Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Một số giải pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở các trường mầm non quận gò vấp, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (750.68 KB, 116 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ HOÀNG MAI

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ CƠNG TÁC
XÃ HỘI HỐ GIÁO DỤC Ở CÁC TRƯỜNG MẦM
NON QUẬN GÒ VẤP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 60.14.01.14

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Đinh Xuân Khoa

NGHỆ AN, NĂM 2015


2

LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện và hoàn thành đề tài Luận văn này, tôi đã nhận được sự hỗ
trợ, giúp đỡ và tạo điều kiện từ nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân. Luận văn
cũng được hoàn thành dựa trên sự tham khảo, học tập kinh nghiệm từ các kết
quả nghiên cứu liên quan, các tạp chí chuyên ngành của nhiều tác giả ở các
trường Đại học, các tổ chức nghiên cứu, tổ chức chính trị… Đặc biệt là sự
hợp tác của cán bộ, giáo viên, nhân viên các trường Mầm non quận Gị Vấp,
Thành phố Hồ Chí Minh đồng thời là sự giúp đỡ, tạo điều kiện về vật chất và


tinh thần từ phía gia đình, bạn bè và các đồng nghiệp.
Trước hết, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến GS.TS Đinh Xuân
Khoa - người hướng dẫn khoa học đã trực tiếp dành nhiều thời gian, cơng sức
hướng dẫn tơi trong q trình thực hiện nghiên cứu và hồn thành Luận văn.
Tơi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu cùng toàn thể các thầy cơ giáo
đã tận tình truyền đạt những kiến thức q báu, giúp đỡ tơi trong q trình học
tập và nghiên cứu.
Tuy có nhiều cố gắng, nhưng trong Luận văn khơng tránh khỏi những
thiếu sót, hạn chế. Tơi kính mong Q thầy cô, các chuyên gia, những người
quan tâm đến đề tài, đồng nghiệp và bạn bè tiếp tục có những ý kiến đóng
góp, giúp đỡ để đề tài được hồn thiện hơn.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn./.
Người thực hiện

Nguyễn Thị Hoàng Mai


3

MỤC LỤC
Nội dung
- LỜI CẢM ƠN
- MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ CÔNG TÁC XÃ HỘI
HÓA GIÁO DỤC Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON
1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
1.2. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA ĐỀ TÀI
1.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC Ở CÁC
TRƯỜNG MẦM NON

1.4. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUẢN LÝ CƠNG TÁC XÃ HỘI HỐ GIÁO
DỤC Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON

Kết luận chương 1
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CƠNG TÁC XÃ HỘI HĨA
GIÁO DỤC Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON QUẬN GÒ VẤP, THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI,
TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ, VĂN HÓA GIÁO DỤC CỦA QUẬN GỊ
VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CƠNG TÁC XÃ HỘI HĨA GIÁO DỤC Ở
CÁC TRƯỜNG MẦM NON QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Kết luận chương 2
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ CƠNG TÁC XÃ HỘI HĨA
GIÁO DỤC Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON QUẬN GỊ VẤP, THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1. NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG GIẢI PHÁP
3.2. CÁC GIẢI PHÁP QUẢN LÝ XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC Ở CÁC
TRƯỜNG MẦM NON QUẬN GỊ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.3. MỐI LIÊN HỆ GIỮA CÁC GIẢI PHÁP
3.4. THĂM DÒ SỰ CẦN THIẾT VÀ TÍNH KHẢ THI CỦA CÁC GIẢI
PHÁP ĐỀ XUẤT

Kết luận chương 3

Trang

01
06

12
20
24
34

35
40
68

69
70
92
93
98

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận
2. Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

99
100
103
106


4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội hoá giáo dục là một chủ trương lớn, có tầm chiến lược của Đảng
và Nhà nước, tạo động lực và phát huy mọi nguồn lực để phát triển một nền
giáo dục tiên tiến, chất lượng ngày càng cao trên cơ sở có sự tham gia của toàn
xã hội. Là một trong những phương thức thực hiện để mọi người dân đều có cơ
hội được học tập.
Nghị quyết số 90/CP ngày 21 tháng 8 năm 1997 về phương hướng và
chủ trương xã hội hóa giáo dục đã chỉ rõ và điều đó lại được nhấn mạnh trong
Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2011-2020: “Huy động nguồn lực
của các ngành, các cấp, các tổ chức kinh tế - xã hội và cá nhân để phát triển
giáo dục và đào tạo. Tăng cường quan hệ của nhà trường với gia đình và xã
hội. Huy động trí tuệ, nguồn lực của tồn ngành, tồn xã hội vào việc đổi mới
nội dung, chương trình thực hiện giáo dục tồn diện. Ban hành cơ chế chính
sách cụ thể khuyến khích và qui định trách nhiệm các ngành, địa phương, các
tổ chức kinh tế - xã hội và người sử dụng lao động tham gia xây dựng trường,
hỗ trợ kinh phí cho người học, thu hút nhân lực đã được đào tạo và giám sát
các hoạt động giáo dục”. Xã hội hóa giáo dục là con đường cơ bản lâu dài
giúp giải quyết những vấn đề lớn của giáo dục như đầu tư phát triển, dân chủ
hóa, trường học thân thiện, chất lượng và hiệu quả giáo dục, mạng lưới và cơ
cấu giáo dục…, thậm chí cả nâng cao nhận thức lí luận và kinh nghiệm quản
lí trong giáo dục.
Các Nghị quyết Trung ương 4 (khoá VII), Nghị quyết Trung ương 2
(khoá VIII), Kết luận hội nghị Trung ương 6 (khoá IX), Nghị quyết Trung ương
(khoá X) cũng đã khẳng định: "Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, coi giáo dục là sự
nghiệp của toàn dân là một giải pháp quan trọng để tiếp tục phát triển giáo dục".


