời phải chuẩn hóa nội dung,
phương pháp công tác HSSV ở các đại học, học viện, trường đại học, trường

cao đẳng và trường trung cấp chuyên nghiệp; phát huy mạnh mẽ vai trò chủ
động, năng động, sáng tạo của HSSV trong quá trình học tập và rèn luyện.
Trong tạp chí Khoa học Giáo dục (Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam),
đã có nhiều bài viết từ nhiều góc độ khác nhau về vấn đề quản lý người học ở
các trường ĐH-CĐ [30].
Tác giả Nguyễn Thanh Phú, trong bài viết “Giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên sư phạm trước yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo
dục” (số 84, tháng 9-2012) đã đề cập đến vấn đề giáo dục đạo đức nghề nghiệp
cho sinh viên sư phạm trước yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục,
phân tích về nội dung của đạo đức nghề nghiệp và đề xuất một số định hướng


14
giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm. Khi bàn về “Một số vấn
đề lí luận về động cơ học tập của sinh viên” (số 92, tháng 5/2013), tác giả
Dương Thị Kim Oanh đã khẳng định, động cơ nói chung và động cơ học tập
của sinh viên nói riêng là những vấn đề có ý nghĩa lí luận và thực tiễn trong
việc nâng cao chất lượng dạy học ở bậc đại học vì động cơ học tập đúng đắn
hay lệch lạc không chỉ tác động tới kết quả học tập mà còn tới hiệu quả hoạt
động nghề nghiệp và chiều hướng phát triển nhân cách của mỗi sinh viên. Tác
giả đề cập tới một số vấn đề lí luận về động cơ học tập của sinh viên như khái
niệm động cơ học tập, cấu trúc động cơ học tập và biểu hiện động cơ học tập
của sinh viên.
Tác giả Phạm Minh Hùng, trong bài viết “Phát huy năng lực tự học, tự
nghiên cứu của sinh viên trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ” (số 98, tháng
11/2013) đã khẳng định, đào tạo theo hệ thống tín chỉ là một phương thức đào
tạo tiên tiến, được áp dụng rộng rãi trong các trường đại học trên thế giới, đòi
hỏi sinh viên sự chủ động, sáng tạo, cũng như năng lực tự học tự nghiên cứu.
Tác giả trình bày một số biện pháp nhằm phát huy năng lực tự học, tự nghiên
cứu cho sinh viên trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ, bao gồm: giao nhiệm vụ

tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên; có các hình thức phù hợp để sinh viên báo
cáo kết quả tự học, tự nghiên cứu của mình; bồi dưỡng phương pháp tự học, tự
nghiên cứu cho sinh viên; đổi mới phương pháp dạy học; tạo ra một môi trường
tự học tự nghiên cứu thuận lợi cho sinh viên. Cũng trong số tạp chí nói trên, tác
giả Nguyễn Thanh Phú, bàn về “Thực trạng nhận thức về đạo đức nghề nghiệp
của sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Bình Phước”, đã cho rằng, trường sư
phạm là nơi đào tạo nguồn nhân lực cho giáo dục, hình thành nên nhân cách
giáo viên “có đức, có tài”, “vừa hồng, vừa chuyên”; trong đó, đạo đức nghề
nghiệp cần được hình thành trong suốt quá trình đào tạo ở trường sư phạm và
tiếp tục tu dưỡng trong suốt cuộc đời giáo viên. Để giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho sinh viên, trước hết cần hiểu thực trạng đạo đức nghề nghiệp của họ
đang được hình thành như thế nào và những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình
giáo dục đó.