5


Chủ trương xã hội hoá giáo dục là xuất phát từ quan điểm coi giáo dục là sự
nghiệp của Đảng, của Nhà nước và của nhân dân.
Luật Giáo dục – 2005 đã xác định: “Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong
phát triển sự nghiệp giáo dục; thực hiện đa dạng hóa các loại hình trường và
các hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức,
cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục. Mọi tổ chức, gia đình và cơng
dân đều có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, phối hợp với nhà trường
thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng mục tiêu giáo dục lành mạnh và an
toàn”.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại
hố, địi hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao. Vì vậy, phải phát triển
mạnh mẽ quy mơ giáo dục đào tạo, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao
của nhân dân. Trong điều kiện Nhà nước chưa đủ sức và khơng thể bao cấp
tồn bộ sự nghiệp phát triển giáo dục thì xã hội hố giáo dục là một trong
những phương thức cơ bản để phát triển giáo dục. Công tác quản lý, chỉ đạo,
phát triển giáo dục đào tạo cần phải gắn với công tác vận động xã hội, sao cho
mọi người đều quan tâm và tham gia vào sự nghiệp giáo dục nói chung và
quan tâm đến giáo dục cấp học mầm non nói riêng. Nhất là trong bối cảnh
hiện nay, khi đất nước ta đã tham gia vào tổ chức thương mại thế giới - WTO
thì giáo dục phải được coi như là một nhân tố then chốt để đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài, góp phần vào xây dựng, phát triển nền kinh tế nước nhà
bền vững.
Vì vậy, cùng với việc tăng cường đầu tư cho giáo dục từ nguồn ngân
sách Nhà nước, cần làm tốt cơng tác xã hội hố giáo dục nhằm tạo sự chuyển
biến mạnh mẽ, toàn diện và vững chắc đối với sự nghiệp giáo dục, thể hiện
quan điểm của Đảng "coi Giáo dục và Đào tạo là quốc sách hàng đầu".


6


Trong những năm qua, chủ trương thực hiện công tác xã hội hóa của
ngành Giáo dục và Đào tạo quận Gị Vấp đã được Đảng, chính quyền và nhân
dân quan tâm, hưởng ứng tích cực và thực sự đi vào cuộc sống. Quy mô phát
triển giáo dục tăng, ngân sách đầu tư cho giáo dục không ngừng phát triển.
Tuy nhiên cơng tác giáo dục vẫn cịn gặp nhiều khó khăn khi thực hiện nhiệm
vụ trong tình hình mới: Cơ sở vật chất, trang thiết bị còn hạn chế, lạc hậu; đội
ngũ giáo viên thiếu, đời sống giáo viên còn gặp khó khăn. Một số địa
phương cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể, cha mẹ chưa nhận thức đầy
đủ về vị trí tầm quan trọng của giáo dục. Nhận thức trong một số cán bộ,
giáo viên về công tác xã hội hố giáo dục cịn phiến diện khơng đầy đủ,
nên chưa huy động được các nguồn lực, các lực lượng xã hội tham gia phối
hợp trong công tác giáo dục.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Một số giải pháp quản
lý cơng tác xã hội hóa giáo dục ở các trường Mầm non quận Gò Vấp,
Thành phố Hồ Chí Minh” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải pháp quản
lý cơng tác xã hội hóa giáo dục ở các trường Mầm non quận Gò Vấp, Thành
phố Hồ Chí Minh, nhằm mục đích nâng cao chất lượng và hiệu quả chăm sóc,
giáo dục trong bối cảnh đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo như
nghị quyết đại hội XI của Đảng.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Vấn đề quản lý cơng tác xã hội hóa giáo dục ở các trường Mầm non.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp quản lý cơng tác xã hội hóa giáo dục ở các trường Mầm non
quận Gị Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.


7


4. Giả thuyết khoa học
Nếu áp dụng đồng bộ hệ thống giải pháp khoa học và có tính khả thi do
chúng tơi đề xuất, cơng tác xã hội hóa giáo dục bậc học mầm non quận Gò
Vấp sẽ được phát huy và quản lý tốt góp phần nâng cao chất lượng và hiệu
quả chăm sóc, giáo dục của bậc học.
5. Nhiệm vụvà phạm vi nghiên cứu
5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu

5.1.1. Xác định cơ sở lý luận việc quản lý công tác xã hội hóa các
trường Mầm non.
5.1.2. Phân tích thực trạng quản lý cơng tác xã hội hóa giáo dục ở các
trường Mầm non quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
5.1.3. Đề xuất các giải pháp quản lý cơng tác xã hội hóa giáo dục ở các
trường Mầm non quận Gị Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
5.1.4. Rút ra kết luận và một số đề xuất.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
5.2.1. Các trường Mầm non quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
5.2.2. Dưới góc độ quản lý giáo dục: Nghiên cứu các giải pháp quản lý
công tác xã hội hóa giáo dục ở các trường Mầm non quận Gị Vấp, Thành phố
Hồ Chí Minh.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu tài liệu, các
văn kiện đại hội Đảng.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Điều tra thực trạng đội ngũ giáo viên, quan sát sư phạm, phương pháp
đàm thoại, tổng kết kinh nghiệm…
- Trao đổi, toạ đàm, tham khảo kinh nghiệm quản lý cơng tác xã hội
hóa giáo dục ở các trường Mầm non quận Gị Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.



8

- Tham khảo ý kiến chuyên gia.
6.3. Nhóm phương pháp khác bổ trợ cho luận văn:
Thống kê toán học để xử lý số liệu, tăng tính thuyết phục.
7. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống các vấn đề lý luận quản lý cơng tác xã hội hóa giáo dục ở
các trường Mầm non.
- Phản ánh được thực trạng quản lý cơng tác xã hội hóa giáo dục ở các
trường Mầm non quận Gị Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề xuất những giải pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở các
trường Mầm non quận Gị Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh có tính cấp thiết và
khả thi.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị và tài liệu tham khảo, luận văn
được chia thành 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý cơng tác xã hội hóa giáo dục ở các
trường Mầm non.
Chương 2: Thực trạng quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở các
trường Mầm non quận Gị Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Một số giải pháp quản lý cơng tác xã hội hóa giáo dục ở các
trường Mầm non quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.