15
Tác giả Vũ Lệ Hoa, ở bài viết “Phát triển kĩ năng tự học của sinh viên
trong dạy học môn Giáo dục học ở trường sư phạm” (số 99, tháng 12/2013), đã
phân tích về vấn đề phát triển kĩ năng tự học của sinh viên trong dạy học môn
Giáo dục học ở trường sư phạm. Theo tác giả, giáo viên cần chú ý tăng cường
hướng dẫn hoạt động tự học của sinh viên nhằm phát triển một số kĩ năng tự
học môn Giáo dục học cho sinh viên: kĩ năng xác định mục tiêu học tập môn
Giáo dục học; kĩ năng lập kế hoạch học tập môn Giáo dục học; kĩ năng nghiên
cứu tài liệu học tập; kĩ năng nghe giảng kết hợp ghi chép ở trên lớp; kĩ năng tự
kiểm tra, tự đánh giá kết quả học tập. Việc phát triển kĩ năng này sẽ giúp hình
thành cho sinh viên ý thức được yêu cầu của việc tự học, rèn luyện phát triển
thói quen học suốt đời.
Các tác giả Bùi Minh Hải-Vũ Thị Hà, khi bàn về “Đổi mới kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập của sinh viên theo năng lực thực tiễn” (số 100, tháng
1/2014 ), đã đề cập đến khái niệm năng lực thực tiễn và kiểm tra, đánh giá theo

năng lực thực tiễn, đồng thời chỉ rõ những bất cập trong kiểm tra đánh giá kết
quả học tập của sinh viên hiện nay. Tác giả đưa ra các giải pháp đổi mới kiểm
tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên theo năng lực thực tiễn. Theo tác giả,
kiểm tra, đánh giá không chỉ là xác định kết quả người học có được mà quan
trọng hơn là việc xác định được thực chất những gì sinh viên lĩnh hội được theo
những tiêu chí năng lực thực tiễn. Các tác giả Vương Hồng Tâm, Lê Thị Thanh
Sang, khi đưa ra “Một số định hướng phát huy tính chủ động, sáng tạo của sinh
viên các trường cao đẳng và đại học trong đào tạo theo tín chỉ” (số 111, tháng
12/2014), đã phân tích thực trạng việc dạy – học trong các trường cao đẳng, đại
học hiện nay và đưa ra một số định hướng đào tạo theo học chế tín chỉ cho sinh
viên các trường cao đẳng, đại học: tạo động cơ, hứng thú học tập cho sinh viên;
giáo dục sinh viên ý thức là chủ thể quá trình sáng tạo; đổi mới phương pháp dạy
học theo hướng phát huy tính tích cực của người học; chú trọng rèn luyện sinh
viên phương pháp tự học; tăng cường phương pháp dạy học cá nhân và học hợp
tác; đánh giá và tự đánh giá kết quả đào tạo. Trong khi đó, nhằm “Tăng cường
quản lí hoạt động giáo dục kĩ năng mềm cho sinh viên các trường đại học”,


16
trên cơ sở điều tra, khảo sát thực trạng giáo dục kĩ năng mềm của sinh viên sáu
trường đại học và 106 cơ quan, công ti, doanh nghiệp ở khu vực Đồng bằng
sông Cửu Long, tác giả Đinh Phước Tường rút ra kết luận rằng kĩ năng mềm
của sinh viên các trường đại học thuộc khu vực này còn hạn chế, chưa đáp ứng
yêu cầu của nhà sử dụng lao động. Vì vậy, tăng cường quản lí hoạt động giáo
dục kĩ năng mềm cho sinh viên là một vấn đề cần thiết đối với giáo dục đại
học nước ta trong thời gian hiện nay (số 111, tháng 12/2014).
Nhiều bài viết của các tác giả cũng đã được đăng tải ở các tạp chí khoa
học, đã cập đến công tác quản lý HS-SV ở các trường trung cấp chuyên nghiệp,
CĐ-ĐH từ nhiều phương diện, góc độ khác nhau. Đó là các tạp chí như: Tạp
chí Giáo dục (Bộ Giáo dục và Đào tạo), Tạp chí Khoa học (Đại học Thái