9

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ CÔNG TÁC XÃ HỘI HÓA
GIÁO DỤC Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON

1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

1.1.1. Nghiên cứu xã hội hóa giáo dục và quản lý xã hội hoá giáo
dục ở nước ngoài
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, nó nảy sinh, phát triển và
tồn tại cùng với xã hội loài người. Giáo dục phát triển bởi sự chi phối của
chính nền kinh tế - xã hội và ngược lại. Bằng việc thực hiện những chức năng
của mình, giáo dục có vai trị to lớn trong việc tái sản xuất sức lao động, đóng
góp thúc đẩy phát triển xã hội. Để tìm hiểu xã hội hóa giáo dục các quốc gia
trên thế giới, chúng tôi điểm qua một số nước như:
Hệ thống giáo dục Hoa Kỳ ngày nay bao gồm khoảng 96.000 trường
Mầm non, Tiểu học và Trung học, cộng với hơn 4.200 trường Đại học, tính từ
các trường Đại học cỡ nhỏ hệ 2 năm cho đến các trường Đại học tiểu bang cỡ
lớn với các chương trình bậc cử nhân, cao học và tiến sĩ có sỉ số từ 30.000
sinh viên trở lên. Trong số các trường Đại học, loại trường Đại học công tiểu
bang (state universities) thường có quy mơ lớn hơn, bởi vì trên thực tế thì các
trường này chiếm hơn phân nửa sỉ số sinh viên Đại học trên toàn quốc. Các
trường Đại học tại Hoa Kỳ cạnh tranh nhau rất mạnh mẽ, một phần cũng là
nhờ ở tính tự trị trong ngân sách của mỗi trường. Sự kiện này cũng giải thích
tại sao nhiều trường Đại học tại Hoa Kỳ có chất lượng giáo dục rất cao so với
các học viện khác trên thế giới. Chi phí hằng năm dành cho hệ thống giáo dục
tại Hoa Kỳ, tính trung bình, lên tới mức $878 tỉ. Như vậy, chính phủ Hoa Kỳ
hàng năm dành nhiều chính sách cho giáo dục nhằm xã hội hóa giáo dục cho
quốc gia. Điều này cho thấy, một trong những giải pháp của hoa Kỳ nhằm


10

tăng cường xã hội hóa giáo dục đó là sự đầu tư tài chính như xây dựng cơ sở
vậy chất, trang thiết bị trường học, phát triển công nghệ giáo dục...

Tại Singapore có 160 trường Mầm non. Bậc Mầm non được coi là bậc
học quan trọng của hệ thống giáo dục. Bộ Giáo dục của nước này đã đưa ra
chính sách “Giáo dục tích cực”, kêu gọi giáo viên xây dựng các chiến lược
hiệu quả để kích thích tinh thần học tập của trẻ ngay từ khi các em mới bước
chân vào trường học. Theo đó, các trường Mầm non sẽ cải thiện chương trình
giảng dạy và phương pháp đánh giá chất lượng. Để hỗ trợ việc đổi mới giáo
dục, Bộ Giáo dục Singapore đầu tư 1/3 ngân sách cho giáo dục Mầm non
trong tổng số ngân sách giáo dục. Đất đai ở Singapore là một tài sản vô cùng
quý giá nhưng phần lớn số tài sản này dành cho các trường học. Các trường
Mầm non ở Singapore đều phải đạt chuẩn về mơi trường, phịng ốc, sân tập,
phịng tập đa năng rộng rãi, bao gồm cả học kỹ năng và học âm nhạc, múa,
võ, bơi... chuyên nghiệp đáp ứng được năng khiếu của trẻ em. Để có được
điều này, các trường luôn tạo môi trường thân thiện, cởi mở với phụ huynh,
gắn bó phụ huynh với nhà trường qua các hoạt động do trường tổ chức. Chính
vì vậy, mỗi phụ huynh đều thấy rõ việc chung tay xây dựng trường là điều cần
thiết để phục vụ cho nhu cầu của trẻ và vì trẻ.
Trước đây, thế giới biết đến Phần Lan là xứ sở của hoa TuLip, còn giáo
dục hầu như biết rất ít về Phần Lan. Nhưng hơn 10 năm trở lại đây, cả thế giới
đều biết và ngưỡng mộ Phần Lan bởi hai sự kiện chính: Điện thoại Nokia và
thành tích nổi bật trong giáo dục. Giáo dục Phần Lan tạo ra cơ hội bình đẳng
cho tất cả mọi cấp học. Mạng lưới nhà trường rộng lớn và các dịch vụ khơng
có bất kì một sự phân biệt nào. Giáo dục cơ bản là hoàn chỉnh và miễn phí.
Ở Indonexia, ngồi hệ thống giáo dục nhà trường, họ cịn coi trọng
các loại hình giáo dục ngồi nhà trường; ở gia đình; xã hội; các doanh


11

nghiệp; các trường Đại học mở với nhiều chương trình đa dạng phục vụ
phát triển cộng đồng và mọi tầng lớp xã hội.

Thái Lan: Chính phủ Vương quốc Thái Lan đã và đang thực hiện
chính sách đa dạng hố các loại hình đào tạo, đào tạo nghề nghiệp - kỹ
thuật, tổ chức nhiều loại hình nghề nghiệp chính quy và phi chính quy để
thích ứng nhu cầu nhân lực của thị trường lao động trong q trình cơng
nghiệp hóa đất nước.
Đối với Trung quốc, Chính phủ Trung Quốc đặt ra chiến lược “Làm
cho đất nước giàu mạnh thông qua khoa học và giáo dục”. Với phương
châm “ Giáo dục phải hướng tới hiện đại hoá, hướng tới thế giới, hướng
tới tương lai”. Chính sách phát triển giáo dục của Trung Quốc hiện nay có
thể khái qt: Đầu tư chi phí cao cho giáo dục phải được coi là chính sách
quốc gia hàng đầu, đầu tư cho giáo dục phải được xem như đầu tư phát triển
cho sản xuất. Phát triển giáo dục chuyên nghiệp theo hướng đáp ứng nhu cầu
nhân lực đủ chuẩn, phát triển giáo dục theo hoàn cảnh địa phương. Đảm bảo
sự tham gia rộng rãi của cộng đồng vào việc quản lý giáo dục và đầu tư cho
giáo dục.
Nhật Bản: Đã đạt được những thành tựu ''khổng lồ'' về mặt kinh tế khoa học công nghệ, chủ yếu là do nước Nhật đã phát huy cao độ, mạnh mẽ
nội lực của tồn dân tộc, thơng qua chính sách giáo dục và đào tạo. Từ năm
1971, Nhật Bản đã thành lập Bộ Giáo dục và thành lập hệ thống giáo dục
mới, hệ thống giáo dục đã đề ra chính sách: Đối với các trường Tiểu học bắt
buộc thì sự ''bình đẳng'' là ngun tắc tối cao. Cịn đối với các trường sơ,
trung và cao thì nguyên tắc tài năng là cao nhất. Quan điểm này khơng những
xố bỏ sự bất bình đẳng trong xã hội về giáo dục, mà còn tạo ra sự phát triển
tiềm năng của con người.