Nguyên), Tạp chí Giáo chức Việt Nam (Trung ương Hội Cựu Giáo chức Việt
Nam), Tạp chí Quản lý Giáo dục (Học viện Quản lý Giáo dục) và các tạp chí
Khoa học của các đại học quốc gia, đại học vùng, các trường đại học,….
Một số đề tài, luận văn, luận án cũng đã đề cập đến công tác quản lý
người học nói chung và quản lý HS-SV ở trường CĐ-ĐH nói riêng. Tác giả
Phan Thanh Tú (2010) đã nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp nâng cao chất
lượng công tác quản lý HSSV ở Trường Đại học Quảng Nam”. Trong đề tài của
mình, tác giả đã đi sâu nghiên cứu các giải pháp tổng thể từ cơ sở vật chất,
công tác nội ngoại trú nhằm giáo dục HSSV có ý thức tự giác chủ động trong
học tập, tu dưỡng, rèn luyện, không chỉ nắm vững kiến thức chuyên môn nghề
mà còn nâng cao phẩm chất, đạo đức, tư tưởng, tác phong nghề nghiệp phục vụ
có hiệu quả cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [26].
Tác giả Hoàng Thị Thu Hương (2011) đã nghiên cứu đề tài “Quản lý
công tác học sinh tại Trường Trung cấp nghề Thái Bình trong giai đoạn hiện
nay”. Đề tài chủ yếu nghiên cứu về các vấn đề xây dựng mục tiêu công tác HS
theo định hướng nghề nghiệp đồng thời triển khai kế hoạch một cách tối ưu
nhất trong việc quản lý công tác HS, nhằm giáo dục HS có ý thức tự giác chủ
động trong học tập, tác phong nghề nghiệp phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [12].


17
Tác giả Tô Văn Sông (2007) đã nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp
quản lý Công tác HSSV ở Trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Hải Dương
trong giai đoạn hiện nay”. Trong đề tài của mình, tác giả đã làm rõ cơ sở lý
luận và thực tiễn của công tác quản lý công tác HSSV ở Trường cao đẳng
Kinh tế – Kỹ thuật Hải Dương; từ đó đề xuất các biện pháp để nâng cao
hiệu quả công tác quản lý HSSV [29].
Nhìn chung, đã có nhiều bài viết về vấn đề quản lý HS-SV các trường
ĐH-CĐ từ nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, chưa có một đề tài nào

nghiên cứu về vấn đề quản lý công tác HS-SV ở Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, một trong những trường cao đẳng được
được Thành phố Hồ Chí Minh chọn làm cơ sở đào tạo nghề trọng điểm của
thành phố.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Học sinh - sinh viên và công tác học sinh - sinh viên
1.2.1.1. Học sinh- sinh viên
Theo Luật Giáo dục 2005 (bổ sung 2009) và Quy chế Công tác HSSV
do Bộ giáo dục và Đào tạo ban hành kèm theo quyết định số 42/2007/QĐBGDĐT ngày 13 tháng 8 năm 2007 thì những người đang học trong các trường
thuộc hệ đại học cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp được gọi là HSSV. Điều
này cũng được khẳng định trong Điều lệ Trường Đại học vừa mới được ban
hành trong năm 2015 [3].
Khái niệm này là cơ sở để các trường ĐH-CĐ cụ thể hóa trong các văn
bản quản lý người học của đơn vị mình. Mối quan nhệ giữa HSSV trong mới
quan hệ với các thành tố liên quan được thể hiện trong sơ đồ sau đây :
Giảng viên