12

1.1.2. Nghiên cứu xã hội hóa giáo dục và quản lý cơng tác xã hội
hố giáo dục mầm non ở Việt Nam
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học và tơn sư trọng đạo.

Dù trong bất cứ hồn cảnh nào các bậc cha mẹ cũng mong muốn cho con cái
mình được học hành nên người. Truyền thống hiếu học ấy thể hiện ở chỗ
nhân dân ta rất coi trọng việc học, quý mến thầy giáo và quan tâm đến công
tác giáo dục thế hệ trẻ. Dưới thời phong kiến và Pháp thuộc, tuy Nhà nước chỉ
mở trường dạy học dành cho con em các quan lại, các nhà chức trách và con
cái nhà giàu nhưng đại bộ phận nhân dân lao động cũng đã tự lo liệu để cho
con em mình được đi học bằng cách gửi con cho các thầy đồ dạy hoặc do dân
tự mở lớp mời thầy về dạy.
Trải qua nhiều thời kỳ, nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, xã hội hóa
giáo dục ở nước ta đã có những bước phát triển mới. Từ khi Đảng Cộng Sản
Việt Nam ra đời, lãnh đạo Cách mạng tháng 8 thành công, quan điểm giáo
dục của Đảng và Bác Hồ đã được khởi xướng và dấy lên nhiều phong trào
học tập rầm rộ. Khẩu hiệu “Diệt giặc dốt” và sắc lệnh thành lập Nha bình dân
học vụ của Chính phủ đã mở đầu cho nền giáo dục của dân, do dân và vì dân.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, giáo dục là một bộ phận của cách
mạng, do đó giáo dục cũng là sự nghiệp của quần chúng. Đáp ứng lời kêu gọi
diệt giặc dốt của Bác Hồ và Chính phủ, phong trào học tập được nhân dân
hưởng ứng sôi nổi, phong trào lan ra rộng khắp từ thành thị đến nông thôn,
đâu đâu cũng có người đi học, đâu đâu cũng có các lớp xóa nạn mù chữ.
Ngày 9/12/1981 Bộ Giáo dục ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động
của Hội đồng giáo dục các cấp chính quyền ở địa phương nhưng mãi đến
Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1986), với đường lối đổi mới
của Đảng, đất nước ta bắt đầu chuyển mình để bước sang một thời kỳ mới,
thời kỳ đổi mới tư duy trên các lĩnh vực mà trước tiên là lĩnh vực kinh tế


13

hàng hóa - kinh tế thị trường với xu thế mở cửa. Hoàn cảnh khách quan và
chủ quan đã đặt ra nhiều thời cơ và thách thức mới đòi hỏi nền giáo dục

Việt Nam phải phát triển với tốc độ cao, đạt tới trình độ phù hợp, đáp ứng
nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Quan điểm đa dạng hóa, đa phương hóa
trong giáo dục vốn có được tiếp tục khơi dậy và nâng cao lên một tầm mới.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai của Ban chấp hành Trung ương khóa
VIII đã chính thức đề cập đến nội dung của cơng tác xã hội hóa giáo dục:
“Nhà nước cần đầu tư nhiều hơn cho giáo dục nhưng vấn đề rất quan trọng là
phải quán triệt sâu sắc và tiến hành tốt các nguồn đầu tư, mở rộng phong trào
xây dựng, phát triển giáo dục trong nhân dân, coi giáo dục là sự nghiệp của
toàn xã hội… Phải coi đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng chính
của đầu tư phát triển… Phải coi đầu tư cho phát triển là một trong những
hướng chính, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước và phục vụ đắc lực cho sự
phát triển kinh tế - xã hội. Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các
tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý
của của Nhà nước” [34, tr 61]. Như vậy, xã hội hóa giáo dục là một hệ thống
định hướng hoạt động của mọi người, mọi lực lượng xã hội nhằm trả lại bản
chất xã hội cho giáo dục, trả lại nhiệm vụ xã hội cho chính giáo dục, nhằm
xây dựng một xã hội học tập.
Với quan điểm “lấy con người làm trung tâm của sự phát triển", giáo
dục và đào tạo là "Quốc sách hàng đầu", huy động toàn xã hội làm giáo dục,
động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân
dưới sự quản lý của nhà nước, chủ trương này là hoàn toàn đúng đắn, là thực
hiện Nghị quyết của Đảng về công tác giáo dục. "Giáo dục là sự nghiệp của
quần chúng", quá trình giáo dục thế hệ trẻ trở thành người lao động có tri
thức, có năng lực đáp ứng sự phát triển của nền kinh tế - xã hội không chỉ là
trách nhiệm của ngành giáo dục, mà là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân,


14

phải có sự tham gia tích cực phối hợp chặt chẽ của toàn xã hội. Sự tham gia

phối hợp ấy phải được tiến hành có tổ chức, khoa học, liên tục mới mang lại
hiệu quả.
Xác định vị trí, vai trị, tầm quan trọng, sự cần thiết thực hiện công tác
xã hội hoá giáo dục, nhiều Nghị quyết, Văn kiện của Đảng chỉ đạo thực hiện
xã hội hoá giáo dục:
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt nam lần thứ
VII có ghi: "Khoa học và giáo dục đóng vai trị then chốt trong tồn bộ sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, là động lực đưa đất
nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới"…,
"Đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và cơng nghệ,
coi đó là quốc sách hàng đầu, để phát huy nhân tố con người, động lực trực
tiếp của sự phát triển đổi mới nhanh cơ chế quản lý giáo dục và đào tạo, khoa
học và công nghệ phù hợp với nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, gắn chặt sự phát triển các lĩnh vực này với sản xuất và mục
tiêu kinh tế - xã hội. Một mặt Nhà nước đầu tư, mặt khác có chính sách để
tồn dân, các thành phần kinh tế cùng làm và đóng góp vào sự nghiệp này"
[32, tr.79 và 121].
Hệ thống quan điểm của Đảng và các chính sách của Nhà nước ta về xã
hội hóa giáo dục thực chất là khẳng định tư tưởng chiến lược của Đảng trong
quá trình phát triển giáo dục và đào tạo. Q trình đó đã chứng minh rằng, xã
hội hóa giáo dục khơng phải là giải pháp tình thế khi nền kinh tế đất nước cịn
khó khăn, điều kiện đầu tư cho giáo dục còn hạn hẹp, mà là một chủ trương
chiến lược lâu dài, xuyên suốt toàn bộ quá trình phát triển giáo dục, ngay cả
đến khi nước ta phát triển thành một nước cơng nghiệp, có thu nhập quốc dân
cao gấp nhiều lần so với hiện nay.