Các
Phòng,Bộ môn

Đoàn TN,
Hội SV

Môi trường

HSSV

xã hội

Gia đình



18

HSSV có những đặc điểm chủ yếu sau:
Là những người có trình độ văn hóa tốt nghiệp bậc THCS, trung học
phổ thông hoặc tương đương đã trúng tuyển vào trường Trung cấp chuyên
nghiệp, Cao đẳng, Đại học thông qua hình thức xét tuyển, thi tuyển.
Ở nhà trường HSSV là lực lượng đông đảo, trong quá trình đào tạo họ
cần được quản lý và tổ chức chặt chẽ, họ có vai trò, vị trí to lớn và quan trọng.
HSSV là nguồn trí tuệ, là nguồn lực quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước cho nên HSSV cần phải được chú ý giáo dục, đào
tạo tốt nhất trong quá trình đào tạo ở trường. Họ là lực lượng trẻ, khỏe có đặc
tính nhạy bén, tiếp thu nhanh về khoa học kỹ thuật, khả năng giao tiếp rộng,
nhạy cảm với các vấn đề chính trị xã hội đất nước...
Khi đến học tại các cơ sở đào tạo HSSV được tiếp xúc với môi trường
học tập rèn luyện mới, không gian hoạt động rộng hơn, HSSV không đơn thuần
chịu sự giám sát quản lý của gia đình, thầy giáo như ở trường phổ thông, mà
môi trường ở cao đẳng, đại học rộng, đa dạng phong phú các loại hình hoạt
động học tập, rèn luyện. Với sự trưởng thành về trí tuệ, thể chất cá nhân, xuất
hiện những nhu cầu mới về vật chất, nhu cầu về học tập tích lũy kiến thức
chuyên môn cho bản thân.
Tóm lại HSSV đang là tuổi thanh niên có nhiều ước mơ hoài bão, tâm
sinh lý đang phát triển, là người luôn có tính chủ động hăng say học tập, sáng
tạo tích cực chủ động trong học tập và rèn luyện. Nhiều HSSV đã vượt khó và
đạt thành tích cao trong học tập, nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, đại bộ phận
HSSV còn thiếu kinh nghiệm trong cuộc sống, đánh giá nhìn nhận các hiện
tượng trong cuộc sống còn nông cạn, coi nhẹ, mơ hồ quan điểm ý thức chính
trị, là lực lượng dễ bị kích động lôi kéo, họ có những hành vi, hành động nhiều



19
khi mang tính bột phát. Đây là những yếu kém HSSV hay mắc phải vì thế trong
quá trình GD - ĐT nhà trường cần chú ý khắc phục nhược điểm trên của HSSV
và có biện pháp giáo dục họ đi đúng hướng, đúng mục tiêu đào tạo đề ra.
1.2.1.2. Công tác học sinh - sinh viên
Công tác HSSV là một trong những công tác trọng tâm của Hiệu trưởng
nhà trường, nhằm bảo đảm thực hiện mục tiêu giáo dục là đào tạo con người
Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề
nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình
thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Chức năng: Công tác HSSV giúp Hiệu trưởng tổ chức, quản lý các mặt
về học tập, rèn luyện, nghiên cứu khoa học cũng như đời sống vật chất và tinh
thần của HSSV toàn Trường.
- Nhiệm vụ cụ thể:
+ Là đầu mối tập hợp ý kiến phản ánh của HSSV, các phòng, ban, khoa,
bộ môn về các mặt liên quan tới việc học tập, rèn luyện, nghiên cứu khoa học
và sinh hoạt nói chung của HSSV. Tham gia đánh giá và kịp thời đề xuất các
giải pháp phù hợp. Định kỳ tổ chức đối thoại giữa lãnh đạo nhà trường, các
phòng ban, khoa, bộ môn với HSSV và là đầu mối trả lời và giải quyết những
khiếu nại của HSSV.
+ Phối hợp với phòng Khảo thí và Đảm bảo chất lượng, phòng Đào tạo
thực hiện công tác tuyển sinh. Tổ chức tiếp nhận HSSV trúng tuyển. Tiến hành
làm mã và làm thẻ cho HSSV. Giải quyết các thủ tục hành chính cho HSSV
nhập học ra trường, chuyển trường, chuyển về địa phương.
+ Phối hợp với Y tế cơ quan tổ chức khám sức khỏe cho sinh viên hệ
chính quy khi mới vào trường, giữa khoá học và cuối khoá học theo hướng dẫn
của Thông tư liên Bộ Y tế - Bộ Giáo dục và Đào tạo. Triển khai thực hiện chế
độ Bảo hiểm y tế, bảo hiểm thân thể cho HSSV. Phối hợp với các phòng chức
năng liên quan giải quyết các trường hợp HSSV ốm đau, tai nạn, rủi ro.



20
+ Là đầu mối phối hợp với các phòng chức năng để tổ chức tuần sinh
hoạt chính trị đầu mỗi năm học cho HSSV; tổ chức cho sinh viên học tập nội
quy, quy chế, quyền lợi và nghĩa vụ của HSSV; tổ chức sinh hoạt chính trị, tư
trưởng thường xuyên cho HSSV trong quá trình học tập tại trường.
+ Phối hợp với các khoa, bộ môn, phòng Đào tạo, các phòng, ban khác
và Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tiến hành theo dõi việc học tập, nghiên cứu khoa
học và rèn luyện của HSSV, làm căn cứ để đề xuất đánh giá xét tiêu chuẩn thi
và thi tốt nghiệp. Tổ chức xét cấp học bổng, trợ cấp xã hội và mức đóng học
phí cho HSSV, kể cả học bổng do các cá nhân và tổ chức tài trợ cho Trường.
Đề nghị Ban Giám hiệu khen thưởng các tập thể, cá nhân đạt thành tích cao
trong học tập và rèn luyện; đồng thời kiến nghị hình thức kỉ luật đối với trường
hợp vi phạm nội qui, qui chế.
+ Xác nhận chế độ chính sách xã hội cho HSSV theo quy định hiện hành,
giới thiệu HSSV liên hệ với các đơn vị ngoài trường nhằm phục vụ trực tiếp
cho việc học tập, nghiên cứu khoa học của HSSV.
+ Triển khai phần mền quản lý HSSV: Nhập thông tin phiếu HSSV trúng
tuyển, kết quả rèn luyện và quá trình rèn luyện thực hiện quy chế học tập, sinh
hoạt, khen thưởng, kỉ luật của HSSV.
+ Triển khai hoạt động đánh giá sau đào tạo. Duy trì mối liên hệ và các
kênh thông tin liên lạc với cựu HSSV. Cập nhật thông tin vào phần mền quản
lý hồ sơ của cựu HSSV. Phối hợp tổ chức các hoạt động quảng bá, đào tạo,
nghiên cứu khoa học liên quan đến cựu HSSV.
+ Phối hợp với Y tế cơ quan kiểm tra vệ sinh thực phẩm, vệ sinh chung
tại nhà ăn của Trường, giải quyết kịp thời các yêu cầu phục vụ cho sinh hoạt
của HSSV.
+ Phối hợp với Đoàn TNCSHCM, Hội sinh viên, các phòng chức năng
để tạo điều kiện và tổ chức cho HSSV tham gia các hoạt động văn hoá văn

nghệ, thể dục thể thao, các câu lạc bộ và các hoạt động giải trí lành mạnh khác.
+ Cùng với Ban quản lý KNT, phòng Quản tri – Đời sống và bộ phận
bảo vệ chủ động phối hợp với chính quyền nơi Trường đóng để giữ gìn an ninh


21
chính trị, trật tự an toàn xã hội, phòng chống các tệ nạn xã hội, mối quan hệ
giữa học sinh, sinh viên của Trường với sinh viên các trường khác và với nhân
dân địa phương.
+ Tham gia công tác nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ.
+ Theo dõi, tổng hợp số liệu, thống kê, báo cáo định kì và đột xuất theo
yêu cầu của cấp trên và các đơn vị liên quan.
+ Thực hiện nhiệm vụ khác được Hiệu trưởng phân công.
1.2.2. Quản lý và quản lý công tác học sinh - sinh viên
1.2.2.1. Quản lý
Hoạt động quản lý (QL) bắt nguồn từ sự phân công hợp tác lao động.
Chính sự phân công, hợp tác lao động nhằm đến hiệu quả nhiều hơn, năng suất
cao hơn trong công việc, đòi hỏi phải có sự chỉ huy phối hợp, điều hành, kiểm
tra, chỉnh lý..., phải có người đứng đầu. Đây là hoạt động giúp người thủ
trưởng phối hợp nỗ lực của các thành viên trong nhóm, trong cộng đồng, trong
tổ chức đạt được mục tiêu đề ra. Nói đến hoạt động này, người ta thường nhắc
đến ý tưởng sâu sắc của Các - Mác : "Một nghệ sĩ vĩ cầm thì tự điều khiển
mình, còn dàn nhạc thì cần nhạc trưởng".
Thuật ngữ "Quản lý" lột tả được bản chất hoạt động này trong thực tiễn.
Nó gồm hai quá trình tích hợp vào nhau : quá trình "Quản" gồm sự coi sóc, giữ
gìn, duy trì hệ ở trạng thái ổn định; quá trình "Lý" gồm sự sửa sang, sắp xếp,
đổi mới, đưa hệ vào thế "phát triển". Nếu người đứng đầu tổ chức chỉ lo việc
"Quản", tức là chỉ lo việc coi sóc, giữ gìn, thì tổ chức dễ trì trệ. Ngược lại, nếu
chỉ quan tâm đến việc "Lý", tức là chỉ lo việc sắp xếp tổ chức, đổi mới mà
không đặt trên nền tảng của sự ổn định, thì sự phát triển của tổ chức không bền