15

Trong cuốn "Xã hội hố cơng tác giáo dục", tác giả Phạm Tất Dong đã

nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác này. Các nhà nghiên cứu khác như
Nguyễn Mậu Bành, Võ Tấn Quang, Trần Kiểm, Thái Duy Tuyên, Lê Đức
Phúc… có nhiều bài viết về cơng tác xã hội hoá giáo dục. Viện khoa học Giáo
dục nhiều năm qua đã tiến hành hệ thống đề tài nghiên cứu về xã hội hoá giáo
dục.
Sau khi khái quát các nghiên cứu về xã hội hố giáo dục và quản lý
cơng tác xã hội hoá giáo dục, quản lý xã hội hoá giáo dục mầm non ở trong và
ngoài nước tác giả khẳng định: Xã hội hoá giáo dục và quản lý xã hội hoá
giáo dục, quản lý xã hội hoá giáo dục mầm non đã được các tác giả trong và
ngoài nước quan tâm nghiên cứu và có ý nghĩa lý luận và thực tiễn lớn lao
trong quản lý công tác xã hội hố giáo dục. Hiện nay chưa có cơng trình
nghiên cứu về quản lý cơng tác xã hội hố giáo dục ở các trường Mầm non
quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Nhằm góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục mầm non, hiệu quả quản lý công tác xã hội hoá giáo dục mầm non
trên địa bàn quận Gò Vấp nên tác giả chọn đề tài này để nghiên cứu.
1.2. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA ĐỀ TÀI

1.2.1. Khái niệm về xã hội hoá, xã hội hoá giáo dục
1.2.1.1. Khái niệm về xã hội hóa
Xã hội hóa là thuật ngữ đã được các nhà kinh tế học, xã hội học, giáo
dục học vào những năm đầu thế kỷ XX sử dụng nhằm biểu đạt một số vấn đề
thuộc các lĩnh vực nghiên cứu của mình.
Xã hội hóa là một khái niệm của nhân loại học và xã hội học, được hiểu
theo hai nghĩa:
- Là sự tham gia rộng rãi của cộng đồng xã hội vào một số hoạt động
mà trước đó chỉ có một ngành, một đơn vị chức năng nhất định thực hiện (ví
dụ: xã hội hóa giáo dục, xã hội hóa y tế…)


16


Ở nghĩa này Côlin Fasen đã chỉ rõ: Xã hội hố là một q trình động
viên mọi tầng lớp nhân dân tham gia tích cực và chủ động vào một lĩnh
vực xã hội nào đó, huy động hợp lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn
lực của Nhà nước và của nhân dân nhằm đạt được mục tiêu phát triển xã hội.
- Xã hội hoá dùng để chỉ quá trình chuyển biến từ con người sinh vật
sang con người xã hội. Ví dụ quan niệm của G.En Daweit cho rằng: Xã
hội hoá được hiểu chung như là một quá trình biện chứng, trong đó mỗi
người với tư cách là một thành viên của xã hội trở nên có năng lực hành
động trong xã hội và mặt khác, thông qua quá trình này duy trì và tái sản
xuất xã hội.
Khái niệm xã hội hóa được hiểu từ ý nghĩa thứ nhất của xã hội hoá.
Đề cập đến ý nghĩa này, tháng 10 năm 1998, Hội thảo quốc gia xây dựng
chiến lược vận động xã hội cho chương trình nước sạch và vệ sinh môi
trường do Bộ Y tế - Unicef tổ chức, cho rằng: Xã hội hoá là một quá trình
tập hợp tất cả các liên minh xã hội nhằm nâng cao nhận thức và nhu cầu
của người dân về một chương trình phát triển trong một lĩnh vực nhất định
để hỗ trợ cho việc cung ứng các nguồn lực và dịch vụ và để tăng cường sự
tham gia của cộng đồng một cách tự lực và bền vững.
1.2.1.2. Khái niệm về xã hội hóa giáo dục
Giáo dục được coi như là một đặc thù của đời sống xã hội, nó vừa nằm
trong lĩnh vực thuộc hình thái ý thức xã hội, kiến trúc thượng tầng, vừa nằm
trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ sản xuất thuộc hạ tầng cơ sở. Sự tồn
tại và phát triển của giáo dục chịu sự chi phối của sự phát triển kinh tế - xã
hội và ngược lại với chức năng của mình, giáo dục có vai trị hết sức to lớn
trong việc tái sản xuất sức lao động của xã hội; khơi dậy, thức tỉnh và phát
huy tiềm năng sáng tạo của mỗi con người, tạo ra môi trường cho sự phát
triển kinh tế - xã hội.



17

Xã hội hóa giáo dục thực chất là xã hội hố các hoạt động giáo dục,
xã hội hóa sự nghiệp giáo dục. Có thể nói một cách khái quát: Xã hội hố
giáo dục là một q trình mà cả cộng đồng và xã hội cùng tham gia vào
giáo dục. Trong đó mọi tổ chức, gia đình và cơng dân có trách nhiệm chăm
lo sự nghiệp giáo dục, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo
dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và an tồn.
Xã hội hố giáo dục, thuật ngữ này cho dù ở cấp độ nào đó đồng
nghĩa với thuật ngữ ''xã hội học tập''. Hai thuật ngữ này lần đầu tiên xuất
hiện trong báo cáo của UNESCO có tựa đề ''Học để tồn tại; thế giới giáo
dục hôm nay và ngày mai''. Nội dung của nó bao gồm hai khía cạnh song
hành, quan hệ mật thiết với nhau. Thứ nhất: Mọi tổ chức, mọi tập thể, mọi
cá nhân theo khả năng của mình đều có thể cung ứng cơ hội học tập cộng
đồng. Thứ hai: Mọi người dân trong cộng đồng đều có thể tận dụng cơ hội
để có thể có cơ hội học tập và tham gia phát triển giáo dục cộng đồng,
nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho bản thân.
Xã hội hố giáo dục khơng phải là một giải pháp tình thế nhất thời
chỉ được tổ chức thực hiện trong một thời gian nhất định mà là một tư
tưởng cách mạng chiến lược lâu dài. Điều 12, Luật giáo dục 2005 ghi rõ:
''Phát triển giáo dục, xây dựng xã hội học tập là sự nghiệp của Nhà nước
và của toàn dân; thực hiện đa dạng hố các loại hình trường và các hình
thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá
nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục” [12, tr.45].
Bản chất xã hội của xã hội hoá giáo dục là tổ chức thực hiện xây
dựng một nền giáo dục xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Giảm
bớt được gánh nặng và sự ''khoán trắng'' về đầu tư ngân sách cho giáo
dục. Bên cạnh đó, xã hội hố giáo dục chính là ''giáo dục cho tất cả mọi
người; tất cả mọi người cho sự nghiệp giáo dục'', đó là đưa giáo dục gắn



18

với xã hội, với cộng đồng; giáo dục phục vụ mục tiêu xã hội, phục vụ cộng
đồng. Cơ sở tư duy của xã hội hoá giáo dục là đặt giáo dục vào đúng vị trí
của nó. Giáo dục là bộ phận không thể tách rời của hệ thống xã hội. Giáo
dục cùng với khoa học công nghệ là động lực phát triển kinh tế xã hội.
Nội dung hoạt động xã hội hoá giáo dục được Đảng, Nhà nước đề
cập hết sức phong phú như: Huy động các nguồn lực tham gia vào q
trình đa dạng hố các loại hình trường, lớp, các loại hình học tập; tạo lập
và đẩy mạnh phong trào học tập rộng khắp trong xã hội, mọi thành viên
trong xã hội, không phân biệt tuổi tác, nghề nghiệp, vị trí đều được học,
học thường xuyên, học suốt đời; huy động các lực lượng xã hội tham gia xây
dựng môi trường giáo dục lành mạnh và quản lý giáo dục có hiệu quả. Q
trình này thể hiện tính chất dân chủ và bình đẳng của nền giáo dục nước
ta. Sự gắn kết giữa ba môi trường trong giáo dục: Nhà trường - gia đình - xã
hội, làm cho mọi người, mọi tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế,
các doanh nghiệp và mọi cá nhân trong xã hội nhận thức và tổ chức thực
hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trong sự nghiệp phát triển và quản lý
giáo dục. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, đổi mới cơ chế quản
lý sẽ là những biện pháp hữu hiệu để chống lại bốn tiêu cực trong ngành
giáo dục hiện nay: Tiêu cực trong thi cử; bệnh thành tích trong giáo dục;
học sinh ngồi ''nhầm lớp'' và vi phạm đạo đức nhà giáo.
Chủ trương xã hội hóa giáo dục của Đảng và Nhà nước đã và đang
thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của các Vụ, Viện, các Ban ngành của
Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như các ban ngành có liên quan. Nhiều
chun gia tâm huyết đã có những bài viết, cơng trình nghiên cứu xung
quanh vấn đề xã hội hóa giáo dục; Nguyên Bộ trưởng Phạm Minh Hạc
trong cuốn Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI đã khẳng định:
''Sự nghiệp giáo dục không phải chỉ là của Nhà nước mà là của toàn xã hội,



19

mọi người cùng làm giáo dục, Nhà nước và xã hội, trung ương và địa
phương cùng làm giáo dục” [13, tr.36].
Chuyên gia Nguyễn Trần Bạt trong bài ''Xã hội hoá giáo dục” (tài liệu
số 13 của Võ Tấn Quang (Chủ biên - 2001): Xã hội hoá giáo dục - NXB Đại
học quốc gia Hà Nội), sau khi nêu rõ: “Xã hội hóa giáo dục là tinh thần, là
nội dung quan trọng nhất của cải cách giáo dục, bảo đảm sự thành công
của cải cách giáo dục”, tác giả đã khẳng định: ''Xã hội hóa giáo dục có
nghĩa là Nhà nước tạo ra khơng gian xã hội, pháp luật và chính trị cho việc
hình thành một khu vực giáo dục mà ở đấy ai cũng có quyền đóng góp cho sự
nghiệp giáo dục, thực hiện sự cạnh tranh về chất lượng giáo dục, tức là giáo
dục phải thuộc về xã hội. Tác giả còn đề cập và nhấn mạnh: “Xã hội hóa
giáo dục khơng chỉ là đa dạng hố hình thức và các nguồn đầu tư cho Giáo
dục và Đào tạo, mà quan trọng nhất là đa dạng hoá nội dung hay đa dạng
hố, hiện đại hố chương trình giáo dục thích ứng với những địi hỏi của xã
hội” [14, tr.23].
Như vậy, xã hội hóa giáo dục là một tư tưởng chiến lược của Đảng và
Nhà nước, bản thân tư tưởng đó qua mỗi giai đoạn được phát triển, mở rộng
phong phú cả về hình thức và nội dung. Xã hội hóa giáo dục là một nhân tố
mới đã và đang phát huy sức mạnh đối với sự nghiệp phát triển giáo dục,
đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa –
hiện đại hóa đất nước. Chính xã hội hóa cơng tác giáo dục lại tạo ra những
những điều kiện, những tác nhân làm xuất hiện những nhân tố mới trong
quá trình đi lên của phong trào giáo dục. Những kinh nghiệm được rút ra từ
thực tiễn thực hiện xã hội hóa giáo dục, trên cơ sở đó nâng cao sự đổi mới
tư duy giáo dục, giải quyết kịp thời những vấn đề đặt ra của sự nghiệp phát
triển Giáo dục và Đào tạo.