vững. Trong "quản" phải có "lý", trong 'lý" phải có "quản" để động thái của hệ
ở thế cân bằng động: Hệ vận động phù hợp, thích ứng và có hiệu quả trong mối
tương tác giữa các nhân tố bên trong (nội lực) với các nhân tố bên ngoài (ngoại
lực).
QL đó là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể
(người QL, tổ chức QL) lên khách thể (đối tượng QL) về các mặt chính trị , văn


22
hoá, xã hội, kinh tế… bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các
nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường
và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng. Nói một cách khái quát: QL là quá
trình tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp qui luật của chủ thể QL đến
khách thể QL nhằm đạt tới các mục tiêu đề ra. Mục tiêu QL là trạng thái tương
lai, là cái đích phải đi tới của QL, nó định hướng và chi phối sự vận động của
toàn bộ hệ thống QL. Mục tiêu phải xác định trước, để chi phối dẫn dắt cả chủ
thể và đối tượng QL trong toàn bộ quá trình hoạt động. Xác định mục tiêu đúng
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với hoạt động QL.
Mục tiêu QL có nhiều loại, nhiều cấp, nhiều thứ bậc với những khoảng
thời gian khác nhau. Cụ thể hoá mục tiêu đó là nhiệm vụ của các nhà QL, lãnh
đạo. Khi đã xác định được mục tiêu người QL còn phải tìm ra động lực trong
QL. Động lực là yếu tố quyết định của sự vận động, phát triển của toàn bộ hệ
thống QL nhằm đạt tới mục tiêu đã xác định. Không có động lực thì không có
sự phát triển. Động lực có thể là động lực bên trong, bên ngoài, có thể là trực
tiếp hoặc gián tiếp. Người QL phải biết khơi dậy mọi nguồn động lực để hướng
vào mục tiêu chung nhằm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Mục tiêu và động
lực trong QL có mối quan hệ đặc biệt: Mục tiêu đúng trở thành động lực, mục
tiêu sai hoặc không phù hợp sẽ triệt tiêu động lực, không tạo ra sức mạnh tổng
hợp.
Cũng cần phân biệt hai thuật ngữ: lãnh đạo và QL. Cả hai thuật ngữ này

sử dụng cho hệ thống QL con người và xã hội, chúng không đồng nhất và giải
thích tuỳ thuộc vào lĩnh vực nghiên cứu; cả hai thuật ngữ đều hàm ý tác động
và điều khiển nhưng khác nhau về mức độ và phương pháp điều hành. Lãnh
đạo là quá trình định hướng dài hạn cho chuỗi tác động của chủ thể QL, là QL
những mục tiêu rộng hơn, xã hơn, khái quát hơn.
1.2.2.2. Quản lý công tác học sinh - sinh viên
QL là một khoa học, vì có đối tượng nghiên cứu, có một hệ thống lý
thuyết, có một hệ thống phương pháp luận và có ứng dụng rộng rãi. QL là chức
năng vốn có của mọi tổ chức, là một khoa học liên ngành vì nó sử dụng tri thức


×