1.2.2. Khái niệm về quản lý và quản lý công tác xã hội hóa giáo dục


20

1.2.2.1. Khái niệm về quản lý
Quản lý là một hiện tượng xuất hiện sớm, là một phạm trù tồn tại khách
quan được ra đời từ bản thân nhu cầu của mọi chế độ xã hội, mọi quốc gia
trong mọi thời đại mà qua đó có nhiều quan điểm khác nhau về quản lý:
Theo quan điểm điều khiển học: “Quản lý là chức năng của những hệ
có tổ chức, với bản chất khác nhau: Sinh học, xã hội học, kỹ thuật... Nó bảo
tồn cấu trúc các hệ, duy trì chế độ hoạt động. Quản lý là một tác động hợp
quy luật khách quan, làm cho hệ vận động, vận hành và phát triển” [1].
Theo quan điểm của lý thuyết hệ thống: “Quản lý là phương thức tác
động có chủ đích của chủ thể quản lý lên hệ thống, bao gồm các quy tắc, các
ràng buộc về hành vi đối với mọi đối tượng ở các cấp trong hệ thống nhằm
duy trì tính trội hợp lý của cơ cấu và đưa hệ thống sớm đạt tới mục tiêu”
[2,tr.88].
Trên là những quan điểm khác nhau về quản lý, tuy có cách tiếp cận
khác nhau nhưng tôi nhận thấy khái niệm quản lý bao hàm chung là:
Quản lý là các hoạt động thực hiện nhằm đảm bảo hồn thành cơng
việc qua những nổ lực của mọi người trong tổ chức.
Quản lý là một hoạt động thiết yếu, đảm bảo phối hợp những nổ lực
nhằm đạt được mục đích của nhóm.
Quản lý là phương thức tốt nhất để đạt được mục tiêu chung của một
nhóm người, một tổ chức, một cơ quan hay nói rộng hơn là một nhà nước.
Quản lý là quá trình tác động có định hướng, có tổ chức của chủ thể
quản lý lên đối tượng quản lý, thông qua các cơ chế quản lý, nhằm sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực trong điều kiện môi trường biến động để hệ thống ổn
định, phát triển, đạt được những mục tiêu đã định.

Như vậy theo tơi, khái niệm quản lý có thể được hiểu: Quản lý là một
quá trình tác động gây ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý


21

nhằm đạt được mục tiêu chung. Bản chất của quản lý là một loại lao động để
điều khiển lao động xã hội ngày càng phát triển, các loại hình lao động càng
phong phú, phức tạp thì hoạt động quản lý càng có vai trị quan trọng.
Để đạt được mục tiêu đã định, quản lý phải thông qua các chức năng
như: Lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra - đánh giá.
1.2.2.2. Khái niệm về quản lý công tác xã hội hóa giáo dục
Quản lý cơng tác xã hội hóa giáo dục là q trình chỉ đạo, điều hành
cơng tác xã hội hóa giáo dục; là hệ thống những tác động có ý thức, có mục
đích, có kế hoạch, phù hợp với quy luật của chủ thể quản lý đến các lực lượng
trong và ngoài ngành giáo dục nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục
tiêu giáo dục. Hay nói cách khác, đó là hệ thống các tác động có chủ đích của
chủ thể quản lý các cấp đến các đối tượng quản lý nhằm làm cho công tác xã
hội hóa giáo dục đạt được các mục tiêu dự kiến.
Quản lý xã hội hóa giáo dục cần phải mềm dẻo và linh hoạt để tạo được
những phong trào, định hướng phong trào, phát huy dân chủ trong nhân dân,
huy động mạnh mẽ nội lực của nhân dân và toàn xã hội để phục vụ cho sự
nghiệp phát triển giáo dục.
Trên cơ sở chức năng quản lý, chúng ta có thể xác định các nội dung
của cơng tác xã hội hóa giáo dục như sau:
- Lập kế hoạch;
- Tổ chức thực hiện kế hoạch;
- Chỉ đạo thực hiện kế hoạch;
- Kiểm tra, đánh giá kết quả.
1.2.3. Khái niệm về giải pháp và giải pháp quản lý công tác xã hội

hóa giáo dục ở các trường Mầm non
1.2.3.1. Khái niệm về giải pháp:


22

Theo Từ điển tiếng Việt, “Giải pháp là phương pháp giải quyết một vấn
đề cụ thể” [15; tr.387].
Còn theo Nguyễn Văn Đạm, “Giải pháp là toàn bộ những ý nghĩ có hệ
thống cùng với những quyết định và hành động theo sau, dẫn tới sự khắc phục
một khó khăn” [16; tr.325].
Để hiểu rõ hơn khái niệm giải pháp, chúng ta cần phân biệt nó với một
số khái niệm tương tự như phương pháp, biện pháp. Điểm giống nhau của
các khái niệm là đều nói về cách làm, cách tiến hành, cách giải quyết một
cơng việc, một vấn đề. Cịn điểm khác nhau ở chỗ, biện pháp chủ yếu nhấn
mạnh đến cách làm, cách hành động cụ thể, trong khi đó phương pháp nhấn
mạnh đến trình tự các bước có quan hệ với nhau để tiến hành một cơng việc
có mục đích.
Giải pháp là cách làm, cách thức tiến hành, cách giải quyết một vấn đề
cụ thể. Theo đó, biện pháp quản lý là cách thức chủ thể quản lý tiến hành sử
dụng các công cụ quản lý tác động vào việc thực hiện từng khâu của chức
năng quản lý trong mỗi quá trình quản lý nhằm tạo nên sức mạnh, tạo ra năng
lực thực hiện mục tiêu quản lý. Trong một giải pháp có thể bao gồm nhiều
biện pháp.
1.2.3.2. Khái niệm về giải pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục
ở các trường Mầm non
Quản lý trong việc thực hiện xã hội hóa giáo dục được hiểu là trách
nhiệm của chính quyền các cấp về các vấn đề:
- Hình thành thể chế xã hội hóa giáo dục (văn bản, chế định pháp luật).
- Tổ chức, chỉ đạo thực hiện xã hội hóa giáo dục.

- Giám sát, đơn đốc, kiểm tra việc triển khai và thực hiện xã hội hóa
giáo dục.


23

Giải pháp quản lý cơng tác xã hội hóa giáo dục: Là cách thức chủ thể
quản lý tiến hành sử dụng các công cụ quản lý tác động vào việc thực hiện
từng khâu của chức năng quản lý trong quá trình nhằm huy động được tồn xã
hội tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình giáo dục. Hay nói cách
khác, giải pháp quản lý cơng tác xã hội hóa giáo dục chính là hệ thống các
biện pháp, phương pháp, cách thức quản lý việc thực hiện công tác xã hội hóa
giáo dục nhằm huy động tồn thể xã hội tham gia một cách có hiệu quả vào
sự nghiệp giáo dục.
1.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI HOÁ GIÁO DỤC Ở CÁC
TRƯỜNG MẦM NON

1.3.1. Chức năng, nhiệm vụ của giáo dục mầm non trong hệ thống
giáo dục quốc dân
Giáo dục và Đào tạo là cốt lõi, là trọng tâm của chiến lược trồng người.
Phát triển giáo dục là nền tảng để tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao, là
động lực của sự nghiệp cơng nghiệp hố - hiện đại hố. Vì vậy Đảng ta đã
khẳng định "Giáo dục là quốc sách hàng đầu, trong đó giáo dục mầm non là
một bộ phận cấu thành của hệ thống giáo dục quốc dân, có vị trí rất quan
trọng trong sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực của đất nước”. Giáo dục mầm
non thực hiện việc chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục trẻ từ 03 tháng tuổi đến 06
tuổi. Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình
cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn
bị cho trẻ vào lớp Một; hình thành và phát triển ở trẻ những chức năng tâm
sinh lý, những kỹ năng sống phù hợp với lứa tuổi, đặt nền tảng cho việc học ở

các cấp học tiếp theo. Giáo dục mầm non là giai đoạn khởi đầu đặt nền mống
cho sự hình thành và phát triển nhân cách trẻ em, thời kỳ mầm non còn được
gọi là thời kỳ vàng của cuộc đời.


24

Giáo dục mầm non có những bước tiến vượt bậc khẳng định chỗ đứng,
vị trí của mình trong hệ thống giáo dục quốc dân. Hơn bao giờ hết, trong giai
đoạn hiện nay, Đảng và nhà nước đã dành sự quan tâm đặc biệt đến giáo dục
mầm non. Bên cạnh nhiều chủ chương chính sách về phát triển giáo dục mầm
non đã được ban hành như Quyết định 161 của Thủ tướng chính phủ, đề án
phát triển giáo dục mầm non 2006 – 2015, và mới đây là công bố thực hiện
Chương trình giáo dục mầm non của Bộ Giáo dục và Đào tạo; Luật sửa đổi bổ
sung một số điều của Luật giáo dục đã nêu rõ: Phổ cập giáo dục mầm non cho
trẻ 5 tuổi - Đây là văn bản quan trọng tạo hành lang pháp lý để giáo dục mầm
non giải quyết được những khó khăn, bất cập, có bước phát triển đột phá.
Với những minh chứng về nhiệm vụ, mục tiêu, tầm quan trọng, cũng
như sự phát triển của giáo dục mầm non, sự quan tâm của Đảng và nhà nước
đã một lần nữa khẳng định: Giáo dục mầm non có vị trí đặc biệt trong hệ
thống Giáo dục quốc dân.
1.3.2. Vai trò của giáo dục mầm non
Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc
dân, đặt nền mống cho sự phát triển về thể chất, nhận thức, tình cảm xã hội và
thẩm mỹ cho trẻ em. Những kỹ năng mà trẻ được tiếp thu qua chương trình
chăm sóc, giáo dục mầm non sẽ là nền tảng cho việc học tập và thành công
sau này của trẻ. Do vậy, phát triển giáo dục mầm non, tăng cường khả năng
sẵn sàng đi học cho trẻ là yếu tố quan trọng trong việc phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao cho đất nước.
Những năm đầu đời đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong việc hình

thành nhân cách và phát triển năng lực của trẻ, bởi tuy trẻ bẩm sinh đã có khả
năng tiếp thu học tập, não bộ đã được lập trình để tiếp nhận các thông tin cảm
quan và sử dụng để hình thành hiểu biết và giao tiếp với thế giới, nhưng
hướng học tập của trẻ có thể bị hạn chế bởi nhiều yếu tố như thể chất, nhận


25

thức và tình cảm xã hội. Việc được hưởng sự chăm sóc và phát triển tốt từ lứa
tuổi trẻ thơ sẽ góp phần tạo nền móng vững chắc cho sự phát triển trong
tương lai của trẻ. Giáo dục mầm non sẽ chuẩn bị cho trẻ những kỹ năng như
tự lập, sự kiềm chế, khả năng diễn đạt rõ ràng, đồng thời hình thành hứng thú
đối với việc đến trường tiểu học, tăng khả năng sẵn sàng để bước vào giai
đoạn giáo dục phổ thơng.
1.3.3. Cơng tác xã hội hố giáo dục ở các trường Mầm non
1.3.3.1. Xã hội hoá giáo dục mầm non tạo điều kiện cho mọi trẻ em
được tham gia học tập, góp phần nâng cao dân trí
Xã hội hoá giáo dục mầm non tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người có
hồn cảnh khác nhau đều có khả năng tham gia học tập.
Xã hội hoá giáo dục mầm non cịn là hình thức thực hiện cơng bằng xã
hội, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người đi học, xã hội hóa giáo dục là điều
kiện tốt nhất để cả cộng đồng có điều kiện giúp đỡ những người có hồn cảnh
khó khăn được tham gia học tập và khuyến khích nhân tài.
1.3.3.2. Xã hội hố giáo dục mầm non góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục mầm non, tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển nhân cách và
chuẩn bị tốt các điều kiện cho trẻ vào Tiểu học
Xã hội hoá giáo dục mầm non làm cho cộng đồng tham gia vào cụ thể
hoá vào mục tiêu giáo dục phù hợp với yêu cầu của địa phương, yêu cầu của
cộng đồng và các lực lượng có thể tham gia vào cải tiến nội dung, phương
pháp, xây dựng mơi trường thuận lợi cho giáo dục, vì vậy làm ảnh hưởng trực

tiếp tới chất lượng giáo dục.
Xã hội hoá giáo dục mầm non tạo điều kiện về cơ sở vật chất, thiết bị
dạy học, hỗ trợ đời sống giáo viên. Bên cạnh đó xã hội hố giáo dục còn tạo
điều kiện cho nhân dân tham gia đánh giá, giám sát các hoạt động của nhà
trường.


×